Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực ti...

Tài liệu Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
67
405
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN HẢI NAM BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Đoàn Hải Nam MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...............................................................................7 1.1 Những vấn đề lý luận liên quan đến bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.....................................................7 1.2 Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự ............................................................................17 1.3 Nội dung bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự .23 1.4 Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự .....................................................................................................27 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................33 2.1 Tổng quan thực trạng xét xử hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội33 2.2 Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội ....................34 2.3Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội......................................................................................................38 Chƣơng 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................................................................................46 3.1 Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.......................46 3.2 Giải pháp hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............49 3.3 Giải pháp đối với thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ..............................................................................................54 KẾT LUẬN ....................................................................................................61 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………... 62 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BLHS : Bộ luật Hình sự PLTTHS : Pháp luật Tố tụng hình sự TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người luôn được nội dung được coi trọng và đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người, quyền đó vẫn luôn luôn được ghi nhận và bảo đảm. Những nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền của bị cáo trong hoạt động tư pháp hình sự luôn được hoàn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong các văn bản pháp lí như Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Ở Việt Nam, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã chú trọng bổ sung thêm quyền cho bị cáo như quyền im lặng, quyền 1 đưa ra chứng cứ, tiếp cận đọc, ghi chép bản sao hồ sơ vụ án… để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền con người nói chung, quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (quyền tự nhiên có) với “quyền xã hội” (quyền do pháp luật qui định) tất yếu phải được pháp luật bảo vệ. Tại địa bàn thành phố Hà Nội, năm 2014, số lượng vụ án của hai cấp Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý là 26.705 vụ, giải quyết 25.811 vụ, đạt tỷ lệ 96,7%. Trong đó, tổng số vụ án hình sự thụ lý là 9.142 vụ; đã giải quyết 9.063 vụ. Là một trong những địa bàn có số lượng các vụ án hình sự lớn, tỷ lệ giải quyết án hình sự cao nhất cả nước, việc bảo đảm quyền con người đối với bị cáo hình sự trong hoạt động xét xử sơ thẩm tại các tòa án trên địa bàn là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động cải cách tư pháp. Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả thực tiễn bảo đảm quyền của bị cáo thông qua thực tiễn xét xử tại các tòa án tại thành phố Hà Nội là cần thiết nhằm đưa ra những giải pháp tiếp tục hoàn thiện thời gian tới. Với lí do kể trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” cho luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý nước ta cung như quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong tư pháp hình sự cụ thể là quyền của bị cáo đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và mức độ khác nha. Các công trình đó có thể được tổng quan thành các nhóm sau đây: Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người có các công trình: “Quyền con người trong thế giới hiện đại” (GS.TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay”( Đỗ Trung Hiếu); “Triết học chính trị về quyền con người” (Nguyễn Văn 2 Vĩnh); “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (GS.TS. Trần Ngọc Đường), “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người” (TS. Tường Duy Kiên);” Chuyên khảo “Quyền lực Nhà nước và quyền con người” (PGS. TS. Đinh Văn Mậu )… Dưới góc độ pháp luật chuyên ngành, cũng đã có nhiều công trình về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hoặc tư pháp hình sự được công bố. Trong số các công trình này có: Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Huy Hoàng; “Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự” (GS.TSKH. Lê Cảm); Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”; Báo cáo “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại Hội thảo về Quyền con người trong tố tụng hình sự (do Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức tháng 3-2010) của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; Luận án tiến sĩ “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Quang Hiền; Chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam" của