BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG MINH HIẾU
BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN
CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 62.38.01.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2014
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
Phản biện 1: PGS.TS Đinh Xuân Thảo
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
Phản biện 3: TS. Hoàng Thị Ngân
Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng đánh giá cấp trường họp
tại Trường Đại học Luật Hà Nội vào hồi … giờ ngày … / …/ 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1) Thư viện Quốc gia;
2) Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội;
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, một trong những thách thức cơ bản đối với hoạt
động của Quốc hội là việc bảo đảm và nâng cao tính đại diện của Quốc
hội. Khi nhận định về những thách thức đối với Quốc hội trong thời
kỳ đổi mới, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ ra các thách thức đối
với Quốc hội liên quan đến khả năng đại diện cho nhân dân của các
đại biểu Quốc hội và sự chồng chéo của các mối quan hệ đại diện.
Nhận định này cũng nhận được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu
khác. Bên cạnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI,
Đảng ta cũng đã nhận định cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và
có trách nhiệm với cử tri.
Trên thực tế, xung quanh việc đảm bảo tính đại diện của Quốc
hội đang có rất nhiều vấn đề tồn tại. Đó là những vấn đề về cơ cấu
thành phần của đại biểu, về mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử
tri, việc đại diện cho lợi ích của địa phương và lợi ích của quốc gia
v.v.... Hơn thế nữa, việc tăng cường tính đại diện của Quốc hội còn
đồng nghĩa với việc mở rộng dân chủ, góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động của Quốc hội. Trong khi đó, các vấn đề về tính đại diện của
Quốc hội nước ta lại là một trong những nội dung ít được tập trung
nghiên cứu và đổi mới trong thời gian vừa qua.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là một yêu cầu hết
sức cấp thiết.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của Luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội. Trên cơ sở đó, Luận án
đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, nhiệm vụ của luận án bao gồm:
- Làm rõ cơ sở lí luận về tính đại diện của Quốc hội, các yếu tố
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc bảo đảm tính đại diện ở
Quốc hội nước ta trong thời gian vừa qua.
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm và tăng cường tính đại
diện của Quốc hội Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án sẽ chủ yếu tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
về bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ở nước ta, đặc biệt là trong
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân được khởi xướng từ năm 1994 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc giải quyết các nhiệm vụ của Luận án được thực hiện trên
cơ sở nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác
– Lênin với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp phân tích theo hệ thống, phương
pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lịch sử… Để những
lập luận của Luận án bảo đảm tính khoa học, tác giả cũng đã sử dụng
phương pháp điều tra xã hội học.
3
5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận án
Luận án là chuyên khảo khoa học đầu tiên ở Việt Nam làm rõ
khái niệm tính đại diện của Quốc hội và các yêu cầu bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Luận án cho rằng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra
các yêu cầu cơ bản gồm: nâng cao nhận thức việc bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội; xem xét một cách toàn diện tính đại diện của Quốc
hội; bảo đảm chủ quyền nhân dân; bảo đảm thực hiện uỷ quyền tự do
và tăng cường các hoạt động giáo dục ý thức của cử tri.
Để tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội, Luận
án đề xuất ba nhóm giải pháp cơ bản gồm: hoàn thiện chế độ bầu cử,
nâng cao vị thế của đại biểu Quốc hội và hoàn thiện quy trình, thủ tục
làm việc của Quốc hội.
6. Kết cấu của luận án
Luận án gồm có: Phần mở đầu; Bốn chương; Kết luận và Danh
mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Nội dung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án
Phù hợp với khuôn khổ phạm vi của Luận án này, việc khảo sát
các công trình nghiên cứu về Quốc hội được tập trung vào các nội
dung: về khái niệm tính đại diện và các yếu tố bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội; bảo đảm tính đại diện của Quốc hội và việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thực trạng việc bảo đảm tính
đại diện của Quốc hội; các giải pháp, kiến nghị tăng cường việc bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội.
4
Hiện nay, các công trình nghiên cứu về Quốc hội thường ít quan
tâm đến tính đại diện nhân dân của Quốc hội mà dành sự quan tâm
nhiều hơn đến các chức năng, nhiệm vụ Hiến định của Quốc hội. Vì
vậy, hiện tại chỉ một số công trình nghiên cứu có nội dung liên quan
trực tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung của đề tài luận án. Đặc biệt,
chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này.
Ở nước ngoài, việc nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội là
khá phong phú, đa dạng. Ngoài các tác phẩm kinh điển về dân chủ đại
diện, trong thời gian gần đây đã có nhiều công trình tập trung nghiên
cứu về tính đại diện của Quốc hội. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu này tập trung vào mối quan hệ của lập pháp với hành pháp nhưng
ít chú ý vào mỗi quan hệ giữa nghị sĩ với các công dân và chưa tập
trung nhiều vào bối cảnh các nước đang chuyển đổi.
1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu có liên
quan trực tiếp đến đề tài luận án
Về ưu điểm, các công trình nghiên cứu hiện tại đã có nhiều nhận
định thống nhất về tính đại diện của Quốc hội như về tính chất quan
trọng của tính đại diện của Quốc hội, về mối liên hệ giữa tính đại diện
với chủ quyền nhân dân, một số biểu hiện của tính đại diện của Quốc
hội và một số yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội. Một số
nghiên cứu cũng đã có những đánh giá ở những mức độ khác nhau về
thực trạng bảo đảm tính đại diện của Quốc hội và đưa ra những kiến
nghị nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội.
Về hạn chế, các công trình nghiên cứu hiện nay ở nước ta chưa
tập trung phân tích, làm rõ khái niệm về tính đại diện của Quốc hội.
Cũng do chưa được làm rõ về mặt lý luận nên việc xác định các yếu
tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội còn gặp nhiều lúng túng, chưa
bao quát và đánh giá một cách toàn diện các yếu tố này.
5
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu hiện nay cũng chưa làm
rõ việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Do vậy,
các kiến nghị đề xuất cũng chưa có tính hệ thống và bao quát.
Kết luận Chương 1:
1. Qua khảo sát có thể nhận thấy các nghiên cứu về Quốc hội
nước ta từ trước đến nay chủ yếu tập trung nghiên cứu về các chức
năng của Quốc hội được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp mà ít đề
cập đến một vấn đề hết sức quan trọng là tính đại diện của Quốc hội.
2. Ở phạm vi quốc tế, tính đại diện của nghị viện là một trong
những nội dung được tập trung nghiên cứu từ khá lâu. Tuy nhiên,
những tác phẩm này chủ yếu đề cập đến những vấn đề của nghị viện
những quốc gia có nền dân chủ nghị viện lâu đời. Đối với các nước có
điều kiện đặc biệt như Việt Nam, vấn đề bảo đảm tính đại diện của
Quốc hội chưa được đề cập nhiều và làm rõ.
3. Từ việc khảo sát các nghiên cứu hiện nay có liên quan đến đề
tài luận án, nhiệm vụ đặt ra đối với Luận án là phải làm rõ khái niệm
về tính đại diện của Quốc hội trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ nền tảng
lý luận về chủ quyền nhân dân và dân chủ đại diện; xác định yêu cầu
của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xác định các yếu tố cụ thể để
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; đánh giá một cách tổng thể thực
trạng của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong giai đoạn hiện
nay để qua đó hình thành nên các kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm
tăng cường bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
6
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐẠI DIỆN VÀ VIỆC BẢO ĐẢM
TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI
2.1. Khái niệm tính đại diện của Quốc hội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các lý luận về
tính đại diện của Quốc hội
Có thể nhận thấy khái niệm đại diện đã được sử dụng trong lĩnh
vực chính trị từ khá sớm để giải thích cho tính chính đáng của việc
nắm giữ quyền lực nhà nước. Phần lớn các chủ thể khi nắm giữ quyền
lực đều tìm thấy ở khái niệm đại diện một sự hợp lý nhất định để giải
thích cho nguồn gốc quyền lực của mình.
Tuy nhiên, trong thời gian đầu, khái niệm đại diện chủ yếu được
khai thác dưới góc độ để biện minh cho sự chính đáng của các thế lực
cầm quyền trong xã hội theo hướng sự đại diện của họ không phải là
sự đại diện cho quyền lực của công chúng mà là sự đại diện dựa trên
sự uỷ quyền của một đấng siêu nhiên hoặc từ một nhu cầu cụ thể nào
đó của xã hội.
Việc các nhà cầm quyền được xem là những người đại diện cho
nhân dân chỉ bắt đầu xuất hiện khi cơ sở lý luận về chủ quyền nhân
dân và tính đại diện của Quốc hội được hình thành. Lý thuyết về chủ
quyền nhân dân và dân chủ đại diện cho rằng quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, được nhân dân thực hiện một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, dân chủ đại diện là cách
thức phổ biến hơn, theo đó nhân dân sử dụng quyền lực của mình
thông qua những người đại diện, là những người được nhân dân lựa
chọn thông qua bầu cử.
Trong mô hình chính thể đại diện, nhiều cơ quan nhà nước khác
nhau có thể cũng được nhân dân trực tiếp uỷ quyền để nắm giữ quyền
lực. Tuy nhiên, trong các cơ quan nhà nước đó thì Quốc hội vẫn có
7
tính đại diện nổi trội hơn xuất phát từ yêu cầu đối với chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan đại diện là phản ánh ý chí chung của xã hội và từ yêu
cầu về tính đầy đủ của tính đại diện vốn chỉ có ở tính đại diện của
Quốc hội mà không có ở các cơ quan khác.
2.1.2. Khái niệm tính đại diện của Quốc hội
Cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đều cho thấy việc áp dụng cách
hiểu đại diện theo nghĩa thông thường hoặc theo nghĩa pháp lý đối với
tính đại diện của Quốc hội là không phù hợp. Để có thể đi đến một
cách tiếp cận phù hợp, khái niệm tính đại diện của Quốc hội cần được
tiếp cận ở mức độ khái quát hơn. Theo đó, khái niệm đại diện ở đây
cần được hiểu một cách tổng quát nhất bao gồm bốn góc độ cơ bản là:
(1) đại diện hình thức; (2) đại diện biểu tượng; (3) đại diện đồng dạng
và (4) đại diện nội dung. Các hình thức này có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau.
Đối với tính đại diện của Quốc hội, các yếu tố thành phần của
tính đại diện của Quốc hội được xác định gồm: tính đại diện biểu hiện
qua việc hình thành nên mối quan hệ đại diện; qua sự tương đồng giữa
các đại biểu Quốc hội với cử tri; qua năng lực đại diện của đại biểu
Quốc hội và qua việc phản ánh ý chí chung của xã hội. Từ đó, có thể
hiểu một cách khái quát tính đại diện của Quốc hội là tính chất các
thành viên của Quốc hội do các cử tri trực tiếp bầu ra, có năng lực
đại diện một cách xứng đáng cho các cử tri, phản ánh cơ cấu thành
phần xã hội, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các cử tri để từ đó
thay mặt cho cử tri xác định ý chí chung của xã hội.
2.2. Tính đại diện của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa
Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được khoa học chính trị - pháp lý của nước ta đúc rút trong
8
thời gian vừa qua cho thấy đó là nhà nước pháp quyền được xây dựng
dựa trên những yếu tố và giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền
trong nhận thức chung của nhân loại và được thiết kế phù hợp với điều
kiện thực tế ở Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội được đặt ra
như một yêu cầu bức thiết, xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là đòi hỏi
chung của việc xây dựng nhà nước pháp quyền do bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội là cơ sở để khẳng định chủ quyền nhân dân và cơ
sở hợp pháp của chính quyền; là sự thể hiện của việc bảo đảm dân chủ;
là điều kiện để các đạo luật phản ánh quyền tự nhiên của con người và
là yếu tố cần thiết để hạn chế sự lạm dụng quyền lực của nhà nước.
Thứ hai, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là yêu cầu của
quá trình chuyển đổi mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
Thứ ba, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là yêu cầu để
Quốc hội đại diện cho ý chí chung của xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thứ tư, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội góp phần tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
2.3. Các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
2.3.1. Các yếu tố bảo đảm tính đại diện trong cách thức hình
thành mối quan hệ đại diện
a) Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu đòi hỏi tất cả các cử tri
đều có quyền tham gia bầu cử để bầu nên các đại biểu Quốc hội và
phải có một đa số nhất định người dân đi bỏ phiếu trong cuộc bầu cử.
b) Về nguyên tắc bình đẳng, do các cử tri được nắm giữ một
phần chủ quyền ngang nhau nên quyền tham gia bầu cử của các cử tri
9
là phải bình đẳng. Do đó, để bảo đảm tính đại diện của Quốc hội, cần
phải hạn chế những cách thức có thể ảnh hưởng đến quyền bình đẳng
của người dân và bảo đảm một số lượng cử tri như nhau sẽ được bầu
một số lượng đại biểu như nhau.
2.3.2. Các yếu tố bảo đảm sự tương đồng giữa các đại biểu
Quốc hội với các cử tri
Trong việc bảo đảm tính tương đồng giữa đại biểu Quốc hội với
cử tri, mục tiêu của việc xây dựng cơ quan đại diện cho nhân dân là
nhằm tạo ra một “tấm ảnh đại diện” của xã hội. Tuy nhiên, đây là mục
tiêu khó có thể thực hiện được một cách tuyệt đối. Hiện nay việc bảo
đảm tính đại diện đồng dạng thường được thực hiện dựa trên cơ sở bảo
đảm tính đại diện theo địa lý, tức là thành phần của Quốc hội phải có
đầy đủ đại diện của các vùng miền và bảo đảm tỷ lệ xứng đáng các đối
tượng yếu thế như phụ nữ, người dân tộc ít người.
2.3.3. Các yếu tố bảo đảm năng lực đại diện của đại biểu
Quốc hội
a) Việc bảo đảm chất lượng của đại biểu được thực hiện thông
qua quá trình tranh cử của các ứng cử viên.
b) Mối quan hệ giữa cử tri với các đại biểu Quốc hội cũng là
yếu tố quan trọng để giúp người dân hiểu rõ hơn về các đại biểu, từ đó
nâng cao mức độ chấp thuận của họ đối với các đại biểu Quốc hội.
c) Việc thiết kế chế độ bầu cử theo chế độ bầu cử đơn danh sẽ
làm cho mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và các cử tri trở nên chặt
chẽ hơn so với chế độ bầu cử liên danh vì các cử tri thường có xu
hướng lựa chọn khắt khe hơn, ưu tiên những người mình hiểu rõ hơn.
2.3.4. Các yếu tố bảo đảm phản ánh ý chí chung của xã hội
a) Các yếu tố bảo đảm sự lắng nghe của đại biểu Quốc hội
Để có cơ sở cho các xét đoán của mình, trước hết, các đại biểu
Quốc hội phải có các công cụ để lắng nghe các tâm tư, nguyện vọng
10
của người dân. Điều này đòi hỏi quy trình, thủ tục làm việc của Quốc
hội phải có những hình thức “lắng nghe” như tham vấn cử tri, các cuộc
điều tra, nghiên cứu, điều trần.
Đảm bảo tính công khai, minh bạch giúp các cử tri nắm được
các thông tin về hoạt động của Quốc hội, từ đó họ có thể đánh giá được
những người đại diện của mình đang thực hiện nhiệm vụ mà mình giao
cho như thế nào.
Trong việc bảo đảm sự lắng nghe của đại biểu Quốc hội với cử
tri, một vấn đề cũng cần được đề cập đến đó là thời gian làm việc của
Quốc hội. Trước những đòi hỏi của nền quản trị quốc gia hiện đại, xu
thế chung ở phần lớn các nước là xây dựng nên các cơ quan đại diện
hoạt động thường xuyên, chuyên nghiệp.
b) Về việc bảo đảm thể hiện ý kiến và quyền tự do xét đoán của
đại biểu
Để bảo đảm sự tự do xét đoán, trước hết các nghị sĩ cần phải
được giải phóng khỏi sự ràng buộc về mặt pháp lý đối với những tác
động từ bên ngoài, kể cả từ các cử tri. Ở nhiều nước, điều này được
bảo đảm bởi các quy định về việc áp dụng hình thức“uỷ quyền tự do”.
Theo đó, các nghị sĩ không bị ràng buộc bởi bất kì một sự chỉ đạo nào,
dù là từ cử tri, đảng chính trị của mình.
Một yếu tố quan trọng bảo đảm quyền tự do xét đoán của đại
biểu Quốc hội là đảm bảo tính độc lập về mặt pháp lý của các đại biểu.
Ở đây, các đại biểu thường được ghi nhận là có những đặc quyền nhất
định để bảo vệ sự độc lập của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ đại
diện trước những can thiệp có thể có từ bên ngoài. Những đặc quyền
này bao gồm quyền miễn trừ trách nhiệm và quyền bất khả xâm phạm.
Bảo đảm tính đại diện còn đòi hỏi trình tự, thủ tục làm việc của
Quốc hội phải bảo đảm các nghị sĩ có vị trí bình đẳng với nhau trong
11
quá trình tham gia các hoạt động của Quốc hội để các đại biểu Quốc
hội phản ánh được hết các ý kiến của cử tri tại Quốc hội.
c) Bảo đảm phản ánh ý chí chung của quốc gia
Điều này đòi hỏi việc phân chia các khu vực bầu cử được thực
hiện một cách hợp lý, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa đại diện
cho toàn thể nhân dân và đại diện cho lợi ích của các địa phương.
Kết luận Chương 2:
1. Tính đại diện của Quốc hội là tính chất các thành viên của
Quốc hội do các cử tri trực tiếp bầu ra, có năng lực đại diện một cách
xứng đáng cho các cử tri, phản ánh cơ cấu thành phần xã hội, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của các cử tri để từ đó thay mặt cho cử tri xác
định ý chí chung của xã hội.
2. Tính đại diện của Quốc hội được thể hiện dưới bốn góc độ:
cách thức hình thành tính đại diện; tính tương đồng giữa các đại biểu
Quốc hội và cử tri; năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội và đại diện
cho ý chí chung của xã hội. Các yếu tố này không tách biệt mà cùng
tồn tại trong mối quan hệ giữa các cử tri với đại biểu Quốc hội.
3. Trong bộ máy nhà nước của các quốc gia hiện đại, không chỉ
Quốc hội mà các cơ quan nhà nước khác cũng thể hiện tính đại diện.
Tuy nhiên, so với các cơ quan nhà nước khác, tính đại diện của Quốc
hội nổi trội hơn.
4. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là một yêu cầu
tất yếu. Điều này xuất phát từ những đặc trưng chung của Nhà nước
pháp quyền như bảo đảm tính dân chủ, tính thượng tôn của pháp luật.
Ở nước ta, yêu cầu bảo đảm tính đại diện trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn xuất phát từ yêu cầu
chuyển đổi mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội; bảo đảm Quốc
12
hội đại diện cho ý chí chung của đất nước hạn chế xu hướng bảo vệ
quyền lợi của địa phương và các xung đột về đại diện; góp phần tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng.
5. Các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội được xác định
dựa trên mục tiêu tăng cường năng lực của Quốc hội để các quyết định
của Quốc hội tiệm cận với ý chí chung của xã hội. Việc xác định các
yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội được xem xét trên cơ sở
cấu trúc của tính đại diện, trong đó:
- Các yếu tố bảo đảm cách thức hình thành quan hệ đại diện bao
gồm: bảo đảm nguyên tắc bầu cử phổ thông và bình đẳng; giá trị lá
phiếu của các cử tri là ngang nhau; bảo đảm đa số cử tri đi bầu; và bảo
đảm nhiệm kỳ của Quốc hội không quá dài.
- Các yếu tố bảo đảm sự tương đồng giữa các đại biểu Quốc hội
với cử tri bao gồm: bảo đảm thành phần của Quốc hội có sự phản ánh
tương ứng về các vùng địa lý và có sự hiện diện của các đối tượng yếu
thế; bảo đảm sự lựa chọn về mặt đường lối, chính sách của các cử tri.
- Các yếu tố bảo đảm năng lực đại diện của các đại biểu Quốc
hội bao gồm: phẩm chất, năng lực của đại biểu Quốc hội; bảo đảm mối
quan hệ chặt chẽ giữa các đại biểu Quốc hội với các cử tri của mình.
- Các yếu tố bảo đảm sự phản ánh ý chí chung của xã hội bao
gồm: bảo đảm các cử tri được ánh ý kiến của mình; bảo đảm các công
cụ và điều kiện để các đại biểu Quốc hội lắng nghe ý kiến của cử tri;
bảo đảm tự do và bình đẳng của các đại biểu Quốc hội trong việc xét
đoán và thể hiện chính kiến; bảo đảm có sự cân bằng giữa đại diện các
vùng miền và cả nước.
13
Chương 3
THỰC TRẠNG VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN
CỦA QUỐC HỘI
3.1. Bảo đảm tính đại diện trong các giai đoạn phát triển của
Quốc hội
Nhu cầu bảo đảm tính đại diện của Quốc hội hình thành cùng
với quá trình hình thành và phát triển của Quốc hội. Với khái niệm
Quốc hội theo nghĩa là cơ quan do các cử tri bầu ra, nhận sự uỷ thác
của nhân dân để xác định nên ý chí chung của xã hội, thì ở nước ta,
Quốc hội chỉ bắt đầu được hình thành sau khi cuộc Cách mạng tháng
Tám thành công.
Cùng với các giai đoạn phát triển của Hiến pháp, việc bảo đảm
tính đại diện của Quốc hội nước ta đã trải qua các bước phát triển khác
nhau. Trong giai đoạn đầu, mặc dù mới được thành lập nhưng tính đại
diện của Quốc hội đã được bảo đảm bởi một hệ thống các biện pháp
tương đối đầy đủ và tiến bộ. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử, một số
yếu tố tiến bộ này không còn được duy trì, kế thừa và phát huy trong
các giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay, cùng
với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đã có nhiều chuyển biến. Trong
bối cảnh đó, những yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đã được
xác định một cách rõ ràng và đầy đủ hơn.
3.2. Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm tính đại diện của
Quốc hội
3.2.1. Về việc bảo đảm tính đại diện trong cách thức hình
thành mối quan hệ đại diện
Kể từ kỳ Tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên vào năm 1946, Quốc
hội nước ta luôn được thành lập bằng hình thức bầu cử dựa trên các
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
14
Chính vì vậy, có thể nói, việc bảo đảm tính đại diện qua cách thức hình
thành mối quan hệ đại diện về cơ bản đã thực hiện một cách đầy đủ.
Tuy nhiên, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ở góc độ
này vẫn còn những hạn chế nhất định như pháp luật bầu cử ở nước ta
chưa quy định về việc thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội của
công dân Việt Nam ở nước ngoài; hiện tượng “bỏ phiếu thay, bỏ phiếu
mù” đang có nguy cơ làm ảnh hưởng đến tính “chính đáng” của cơ
quan đại diện; việc xác định số lượng đại biểu Quốc hội ở các đơn vị
bầu cử là không đồng đều, dẫn đến thiếu bình đẳng trong đại diện.
3.2.2. Về việc bảo đảm tính tương đồng giữa các đại biểu
Quốc hội với cử tri
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội đã quy định cơ chế “hiệp thương”
với vai trò trung tâm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm tìm ra cơ
cấu hợp lý của thành phần của Quốc hội tương ứng với cơ cấu thành
phần của xã hội trong từng nhiệm kỳ. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế
kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội qua các thời kỳ thì có thể nhận thấy
có “độ vênh” khá lớn giữa cơ cấu thành phần của Quốc hội với xã hội.
3.2.3. Về việc bảo đảm năng lực đại diện của các đại biểu
Quốc hội
Về việc bảo đảm phẩm chất, năng lực các đại biểu Quốc hội, do
kết quả bầu cử hiện nay đang bị ảnh hưởng nhiều bởi cơ cấu đại biểu
được định đoạt trước khi diễn ra các cuộc bầu cử thông qua quá trình
hiệp thương nên phẩm chất, năng lực của các đại biểu còn có hạn chế.
Một thực trạng khác ảnh hưởng đến chất lượng của các đại biểu
trong quá trình bầu cử là pháp luật nước ta chưa ghi nhận các hoạt
động tranh cử. Trên thực tế, những cuộc vận động bầu cử thường diễn
ra khá bình lặng, thậm chí nhiều lúc là “hình thức”.
Về mối liên hệ giữa các đại biểu Quốc hội với cử tri, việc duy
trì hiện diện của đại biểu ở địa phương là khá lỏng lẻo. Theo kết quả
15
điều tra năm 2011, chỉ có 7,5% người dân được hỏi cho biết họ có biết
đến trụ sở của Văn phòng phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội nơi mình
đang cư trú. Việc tổ chức đơn vị bầu cử bầu chọn nhiều ứng cử viên
cũng làm cho nhận thức của các cử tri về sự đại diện của các đại biểu
Quốc hội càng trở nên mờ nhạt hơn.
Về phía các đại biểu Quốc hội, với việc không được hoàn toàn
tự do lựa chọn tỉnh ứng cử của mình, các đại biểu Quốc hội, đặc biệt
là những người ở trung ương, cũng không có nhiều động lực để đầu tư
xây dựng mối liên hệ với cử tri của tỉnh mình ứng cử.
Về hoạt động tiếp xúc cử tri, các hình thức tiếp xúc cử tri hiện
nay còn đơn điệu, chủ yếu là theo hình thức hội nghị, không phát huy
cơ hội cho các cử tri thường xuyên tiếp xúc với các đại biểu.
3.2.4. Về việc bảo đảm phản ánh ý chí chung của xã hội
Về các yếu tố bảo đảm sự lắng nghe của đại biểu Quốc hội,
trong thời gian vừa qua, hoạt động tham vấn ý kiến công chúng vào
các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết còn hết sức hạn chế; tổ chức và
hoạt động của Quốc hội chưa hoàn toàn công khai, minh bạch.
Về việc bảo vệ sự tự do quyết định của đại biểu Quốc hội, vẫn
còn những hạn chế trong việc đảm bảo thảo luận bình đẳng giữa các
đại biểu Quốc hội. Ngoài ra, do chưa ghi nhận quyền miễn trừ trách
nhiệm nên sự tự do xét đoán của đại biểu Quốc hội vẫn còn giới hạn.
Về việc bảo đảm thể hiện ý chí chung của xã hội, do các đại
biểu Quốc hội mang nhiều cơ cấu khác nhau nên trong nhiều trường
hợp họ gặp phải sự xung đột về lợi ích, ảnh hưởng đến sự tham gia
vào thảo luận và quyết định tại Quốc hội. Bên cạnh đó, do chưa có nền
tảng bầu cử quốc gia và lại chịu sự chi phối của Đoàn đại biểu Quốc
hội, nên các đại biểu Quốc hội còn có xu hướng bảo vệ lợi ích của các
tỉnh hơn là chú trọng phản ánh ý chí chung của xã hội. Việc hoạt động
16
kiêm nhiệm cũng dẫn đến thực trạng là các đại biểu Quốc hội gặp
nhiều khó khăn trong công tác thể hiện qua các điểm nổi bật như thiếu
thời gian, thiếu thông tin, thiếu kỹ năng.
Kết luận Chương 3
1. Khảo sát quá trình hình thành và phát triển của Quốc hội từ
năm 1945 cho đến nay cho thấy ngay từ những nhiệm kỳ đầu của Quốc
hội, những yếu tố để bảo đảm tính chính đáng của việc hình thành nên
Quốc hội, sự liên kết giữa các đại biểu Quốc hội với cử tri và việc bảo
đảm tính độc lập của đại biểu Quốc hội trong việc xét đoán, quyết định
các vấn đề tại Quốc hội đã được pháp luật và thực tiễn hoạt động của
Quốc hội ghi nhận.
2. Cùng với các giai đoạn phát triển của Hiến pháp, việc bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội nước ta đã trải qua các bước phát triển
khác nhau. Một trong những đặc điểm xuyên suốt trong quá trình đó
là các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ngày càng được thể
chế hoá thành các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình
này, do các điều kiện lịch sử khác nhau nên có những yếu tố ngày càng
được ghi nhận và phát huy (như một số yếu tố trong việc bảo đảm tính
đại diện hình thức), trong khi đó có một số yếu tố không còn được tiếp
tục kế thừa và phát triển (như nguyên tắc tự do trong bầu cử).
3. Trong giai đoạn hiện nay (từ năm 1992 đến nay), phần lớn
các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đã được pháp luật ghi
nhận và thực hiện. Trong số đó đã có những yếu tố được tổ chức thực
hiện hiệu quả, góp phần nâng cao tính đại diện của Quốc hội như bảo
đảm số lượng cử tri đi bầu ở mức cao; số lượng đại biểu đại diện cho
một số thành phần yếu thế có một tỷ lệ thích đáng trong Quốc hội …
Tuy nhiên, những ưu điểm này mới tập trung ở các khía cạnh
mang tính “hình thức”, trong khi đó những yếu tố để bảo đảm nội dung
17
các quyết định của Quốc hội tiệm cận với ý chí chung của xã hội còn
có những điểm hạn chế nhất định. Với cơ chế bầu cử còn chú trọng
nhiều đến cơ cấu thành phần nên động lực để đại diện cho cử tri của
các đại biểu Quốc hội là chưa cao; các điều kiện, công cụ để đại biểu
Quốc hội có thể “lắng nghe” ý kiến của các cử tri là chưa đầy đủ và
chưa được sử dụng có hiệu quả; các đại biểu Quốc hội cũng chưa được
tạo điều kiện để có thể tự do xét đoán nhằm đưa ra những quyết định
thể hiện rõ nhất ý chí chung của xã hội.
Chương 4
CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ BẢO ĐẢM
TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
4.1. Các yêu cầu đặt ra đối với việc bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội phải đáp ứng các yêu
cầu sau đây:
Thứ nhất, bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là điều kiện cần
thiết để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội là một trong những yếu tố quan trọng
để xây dựng nên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, bảo đảm xem xét toàn diện tính đại diện của Quốc hội
thể hiện ở các mặt như: không bỏ sót các yếu tố bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội; phải bảo đảm sự cân bằng hợp lý giữa các yếu tố; phải
có tính thống nhất về mục tiêu.
Thứ ba, bảo đảm chủ quyền nhân dân thông qua hình thức dân
chủ đại diện và có sự kết hợp nhuần nhuyễn với việc thực hiện hình
thức dân chủ trực tiếp.
18
Thứ tư, bảo đảm việc thực hiện hình thức uỷ quyền tự do. Uỷ
quyền tự do là điều kiện bảo đảm để các đại biểu Quốc hội thể hiện
khả năng của mình trong việc xác định ý chí chung của xã hội.
Thứ năm, bảo đảm tăng cường các hoạt động giáo dục cử tri. để
nâng cao chất lượng của mối quan hệ giữa các cử tri và các đại biểu
Quốc hội.
4.2. Các giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện chế độ bầu cử
a) Áp dụng phương pháp bầu cử theo đa số
Phương pháp bầu cử phù hợp với nước ta hiện nay vẫn là
phương pháp bầu cử theo đa số. Đây là phương pháp phù hợp với hệ
thống chính trị ở nước ta và thực tế là đa số các cử tri chủ yếu lựa chọn
các ứng cử viên dựa trên việc xem xét các phẩm chất cá nhân hơn là
xét đến các chương trình hành động của các ứng cử viên. Tuy nhiên,
để phù hợp với mục tiêu tăng cường mối quan hệ giữa các cử tri với
đại biểu Quốc hội, phương pháp bầu cử theo đa số nên được áp dụng
theo cơ chế hai vòng. Điều này một mặt đảm bảo không để xảy ra tình
trạng khuyết đại biểu Quốc hội, vừa đảm bảo có tính lựa chọn ứng cử
viên mang tính tập trung hơn, góp phần làm nâng cao năng lực đại
diện của các đại biểu Quốc hội.
b) Bảo đảm quyền bầu cử của người Việt Nam ở nước ngoài
Cần ghi nhận cách thức để công dân Việt Nam ở nước ngoài
thực hiện quyền bầu cử bằng cách ghép các công dân ở nước ngoài
vào các đơn vị bầu cử hiện có trong nước. Giải pháp này mặc dù không
tạo điều kiện cho các cử tri tham gia sâu vào hoạt động chính trị của
đất nước nhưng lại phù hợp hơn với điều kiện hiện nay ở nước ta.
- Xem thêm -