TS. Trần Quang Tiệp; “Thực hiện dân chủ trong tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” (PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng); Chuyên khảo “Các nguyên tắc tố tụng hình sự” của PGS.TS. Hòang Thị Sơn và TS. Bùi Kiên Điện… Nghiên cứu cụ thể về vấn đề bảo đảm quyền con người của một đối tượng/ nhóm đối tượng trong lĩnh vực tố tụng hình sự như vấn đề bảo vệ quyền bào chữa của bị can, bị cáo được đề cập trong các công trình của 3 PGS.TS. Phạm Hồng Hải, vấn đề bảo đảm quyền con người trong các nguyên tắc của tố tụng hình sự được đề cập trong các công trình của PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn, hay vấn đề bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong áp dụng biện pháp ngăn chặn có TS. Nguyễn Văn Tuân, TS. Nguyễn Văn Điệp, TS. Nguyễn Mai Bộ. Đặc biệt có luận án tiến sĩ của NCS. Lại Văn Trình nghiên cứu về “Bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo và người bị tạm giữ trong Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Đại học Luật TP Hồ Chí Minh). Ngoài ra còn có một số tài liệu nước ngoài như Nguyên tắc bảo đảm quyền con người trong các nguyên tắc tố tụng hình sự (Principle of Criminal procedure của Neil Andrews); bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự (Human rights in the English criminal trial - Human rights in criminal procedure của K.W. Lidstone) hoặc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội (The guarantees for accused persons under Article 6 of the European Convention on Human Rights của Stephanos Stavros)… Tuy nhiên, thực tiễn nghiên cứu chưa có ấn phẩm, chưa có tài liệu nào nghiên cứu tổng thể các quy định về bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm ở thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích một số quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động thực thi pháp luật liên quan, phân tích đặc thù bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm tại các tòa án trên địa bàn Hà Nội đồng thời đưa ra các ý kiến góp phần 4 hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm trong điều kiện hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau: Một là, phân tích tổng quát các về đề lý luận về quyền con người, quyền của bị cáo, bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm. Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật về bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm của Việt Nam để rút ra các vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp luật liên quan. Ba là, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới quyền con người, quyền của bị cáo, bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm đồng thời nghiên cứu mở rộng tới các quy định về các thiết chế quản lý nhà nước liên quan tới hoạt động này. Ngoài ra, Luận văn còn nghiên cứu, phân tích thực tiễn bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử của tòa án thành phố Hà Nội nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những khía cạnh pháp lý của một số quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người 5 đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm. Nghiên cứu còn sử dụng thực tiễn áp dụng đối với thực tiễn xét xử tại các tòa án Hà Nội nhằm đánh giá về quy định pháp luật liên quan và đưa ra những quan điểm hoàn thiện tại Việt Nam hiện nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện hơn cả về nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn đối với các quy định liên quan đến bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm. Từ đó, những nội dung được đề cập trong luận văn này sẽ là một trong những tài liệu khoa học hữu ích cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước, kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn được kết cấu gồm 03 Chương: Chương 1. Lý luận chung về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận liên quan đến bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người Quyền con người có quá trình phát triển rất lâu đời trong lịch sử nhân loại, có nội dung rộng lớn, là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý..., là sự kết hợp của các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại. Đến nay, có khoảng 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Liên Hợp Quốc luôn coi quyền con người là vấn đề cấp thiết trên toàn thế giới, với mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh thế giới, Liên Hợp quốc đã soạn thảo hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người. Trong bản Hiến chương của mình, tuy không có điều khoản riêng nào đề cập đến quyền con người, nhưng trong nhiều đoạn, mục, Liên Hợp Quốc đã đề cập đến các quyền tự do cơ bản của con người. Ngay trong phần mở đầu đã nêu rõ “... sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ”. Hiến chương còn khẳng định, các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc cam kết “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các 7 quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Có thể nói, lần đầu tiên quyền con người được chính thức ghi nhận và tôn trọng trong một văn bản quốc tế có giá trị pháp lý và được thừa nhận rộng rãi. Trên cơ sở Hiến chương, năm 1948, Liên Hợp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền gồm 30 điều, ghi nhận tất cả các quyền con người trên các lĩnh vực. Tuyên ngôn này được đánh giá không chỉ là văn kiện đầu tiên khẳng định các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, mà còn ghi nhận các quyền và tự do của con người một cách cụ thể như các quyền liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sự. Trên cơ sở Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, quyền con người đã được thể hiện cụ thể hơn trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội và Công ước quốc tề về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966). Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn, theo đó, quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là 8 con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên (natural rights). Học thuyết Nhân quyền tự nhiên cho rằng: “Con người có những quyền cố hữu do tạo hóa ban tặng như quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu; quyền con người là thiêng liêng, cao quý và phải được xếp cao hơn pháp luật của nhà nước; nhân dân trao quyền cho nhà nước vì vậy quyền lực nhà nước là có giới hạn và nhà nước có nghĩa vụ đối với người dân” [17]. Hiến pháp năm 1791 của Pháp viết: Quyền con người là “quyền tự do, sở hữu, được an toàn và chống lại áp bức”; Tuyên ngôn độc lập của Mỹ viết: “Quyền con người đó là các quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Hai học giả người Trung Quốc có quan niệm khác về quyền con người, học giả Đồng Vân Hồ quan niệm: “Có thể nói gọn lại, nhân quyền là quyền tồn tại, phát triển một cách tự do, bình đẳng”[8], còn học giả Từ Sùng Ôn viết: “Nhân quyền suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích cơ bản của một giai cấp nhất định” [14]. Ngày nay, khoa học pháp lý phát triển đã cho chúng ta nhiều căn cứ để đưa ra định nghĩa về quyền con người đầy đủ hơn trong sự vận động biện chứng của lịch sử. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: “Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người”. Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Liên quan đến khái niệm trên, cũng cần lưu ý rằng thuật ngữ human rights trong tiếng Anh có thể 9 được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt) hoặc nhân quyền (theo Hán – Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, „nhân quyền‟ chính là „quyền con người‟. Tại Nghị quyết về giành chính quyền được thông qua tại Đại hội Đại biểu Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập ngày 16/8/1945 đã ghi: Ban bố những quyền của dân, cho dân: a) Nhân quyền; b) Tài sản (quyền sở hữu); c) Dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền. Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, một số cơ quan nghiên cứu, tác giả cũng đưa ra định nghĩa về quyền con người. Tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quyền con người được cấu thành bởi hai yếu tố: (i) Quyền con người được hiểu là những đặc quyền vốn có tự nhiên của con người và chỉ con người mới có; (ii) Quyền tự nhiên vốn có đó khi được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh, thì sẽ trở thành các quyền con người. Quyền con người chính là sự thống nhất giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan được ghi nhận trong pháp luật của mỗi quốc gia và pháp luật quốc tế. Ở Việt Nam quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ và chi tiết tại Chương 2 Hiến pháp năm 2013 với 36 điều. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 10 Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. 1.1.2. Khái niệm bị cáo và quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Khái niệm bị cáo có nhiều điểm tương đồng và có quan hệ đặc biệt với một khái niệm khác được sử dụng trong hoạt động tố tụng hình sự, đó là khái niệm bị can. Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) thì bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Khoản 1 Điều 50 BLTTHS năm 2003: Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Thuật ngữ: “bị cáo” được sử dụng trong nhiều sắc lệnh về tổ chức các cơ quan tư pháp do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký từ năm 1945. Tuy nhiên chỉ đến năm 1974, trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo thông tư số 16/TATC ngày 27 tháng 9 năm 1974 của TANDTC mới đưa ra định nghĩa pháp lý về khái niệm bị cáo. Theo đó “bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử Tòa án nhân dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách bị cáo nếu VKSND đã truy tố người đó trước TAND, nếu VKS không truy tố thì TAND không được xét xử một người với tư cách là bị cáo trừ những người mà TAND xét xử về những việc hình sự nhẹ”. Trong BLTTHS năm 1988 thì khái niệm bị cáo được quy định tại điều 34 của bộ luật. Và hiện nay, khái niệm bị cáo được quy định tại Điều 50 BLTTHS 2003. Kể từ thời điểm Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo. Khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015 tiếp tục quy định làm rõ Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được 11 thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này. Như vậy, bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Và khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Bị cáo cũng không phải là người có tội. Họ chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà án cấp huyện, Toà án cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu. Theo pháp luật tố tụng Việt Nam hiện hành, thì xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện. Quyền con người được hiểu là những đặc quyền mà tự nhiên con người đã có, là những khả năng hành động một cách có ý thức của con người. Các đặc quyền cá nhân đó dù có trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật hay không vẫn là quyền con người. Quyền con người vì vậy là quyền tự nhiên, không bị phụ thuộc vào các qui định của pháp luật. Tuy nhiên, khi quyền con người được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì đó chính là sự đảm bảo về mặt Nhà nước để quyền con người được bảo đảm thực thi bằng cơ chế pháp lý. Quyền con người của bị cáo trong pháp luật hình sự cũng được coi là một 12 trong những nhóm quyền tư pháp trong tổng thể các quyền con người được thừa nhận rộng rãi hiện nay. Quyền con người của bị cáo là một khái niệm rộng hơn khái niệm quyền của bị cáo. Quyền con người của bị cáo bao gồm quyền con người (nói chung) của bị cáo (khi tham gia tố tụng hình sự như những công dân khác) và quyền tư pháp của họ khi tham gia tố tụng với tư cách là một bị cáo (quyền tố tụng). Là công dân, khi tham gia tố tụng, bị cáo có quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền công dân được pháp luật qui định, trừ các trường hợp BLTTHS qui định khác nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cần thừa nhận thực tế là trong TTHS Việt Nam, vấn đề bảo đảm quyền công dân của người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị cáo, chưa được chú ý nhiều. Vấn đề này đã được TS. Nguyễn Duy Hưng phát hiện: “Những qui định của PLTTHS hiện hành chưa đề cập nhiều đến khía cạnh các quyền công dân của một người đang bị truy cứu trách nhiệm hinh sự với tư cách là bị can, bị cáo. Các quyền của bị can, bị cáo được qui định trong PLTTHS phần lớn được đề cập trên phương diện quyền tố tụng mà ít được đề cập trên phương diện quyền công dân” [7, tr.201]. Các quyền con người nói chung (quyền công dân) của bị cáo được qui định trong pháp luật TTHS hiện hành gồm: quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4, BLTTHS 2003), quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 5, BLTTHS 2003), quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 6, BLTTHS 2003), quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản (Điều 7, BLTTHS 2003), quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 8, BLTTHS 2003), quyền được suy đoán vô tội (Điều 9, BLTTHS 2003), quyền được bình đẳng trước tòa án (Điều 19, BLTTHS 2003), quyền được bồi thường thiệt hại và 13 phục hồi danh dự quyền lợi khi bị oan, sai (Điều 30, BLTTHS 2003), quyền được khiếu nại, tố cáo trong TTHS (Điều 31, BLTTHS 2003). Ngoài ra, BLTTHS mới 2015 còn qui định bổ sung các quyền công dân mà bị cáo được hưởng gồm: quyền được Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 12, BLTTHS 2015), quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14, BLTTHS 2015). Quyền tố tụng của bị cáo (quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên quy định về địa vị pháp lý của bị cáo. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn trước khi Bộ luật tố tụng 1988 ra đời chưa hề có một quy định nào về địa vị pháp lý của bị cáo. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, có 3 BLTTHS khác nhau được áp dụng tại Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Trong đó, theo Điều 20 và Điều 31 của BLTTHS tại Bắc kỳ đã phân loại NTGTT thành: bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại. Theo điều 17 BLTTHS Bắc Kỳ: “Người bị nã, sau khi nã được trong vòng 24 giờ sẽ do quan thẩm phán sơ cấp hoặc đệ nhị cấp quan nào đã tiếp nhận được thì phải dương đường củ vấn( xét hỏi) và hiểu thị cho bị can biết về tội gì. Sự củ vấn ấy và tất cả sự củ vấn về sau phải làm biên bản. Biên bản ấy phải tuyên đọc cho người bị can biết, người ấy sẽ cùng quan thẩm phán đều ký tên. Nếu người ấy không ký tên hoặc không muốn ký tên trong biên bản cũng phải nói đến”. Hiện nay, quyền của bị cáo trong xét xử hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 50 BLTTHS năm 2003 gồm các quyền như sau: a) Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; b) Tham gia phiên toà; 14 c) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; d) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; e) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; g) Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; h) Nói lời sau cùng trước khi nghị án; i) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án; k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2015 có quy định về quyền của bị cáo trong xét xử hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 61 BLTTHS như sau: a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; b) Tham gia phiên tòa; c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa; đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; 15 e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án; l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, về thực tiễn pháp lý, số lượng quyền của bị cáo từ quy định của BLTTHS năm 2003 tới thời điểm BLTTHS năm 2015 có hiệu lực sẽ được bổ sung và làm rõ đáng kể với 14 nhóm quyền thay vì 10 nhóm quyền như hiện nay. Bảo đảm quyền con người của bị cáo hình sự trong xét xử sơ thẩm là bảo đảm cho các chủ thể này được thực hiện đầy đủ và hợp pháp các quyền được đề cập trong các quy định của BLTTHS. Điều này đảm bảo cho hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự phù hợp với các nguyên tắc tố tụng cơ bản trong trình tự tố tụng hình sự hiện nay. Trong đó, các quyền quan trọng của bị cáo như quyền im lặng, quyền đưa ra chứng cứ, tiếp cận đọc, ghi chép bản sao hồ sơ vụ án… đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chú trọng bổ sung thêm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan