LUẬN VĂN:
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các
dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
theo quy định của pháp luật Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) xuất hiện cùng với sự phát
triển của giao lưu thương mại nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu đối với các đối tượng
SHCN. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp vẫn không ngừng vận động và phát
triển theo hướng mở rộng các quyền năng cho chủ sở hữu, mở rộng phạm vi các đối
tượng được bảo hộ. Vấn đề bảo hộ SHCN không chỉ là vấn đề riêng lẻ của từng quốc gia
mà nó chính là vấn đề mang tính toàn cầu trong bối cảnh tự do hóa, toàn cầu hóa thương
mại hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam có một bước ngoặt được đánh dấu bằng Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI tháng 12/1986 trong đó Đảng và Nhà nước ta đã dứt khoát xóa bỏ cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu hành chính, bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán
kinh doanh, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới về kinh tế đã ngày càng chứng tỏ nền kinh tế nước ta đã
và đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Lúc này, các doanh nghiệp cũng dần có được quyền bình đẳng trong
hoạt động kinh doanh với môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tình hình này cũng làm
giảm đáng kể sự độc quyền, sự độc quyền chỉ còn tồn tại đâu đó trong một số ngành cung
cấp có tính chất đặc biệt còn hầu hết là sự phong phú của hàng hóa, dịch vụ được tạo ra
bởi các thành phần kinh tế khác nhau. Do vậy, người tiêu dùng đang dần trở thành
"thượng đế" theo đúng nghĩa của nó. Hàng hóa đa dạng, dịch vụ phong phú cũng khiến
các doanh nghiệp để mời được "thượng đế" đến với mình buộc phải coi trọng và có sự
thay đổi liên mục mẫu mã, chủng loại hàng hóa của mình trên thị trường nhưng đồng thời
chữ tín ngày càng được các doanh nghiệp quan tâm xây dựng dựa vào các thương hiệu…
Bởi, một trong những cơ sở để người tiêu dùng lựa chọn chính là những dấu hiệu thể hiện
trên bao bì, nhãn mác, giấy tờ giao dịch, quảng cáo của sản phẩm, dịch vụ. Có rất nhiều
dấu hiệu để người tiêu dùng có thể nhận biết được hàng hóa sản phẩm như: nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý…Và những dấu hiệu này làm phát sinh trách nhiệm của chính
doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, đối với xã hội, bởi chúng chính là yếu tố quan
trọng giúp người tiêu dùng xác định sản phẩm, dịch vụ mà họ mong muốn.
Tuy vậy, một mặt các nhà sản xuất, kinh doanh phải lo phục vụ cho người tiêu
dùng, đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt nhất, một
mặt khác để tồn tại họ buộc phải đối mặt với nạn hàng nhái, hàng giả đang tràn ngập trên
thị trường với những sự sao chép, mô phỏng, nhái theo ngày càng tinh vi. Tình trạng xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đang ngày càng diễn ra một cách tràn lan và có quy mô,
thủ đoạn ngày càng tinh vi và rộng khắp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường
kinh doanh lành mạnh mà pháp luật đang bảo vệ; quyền lợi của người tiêu dùng cũng vì
thế mà không được đảm bảo. Chính vì vậy, vấn đề phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu hàng hóa (NHHH), tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đang ngày càng trở nên bức
xúc đối với những người kinh doanh chân chính, đây cũng là đòi hỏi làm trong sạch thị
trường nhằm bảo vệ cho quyền lợi của người tiêu dùng. Khi thực hiện được các bảo hộ
này là đương nhiên chúng ta đã thực hiện được đòi hỏi trong sạch và lành mạnh hóa thị
trường.
Trong bối cảnh hiện nay, khi nhu cầu hội nhập là vấn đề mang tính tất yếu khách
quan, kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế toàn cầu thì vấn đề bảo hộ sở
hữu công nghiệp càng được đặt ra là vấn đề bức thiết của bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là
Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ 2001 đến 2010 đã chỉ rõ
một trong những mục tiêu cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của
Việt Nam là "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của
nước ta nhằm đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa
phương như AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, tiến tới gia nhập WTO..".
Chúng ta đã là thành viên của ASEAN, APEC… và ngày 14/11/2006 đánh dấu một điểm
mốc quan trọng, chúng ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Điều này càng đặt vấn đề hoàn thiện pháp luật về sở hữu công
nghiệp trước những thách thức mới bởi chúng ta phải thực hiện những quy định đã cam
kết đặc biệt là Hiệp định TRIPS. Trước những yêu cầu khách quan đó, ngày 19/11/2005
Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) được Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Đây là lần đầu tiên những quy định
về SHTT được thống nhất và quy định chặt chẽ trong một bộ luật.
Đó cũng chính là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài "Bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của
pháp luật Việt Nam" để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Luật SHTT mới được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ 1 tháng 7 năm 2006. Luật SHTT đã có những quy
định khá mới mẻ, cập nhật như những quy định về xác lập quyền SHCN đối với nhãn
hiệu nổi tiếng, những quy định về chỉ dẫn địa lý, quyền tự bảo vệ khi có xâm phạm của
chủ thể quyền SHCN…
Bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đã
được nghiên cứu rất nhiều nhưng đó có thể chỉ là các nghiên cứu của các luận văn tốt nghiệp
Đại học hoặc các nghiên cứu mang tính riêng lẻ của từng loại dấu hiệu dùng để phân biệt
sản phẩm, dịch vụ mà thôi. Còn để nghiên cứu tổng hợp thì cho đến nay, chưa có công
trình nghiên cứu nào cụ thể về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu
dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, bản chất, nội dung, của các dấu
hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ, vai trò và ý nghĩa của việc bảo hộ. Muốn vậy
chúng tôi đã có sự nghiên cứu về sự hình thành pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với
các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trên thế giới và ở Việt Nam. Với mục
đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ cụ thể của luận văn là:
- Tiếp cận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền SHCN đối với
các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền SHCN đối
với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ, so sánh với các quy định của các
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, từ đó chỉ ra những định hướng hoàn thiện
pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch
vụ.
Những điểm mới của luận văn thể hiện ở những điểm sau:
- Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách tổng hợp về bảo hộ quyền SHCN
đối với nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ gồm Tên thương mại,
Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu theo quy định của Luật SHTT 2005.
- Nghiên cứu một cách hệ thống nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm,
dịch vụ này với tư cách là đối tượng quyền SHCN và các biện pháp bảo vệ quyền SHCN
đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo Luật SHTT 2005.
- Dựa vào việc phân tích thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu
dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trong thời gian qua, Luận văn chỉ ra những kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt
sản phẩm, dịch vụ này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận liên quan đến nhóm các đối tượng dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ bao gồm Tên thương mại, Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu cùng với việc đánh
giá thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với những đối tượng này ở Việt Nam từ đó đưa ra
những kiến giải nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hộ
quyền SHCN đối với các đối tượng này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như sau: Phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương
pháp thống kê; so sánh; tổng hợp; điều tra xã hội học...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu
dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ ở Việt Nam cùng một số
khuyến nghị hoàn thiện pháp luật.
Chương 1
Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân
biệt sản phẩm, dịch vụ
1.1. Vai trò của Các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ và ý
nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân
biệt sản phẩm, dịch vụ
1.1.1. Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
Một cách rất tự nhiên, ngay từ thời cổ đại con người đã có ý muốn cá biệt hóa kết
quả sản phẩm lao động của mình bằng cách sử dụng các dấu hiệu khác nhau: tên gọi
riêng, ký hiệu riêng, tên gọi địa lý… "nhiều bằng chứng cho thấy, từ thời cổ đại các nhà
sản xuất đã sử dụng các dấu hiệu để chỉ ra nơi ở của mình (tức nơi xuất xứ hàng hóa) Ví
dụ: Khoảng thế kỷ thứ IV trước Công nguyên đã xuất hiện những dấu hiệu dùng để phân
biệt các loại rượu vang của Hy Lạp, mật ong Xixili…" [26] Qua khoảng thời gian lâu dài,
với những kinh nghiệm sản xuất phong phú được tích lũy, những nơi mà có thêm điều
kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất sản phẩm được trở thành những vùng chuyên
sản xuất sản phẩm đó, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tên vùng, tên khu vực đó
được nổi tiếng và khi nhắc đến chúng người ta liên tưởng ngay đến các sản phẩm đặc
trưng có chất lượng cao của vùng. Vì vậy, đã hình thành nên quy luật sử dụng các dấu
hiệu địa lý cho các sản phẩm uy tín xuất xứ từ vùng, khu vực nổi tiếng đó.
Nhãn hiệu từ lâu đã được sử dụng để nhận biết nguồn gốc của sản phẩm. Có bằng
chứng về việc từ xa xưa tới 4.000 năm về trước thợ thủ công ở Trung Quốc, ấn Độ và Ba
Tư đã sử dụng chữ ký của họ hoặc biểu tượng để phân biệt sản phẩm của họ. Thợ gốm La
Mã đã sử dụng hơn 100 nhãn hiệu khác nhau để phân biệt tác phẩm của mình, nổi tiếng
nhất là nhãn hiệu Fortis mà nhiều sản phẩm giả đã bắt chước. Người ta tin rằng các thợ
thủ công đó đã sử dụng nhãn hiệu cho nhiều mục đích, bao gồm sử dụng để quảng cáo
cho người làm ra các sản phẩm đó, làm bằng chứng để khẳng định sản phẩm thuộc về
một thương gia cụ thể nào đó khi có tranh chấp về sở hữu cũng như sử dụng làm một sự
đảm bảo về chất lượng. Rồi từ chính sự phát triển của quá trình phân công lao động và
trao đổi hàng hóa đã hình thành những xưởng thủ công, những cơ sở sản xuất thủ công…
chuyên sản xuất một số sản phẩm nhất định, nhãn hiệu được bắt đầu bằng những dấu hiệu
riêng rất đơn giản để phân biệt hàng hóa giữa những xưởng, cơ sở sản xuất thủ công
mang tính chất phường hội. Trong thời Trung cổ, việc sử dụng nhãn hiệu đã được gắn với
phát triển và tăng trưởng của thương mại, do đó có thuật ngữ "nhãn hiệu hàng hóa". Nhãn
hiệu đã được sử dụng để chỉ ra rằng một sản phẩm do một thành viên của một phường
hội được biết đến là có kinh nghiệm trong ngành buôn bán đó làm ra. Trong tiếng Pháp,
thuật ngữ được sử dụng là "marque deposée" trong đó deposée có nghĩa là nhãn hiệu đã
được đăng ký với một phường hội buôn bán.Thời kỳ này cũng đã có sự giao thương quốc
tế, buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia, châu lục như con đường tơ lụa bắt đầu từ Hàng
Châu, Trung Quốc xuyên qua các quốc gia như Mông Cổ, ấn Độ, Iran… đến Hy Lạp,
vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu… nhưng giao thương quốc tế vẫn chưa thực sự
phát triển. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào thế kỷ XVI - XVII dưới tác động to lớn
của cách mạng khoa học công nghệ đặc biệt vào những năm 70, 80 của thể kỷ XIX, nền
công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã có thể sản xuất các sản phẩm hàng loạt, những phát
minh quan trọng trong lĩnh vực vận tải đã làm mở cửa thị trường quốc tế. Những sản
phẩm mới phục vụ cho cuộc sống tiện nghi hơn liên tiếp được ra đời và sản xuất hàng
loạt phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Những sản phẩm từ sản phẩm gia dụng
như: từ cây kim, sợi chỉ đến quần áo, giày dép rồi dụng cụ gia đình… và cả những sản
phẩm công nghệ cao như đồ điện lạnh, điện tử… được sản xuất hàng loạt và phạm vi tiêu
thụ của nó không chỉ còn trong phạm vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ nhất định nào
mà phát triển mở rộng trên toàn thế giới. Những công ty xuyên quốc gia, những tập đoàn
toàn cầu đã tạo nên cuộc cạnh tranh trên thị trường và ngày càng trở nên gay gắt. Tên
thương mại là tên gọi được dùng để nhận biết doanh nghiệp, nó giúp phân biệt chủ thể
này với chủ thể khác trong cùng một ngành nghề, một lĩnh vực. Đây cũng chính yếu tố
quan trọng để thể hiện uy tín của doanh nghiệp. Do vậy, nhu cầu về việc phân biệt sản
phẩm, dịch vụ thông qua các dấu hiệu là nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý không
chỉ đơn giản là việc đánh dấu sự phân biệt giữa sản phẩm này với sản phẩm khác cùng
loại mà nó trở thành công cụ để định vị trong chiến lược phát triển kinh doanh của doanh
nghiệp. Giá trị của chúng không chỉ đơn giản dừng lại ở việc là công cụ để cạnh tranh mà
nó trở thành tài sản vô giá của doanh nghiệp. Như vậy, việc sử dụng độc quyền SHCN
đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý đã trở thành nhu cầu sống còn.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc tính cơ bản là cạnh tranh, vấn đề
phân biệt các chủ thể kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc cá thể hóa chủ thể
kinh doanh và hoạt động kinh doanh của họ là một trong những điều kiện tiên quyết để
làm cơ sở cho việc hình thành và củng cố uy tín kinh doanh cũng như mở rộng phạm vi
hoạt động của các chủ thể.
Việt Nam, trong nhiều năm qua, với nhiều nỗ lực Luật SHTT đã ra đời đánh dấu
một bước phát triển trong sự phát triển của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tại Điều 1 Luật
SHTT 2005 quy định: "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức và cá nhân đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh".
Sử dụng phương pháp liệt kê như vậy, cũng để định nghĩa về quyền sở hữu công
nghiệp cũng là để phân biệt với quyền tác giả trong SHTT. Bởi lẽ cũng là sản phẩm trí
tuệ nhưng nếu các sản phẩm này không liên quan đến việc tạo ra của cải, vật chất cho xã
hội thì được bảo hộ bằng quyền tác giả còn nếu các sản phẩm đó gắn với sản xuất kinh
doanh, có khả năng áp dụng để tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì sẽ được bảo hộ bằng
quyền sở hữu công nghiệp. Thuật ngữ quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ chỗ các đối
tượng của loại hình sở hữu này là tài sản vô hình nhưng lại áp dụng vào hoạt động công
nghiệp hoặc thủ công nghiệp để tạo ra các sản phẩm vật chất do đó có giá trị kinh tế trong
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Người nào là chủ sở hữu của những tài sản vô hình này
thì được khai thác lợi ích kinh tế từ chúng và có lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Chính
vì vậy để được bảo hộ thì các đối tượng đó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định theo
quy định của pháp luật. Có những đối tượng chỉ được bảo hộ khi được cơ quan có thẩm
quyền cấp văn bằng bảo hộ, nhưng cũng có những đối tượng không được bảo hộ thông
qua hệ thống cấp văn bằng bảo hộ. Một trong những phần không thể thiếu trong quy trình
của sở hữu công nghiệp khi mà các đối tượng vô hình của quyền sở hữu công nghiệp lại
tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội, lúc đó buộc các
nhà kinh doanh phải để ý đến những nhân tố như: nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa
lý… Các nhân tố đó chính là các đối tượng, là công cụ xúc tiến kinh doanh, chúng mang
giá trị kinh tế to lớn nhưng là giá trị vô hình trong sản phẩm hữu hình, chúng ta thấy chúng
có thể không mang tính sáng tạo cao như sáng chế hay giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp… nhưng chúng lại là sự thể hiện uy tín, chất lượng và phải do có những điều kiện
nhất định (ví dụ đối với chỉ dẫn địa lý, phải có những điều kiện tự nhiên ưu đãi nhất định
mà chỉ nơi vùng miền đó có, hoặc ví dụ đối với nhãn hiệu, hay tên thương mại, cần phải
có sự minh chứng về chất lượng, uy tín của sản phẩm, hay của doanh nghiệp đó) qua một
khoảng thời gian) mới có thể tạo nên được sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị
trường.
Như vậy, có thể thấy các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ có vai trò
rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Cụ thể:
* Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối với nền
kinh tế:
Nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý, tên thương mại, theo chúng tôi thực hiện hai chức năng kinh tế vĩ mô chủ yếu đó
là (1) giúp người tiêu dùng quyết định về sự lựa chọn của họ đối với sản phẩm trên thị
trường; (2) khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào việc phát triển, cung cấp hàng hóa,
dịch vụ với chất lượng mà người tiêu dùng mong muốn.
Hiện nay, khi Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tầm quan trọng về kinh tế, văn hóa của quyền sở
hữu công nghiệp đã tăng lên đáng kể. Sự thay đổi nhận thức về quyền sở hữu công
nghiệp xuất phát từ chính sự thay đổi nội tại của nền kinh tế.. Nguyên nhân khách quan
dẫn đến sự phát triển của lĩnh vực sở hữu công nghiệp trong nước chính là sự phát triển
công nghệ trên thế giới trong suốt mấy thập kỷ qua, thêm vào đó là sự gia tăng đáng kể
của các hoạt động thương mại quốc tế. Chúng ta dễ dàng nhận thấy sự tồn tại của các
công ty đa quốc gia, các tập đoàn toàn cầu với những dải sản phẩm đa dạng từ sản phẩm
tiêu dùng đến những sản phẩm công nghệ cao, những cái tên như Unilever cùng những
nhãn hàng toàn cầu của họ như: OMO, POND’S… rồi Microsoft, Intel, Samsung, hay
General Electric… Sự phát triển công nghệ diễn ra một cách mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Sự sáng tạo này làm thay đổi tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ
mới. Để khuyến khích sự sáng tạo cần phải bảo hộ SHCN, đặc biệt là bảo hộ SHCN đối
với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
Đối với nước ta, vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đổi
mới đất nước cũng như trong việc đưa nền kinh tế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế
giới. Chúng ta đang xuất khẩu mạnh các mặt hàng nông sản, thực phẩm chế biến, giày
dép, quần áo, hàng thủ công mỹ nghệ… với chất lượng ngày càng cao đáp ứng được
những đòi hỏi khắt khe của các thị trường khó tính như EU, Mỹ… Tuy nhiên, gần tới
90% hàng Việt Nam vẫn phải vào thị trường thế giới thông qua trung gian dưới dạng gia
công thô hoặc gia công cho các thương hiệu nổi tiếng thế giới của nước ngoài [60].
Chúng ta cũng đã có những bài học về việc chậm đăng ký nhãn hiệu trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, dẫn đến những tổn thất to lớn về kinh tế, điển hình như vụ tranh
chấp nhãn hiệu của Petro Vietnam và cà phê Trung Nguyên tại thị trường Hoa Kỳ, của
thuốc lá Vinataba tại thị trường châu á, phồng tôm Sa Giang tại Pháp và châu Âu…
Sự gia tăng đáng kể các doanh nghiệp với nhiều loại hình của các thành phần
kinh tế là nguyên nhân chủ quan của sự phát triển của lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Mỗi
doanh nghiệp khi tham gia vào nền kinh tế thị trường đều muốn khẳng định tính ưu việt
của mình, vị trí của mình thông qua các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu. Hiện nay, trong nước, một số doanh
nghiệp Việt Nam cũng đã có những chiến lược phát triển rõ ràng trong việc khai thác các
thế mạnh của mình, chúng ta thấy có sự chuyển giao khai thác nhãn hiệu nhằm phát huy
tính cạnh tranh của nhãn hiệu đó như việc Tập đoàn Unilever nổi tiếng khi đầu tư ở Việt
Nam đã mua lại nhãn hiệu kem đánh răng P/S với giá 7.5 triệu USD, và họ cũng đã chớp
cơ hội để đầu tư khai thác chỉ dẫn địa lý ‘Phú Quốc’ với sản phẩm nước mắm Knorr Phú
Quốc [48].
Chính sự phát triển không ngừng của các thành tựu khoa học công nghệ đã khẳng
định được vị trí then chốt của các tài sản vô hình - sở hữu công nghiệp. Giá trị của các dấu
hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ không chỉ thể hiện ở lợi ích của các chủ thể tham
gia vào nền kinh tế mà còn có lợi ích chung của toàn xã hội thể hiện ở việc bảo hộ các đối
tượng này cũng khẳng định vị trí của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, tạo ra sự phát
triển bình đẳng, lành mạnh của thị trường. Và nó càng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt khi
những sản phẩm, dịch vụ của chúng ta đến tay người tiêu dùng quốc tế, nó không chỉ góp
phần phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước mà còn là sự khẳng định vị thế, thương hiệu
của quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối với các
doanh nghiệp:
Nói một cách khái quát nhất, nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm,
dịch vụ này có thể giúp doanh nghiệp: khẳng định uy tín; tách biệt sản phẩm; đẩy mạnh
lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra; tăng cường sự chung thủy của khách hàng; hỗ trợ sự
thích ứng với áp lực cạnh tranh; phát huy khả năng. Tuy nhiên hiện nay, các doanh
nghiệp Việt Nam hầu như chỉ nhận thấy quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng
là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là một quyền được Nhà nước bảo hộ mà
chưa nhận thấy hầu hết quyền SHCN đối với các đối tượng là dấu hiệu dùng để phân biệt
sản phẩm, dịch vụ là một lợi thế cạnh tranh dành cho chính họ. sinh lợi; tăng thêm tiền
thù lao qua chương trình li-xăng; tạo cơ sở cho franchise;
Xét dưới góc độ vốn, quyền SHCN nói chung thuộc hình thức vốn vô hình của
thương nhân. Đây là tài sản có giá trị lớn trong khối tài sản của doanh nghiệp. Chúng ta đã
thấy có những nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới được định giá đến con số hàng tỷ USD
như: Coca-Cola 69,6 tỷ USD, Microsoft 64 tỷ USD, IBM 51,1 tỷ USD, General Electric
41,3 tỷ USD, Intel 30,8 tỷ USD, Nokia 29,9 tỷ USD… [48].
Xét dưới góc độ thương mại, các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là
biểu trưng uy tín của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của doanh nghiệp nhằm phân biệt
doanh nghiệp đó với các doanh nghiệp khác. Thông qua các dấu hiệu đó thương nhân có
thể tiếp cận thị trường và giao dịch thương mại. Chúng ta đã có những bài học xương máu
về việc doanh nghiệp không nhạy bén dẫn đến việc bị mất nhãn hiệu trên một số thị
trường lớn như EU, như Mỹ… những nhãn hiệu như cà phê Trung Nguyên… đã phải rất
khó khăn mới lấy lại được nhãn hiệu của mình.
Hiện hình thức nhượng quyền, cho thuê, thuê tên thương mại đang ngày càng
phổ biến ở Việt Nam, đã xuất hiện những chuỗi nhà hàng thức ăn nhanh Burger, rồi KFC
trên thị trường cả nước nhất là tại các thành phố lớn với sức tiêu thụ lớn như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… đặc biệt một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã
nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu của thị trường và tham gia vào việc chuyển nhượng thương
hiệu của mình ở cả thị trường trong và ngoài nước như Cà phê Trung Nguyên, hiện nay
trên 61 tỉnh thành của cả nước đã có đến hơn 400 cửa hàng cà phê mang tên Trung
Nguyên... hay một số khác như Phở 24, thời trang Nino Maxx… Hình thức này mang đến
cho doanh nghiệp sự chủ động trong việc kinh doanh và phát triển nguồn tài sản vô hình
nhưng có giá trị to lớn của mình và hiện tại ở nhiều nước phát triển trên thế giới hoạt
động cho thuê một số đối tượng tài sản vô hình được điều chỉnh bởi các hợp đồng mang
tên "franchise" [23].
Tuy nhiên, hiện nay, do chưa nhận thức một cách đầy đủ về giá trị của các dấu
hiệu này mà các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa sử dụng được hết các quyền mà
pháp luật đã dành bảo vệ cho họ, chính vì vậy mà các doanh nghiệp đã không những làm
mất đi các lợi ích kinh tế chính đáng của mình, làm mất đi lợi thế cạnh tranh của bản thân
doanh nghiệp trên thương trường. Đây không chỉ là thiệt thòi cho bản thân doanh nghiệp
mà còn là sự mất mát lớn đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, chúng
ta không chỉ mất đi thương hiệu của doanh nghiệp mà thậm chí mất đi cả thương hiệu của
cả quốc gia trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
* Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối với người
tiêu dùng:
Qua điều tra sơ bộ của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, trong số những
người tiêu dùng ở Thành phố Hồ Chí Minh được phỏng vấn, 89% cho rằng nhãn hiệu là yếu
tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm [54]. Lý do chủ yếu là nhãn hiệu tạo cho họ sự yên
tâm về thông tin xuất xứ, tin tưởng vào chất lượng sản phẩm, tiết kiệm về thời gian tìm kiếm
thông tin, giảm rủi ro… Kết quả này cho thấy ngày nay nhận thức của người tiêu dùng về
chất lượng sản phẩm, dịch vụ đã cao hơn rất nhiều so với trước đây và đây cũng chính là
thách thức đòi hỏi bản thân doanh nghiệp, các hiệp hội làng nghề, các cơ quan chủ quản…
phải quan tâm và đầu tư thích đáng cho việc phát triển nguồn vốn quý giá này.
Hiện nay, trong xu thế mở cửa kinh tế, sự lựa chọn của người tiêu dùng được mở
rộng, không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ những hàng hóa, dịch vụ nội địa mà còn là
những sản phẩm, dịch vụ của những quốc gia khác trong đó có cả của những quốc gia đã
rất phát triển. Chúng ta vẫn cho rằng tâm lý của người tiêu dùng là sính hàng ngoại nhập,
chỉ lựa chọn những sản phẩm đã có uy tín của nước ngoài, nhưng trên thực tế không phải
hoàn toàn như vậy, chúng ta cũng đã có những nhãn hiệu có thể được xem là nhãn hiệu
nổi tiếng đối với người tiêu dùng Việt Nam bởi uy tín và chất lượng đã được kiểm định
qua thời gian như: sữa Vinamilk, cà phê Trung Nguyên, sứ cao cấp Minh Long… Trước
đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp, vẫn có những nhãn hiệu, những chỉ dẫn địa
lý, những tên thương mại gắn sâu vào tiềm thức người tiêu dùng về chất lượng của sản
phẩm và uy tín của chúng vẫn còn nguyên giá trị tới bây giờ: những nhãn hiệu như Thuốc
lá Thăng Long, giày vải Thượng Đình… hay những sản phẩm truyền thống của các làng
nghề, vùng miền… những chỉ dẫn địa lý vàng cho việc lựa chọn sản phẩm không chỉ của
người tiên dùng trong nước mà cả người tiêu dùng quốc tế như: nước mắm Cát Hải, nước
mắm Phú Quốc, bưởi Đoan Hùng, gốm Bát Tràng…
Các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đã thể hiện vai trò đặc biệt
quan trọng của chúng trong việc giúp người tiêu dùng định hướng nhu cầu và lựa chọn
sản phẩm mong muốn, đồng thời nó cũng chính là một trong những động lực tích cực để
cạnh tranh giữa những nhà sản xuất nhằm tạo niềm tin và kích thích sức mua của người
tiêu dùng.
1.1.2. ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu
dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
Với vai trò quan trọng không chỉ đối với nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu
dùng mà cả với nền kinh tế, việc bảo hộ quyền SHCN đối với các nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa to lớn thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Trước hết việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các nhãn hiệu, tên
thương mại và chỉ dẫn địa lý sẽ thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới kỹ thuật sản xuất,
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo
đảm độc quyền khai thác sử dụng đối tượng để chủ sở hữu thu lợi, là biện pháp hữu hiệu
để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiên cứu sáng tạo và áp dụng các kỹ thuật tiến
bộ tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới thu hút được người tiêu dùng bằng con đường
cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp. Đồng thời, đó cũng chính là cách để buộc các nhà sản
xuất, kinh doanh thực hiện cam kết về uy tín, chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình đối
với người tiêu dùng và đối với toàn xã hội.
- Việc bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý
còn là biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn nếu họ
được tạo điều kiện thuận lợi và có cơ sở pháp lý vững chắc an toàn khi đầu tư vào Việt
Nam dưới một tên thương mại được bảo hộ hay đưa vào Việt Nam hàng hoá, dịch vụ
dưới một nhãn hiệu, một chỉ dẫn địa lý được công nhận. Đặc biệt khi Hiệp định thương
mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực thì việc bảo hộ các đối tượng này sẽ càng có ý nghĩa lớn lao
bởi toàn bộ các nội dung của Hiệp định này đều có liên quan đến hoạt động SHTT nói
chung và SHCN nói riêng.
- Bảo hộ quyền sở hữu đối với các đối tượng trên còn liên quan mật thiết đến
lợi ích kinh tế của các quốc gia bởi việc bảo hộ các đối tượng này là một trong những
công việc mà Việt Nam chúng ta đang nỗ lực thực hiện, nhất là trong bối cảnh chúng ta
đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
- Việc bảo hộ quyền SHCN đối với các đối tượng này còn có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bởi vai trò của các đối tượng này
chính là giúp cho người tiêu dùng chọn lựa sản phẩm, dịch vụ phù hợp giữa những
nhóm sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Chúng là những yếu tố giúp người tiêu dùng tránh
bị lừa dối hoặc nhầm lẫn khi lựa chọn sản phẩm, dịch vụ nhất là trong giai đoạn hiện
nay khi mà hàng nhái, hàng giả tràn lan trên thị trường và ngay cả các cơ quan chức
năng cũng khó mà phát hiện ra.
1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, Dịch vụ
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trên thế giới
Pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ trên thế giới đã có từ rất lâu. Điều này xuất phát bởi vai trò đặc biệt quan
trọng của các dấu hiệu này đối với nền kinh tế.
Tại Pháp, năm 1857 Luật nhãn hiệu đầu tiên được ban hành. Theo luật này,
quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa thuộc về người thực hiện sớm nhất (so với người khác)
một trong hai việc là sử dụng nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu theo quy định của Luật.
Nếu một người đăng ký một nhãn hiệu nhưng thời điểm đăng ký sử dụng nhãn hiệu đó lại
sau người đăng ký thứ hai thì quyền đối với nhãn hiệu thuộc về người thứ hai (quyền
thuộc về người sử dụng trước). Quyền đối với nhãn hiệu thuộc về ai thì người đó được
độc quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm tương ứng.
Sau Pháp, một loạt các nước cũng ban hành luật nhãn hiệu riêng của mình như:
Italia (1868), Bỉ (1879)… Nhu cầu bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp này, dưới
đòi hỏi do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế và xu hướng hội nhập quốc tế đã không còn
là vấn đề riêng của từng quốc gia, khu vực mà nó trở thành vấn đề toàn cầu, thu hút sự
quan tâm chung của các quốc gia trên thế giới, vấn đề đặt ra là các đối tượng SHCN phải
được bảo hộ bằng cả những điều ước quốc tế mà theo đó các quốc gia tham gia phải cam
kết thực hiện vì những lợi ích và mục tiêu phát triển chung.
Nhưng phải đến năm 1883 với sự ra đời của công ước Paris - một văn bản pháp
luật quốc tế đầu tiên về bảo hộ sở hữu công nghiệp - đánh dấu sự liên kết của các quốc
gia trên thế giới cùng quan tâm đến lĩnh vực này.
Theo Công ước Paris đối tượng quyền SHCN bao gồm sáng chế, nhãn hiệu hàng
hóa, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn
gốc và tên gọi xuất xứ) và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Các quy định của
Công ước Paris đề cập đến bốn vấn đề lớn là: nguyên tắc đối xử quốc gia, quyền ưu tiên,
một số nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền SHCN mà các nước thành viên
phải tuân thủ và các quy định về hành chính phục vụ cho việc thi hành công ước.
Tiếp theo Công ước Paris là Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid, văn bản
pháp luật quốc tế điều chỉnh các vấn đề đăng ký NHHH ở các nước thành viên. Thỏa ước
ký ngày 14/04/1891 tại Mandrid (Tây Ban Nha) dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Paris về
SHCN. Đến nay đã có khoảng 40 nước là thành viên của Thỏa ước này. Năm 1981, Việt
Nam cũng đã là thành viên chính thức.
Ngày 27/10/1994, Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (TLT) được thông qua. Hiệp ước
TLT được ban hành để đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa thủ tục
đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc gia khác nhau. TLT đã hài hòa thủ tục của các cơ quan
cấp phép đăng ký nhãn hiệu của các quốc gia khác nhau thông qua việc quy định những
yêu cầu tối đa mà một bên tham gia có thể đưa ra.
Hiệp định TRIPS:
Cùng với sự phát triển hoạt động thương mại và đầu tư, việc bảo hộ quyền SHTT
đối với các hoạt động này và quyền lợi thương mại hợp pháp của chủ sở hữu khi quyền
SHTT đặt ra của họ không được bảo hộ và thực thi một cách có hiệu quả đã được đặt ra.
Vì vậy, cùng với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới - WTO, Hiệp định về các khía
cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Hiệp định TRIPS) đã
được ký kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1995.
Khác với các điều ước quốc tế đa phương trước đây về quyền sở hữu trí tuệ, mục
đích chính của Hiệp định TRIPS là thông qua việc quy định những tiêu chuẩn, những
biện pháp và thủ tục tối thiểu mà các nước thành viên của Hiệp định phải có nghĩa vụ
tuân theo từ đó thiết lập một khung pháp lý thống nhất, có hiệu quả trong việc bảo hộ
toàn diện quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền sở hữu công nghiệp.
Theo Hiệp định TRIPS, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một bộ phận của hệ thống
đa quốc gia thuộc WTO. Hiệp định này quy định vệc bảo hộ nhiều đối tượng sở hữu trí
tuệ khác nhau.
Từ năm 1995, Hiệp định TRIPS đã mang lại những thay đổi căn bản trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực và quy
định của Công ước Paris và Công ước Berne, làm thay đổi bộ mặt của Luật sở hữu trí tuệ
vì các nước thành viên WTO phải thay đổi luật của họ để phù hợp với Hiệp định TRIPS.
Ngoài việc đồng nhất hóa về pháp luật, Hiệp định TRIPS còn tiến tới loại bỏ các quy
định về hành chính, thủ tục và về kỹ thuật bất lợi cho hoạt động SHTT quốc tế.
Hiệp định TRIPS quy định các tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc bảo hộ tất cả các
đối tượng SHTT. Nhưng điều quan trọng nhất đó là Hiệp định TRIPS là điều ước quốc tế
đầu tiên quy định hệ thống các biện pháp chế tài trong đó có những biện pháp chế tài
khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và những biện pháp chế tài khẩn cấp
nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Các biện pháp chế tài này hoàn toàn
không có trong Công ước Paris.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước Paris được thể hiện
trong Điều 2.1. Hiệp định này bắt buộc tất cả các thành viên WTO tuân thủ các điều từ
Điều 1 đến Điều 12 và Điều 19 của Công ước Paris được sửa đổi năm 1967 tại
Stockholm. Hiệp định TRIPS ngoài việc đề cập đến các nguyên tắc cơ bản của Công ước
Paris, đã vượt ra ngoài Công ước Paris bằng việc lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc mới
đó là "đối xử Tối huệ quốc" (MFN). Theo Điều 4 Hiệp định TRIPS: "Tất cả các lợi ích,
ưu đãi, đặc ân, đặc lợi hay sự miễn trừ mà một thành viên dành cho công dân của bất kỳ
một nước nào khác sẽ được áp dụng cho tất cả các thành viên khác, ngay lập tức và
không có bất kỳ một điều kiện nào khác". Bên cạnh đó, Hiệp định TRIPS còn quy định
các nguyên tắc tổng quát về thủ tục bảo hộ một cách thỏa đáng và hiệu quả quyền sở hữu
công nghiệp tại các nước thành viên. Trong phần 3 và phần 4 của Hiệp định TRIPS quy
định rằng các nước thành viên phải quy định trong luật pháp quốc gia của mình các thủ
tục cho phép áp dụng các biện pháp hiệu quả đối với các hành vi xâm phạm quyền
SHCN. Các quốc gia thành viên cũng phải quy định một cơ chế nhằm ngăn chặn các
hành vi tái vi phạm các quyền đó và có nghĩa vụ phải áp dụng và cả hai biện pháp nói
trên để tránh các rào cản gây cản trở cho thương mại hợp pháp và các biện pháp an toàn
đối với việc lạm dụng quyền. Hơn thế nữa, các thủ tục và hình thức quy định đối với việc
bảo hộ quyền phải hợp lý và công bằng và không được "phức tạp và tốn kém đến mức
không cần thiết" và không được "kéo dài một cách bất hợp lý và không có lý do".
Như vậy, với việc ra đời Hiệp định TRIPS, việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí
tuệ trên thế giới đã được đẩy mạnh, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng
công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng giữa quyền
và nghĩa vụ. Và với Việt Nam, chúng ta đã là thành viên của WTO, ngoài việc đẩy mạnh các
chính sách mở cửa, một công việc quan trọng mà chúng ta đã và đang tích cực thực hiện đó
là cải thiện pháp luật đặc biệt là pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, bởi một
trong những điều kiện bắt buộc của chúng ta là phải đảm bảo thực hiện những quy định của
hiệp định TRIPS về việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ ở Việt Nam
Việt Nam coi vấn đề bảo hộ SHCN nhân tố quan trọng của chính sách cải cách,
mở cửa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Gắn liền với các giai đoạn
phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, hệ thống bảo hộ SHCN của Việt Nam cũng có
những bước phát triển qua từng giai đoạn.
Giai đoạn 1945-1981:
Chính sách khuyến khích sáng tạo và bảo hộ thành quả sáng tạo được chú trọng
ngay từ những ngày đầu thành lập chính quyền, thể hiện bằng các cuộc vận động thi đua
cải tiến kỹ thuật. Trong giai đoạn này, một số văn bản pháp luật về khuyến khích sáng tạo
đã được ban hành làm tiền đề cho hệ thống bảo hộ SHCN của Việt Nam như:
- Thông tư 04/LĐTT ngày 8/3/1958 của Bộ Lao động quy định về vấn đề khen
thưởng các tác giả sáng kiến cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh;
- Nghị quyết số 175/TTg ngày 3/4/1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định về
nhãn hiệu thương phẩm; Nghị quyết này được ban hành thực chất nhằm mục đích quản lý
sản phẩm trong sản xuất và lưu thông chứ không mang tính chất bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa.
ở miền Bắc, thời kỳ này chưa hình thành một hệ thống bảo hộ quyền SHCN theo
đúng nghĩa. Quyền tư hữu đối với các đối tượng SHCN không được chấp nhận bảo hộ
với lập luận cho rằng các sáng tạo của trí tuệ con người thuộc sở hữu chung của toàn xã
hội. Những đối tượng đặc biệt là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ còn chưa
được đề cập đến ngoài nhãn hiệu hàng hóa.
Trong khi đó, ở miền Nam, hệ thống bảo hộ SHCN được chú trọng hơn với quan
điểm thừa nhận quyền tư hữu của chủ sở hữu đối với đối tượng SHCN đặc biệt là dấu
hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu hàng hóa. Chính quyền Sài Gòn
đã ban hành Luật 13/57 ngày 1/8/1957 bảo hộ nhãn hiệu, Luật 14/59 ngày 11/6/1959 về
chống sản xuất hàng giả.
Các vấn đề liên quan đến đăng ký xác lập quyền đã được quy định cụ thể, chi tiết
trong các văn bản pháp luật và là yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể nhằm chính thức
ghi nhận sự bảo hộ từ phía nhà nước đối với quyền SHCN của chủ sở hữu.
Giai đoạn từ 1981-1988:
Hệ thống bảo hộ SHCN giai đoạn này được áp dụng theo mô hình phổ biến ở các
nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đó là sự bảo hộ chủ yếu
nhằm vào các quyền tinh thần hơn là các quyền tài sản của người sáng tạo. Cơ chế "dùng
lợi ích vật chất làm động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo trí tuệ" hầu như chưa được áp
dụng. Biện pháp bảo hộ chủ yếu và dường như duy nhất là biện pháp hành chính. "Sản
phẩm sáng tạo trí tuệ được coi là sản phẩm phục vụ cho xã hội, quyền tư hữu và các lợi
ích kinh tế đối với các sản phẩm đó của tác giả hầu như không được chấp nhận. Tác giả
của sản phẩm chỉ có thể được thưởng hoặc ghi công mà thôi" [43].
Đối với các đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ mới
chỉ có các nghị định:
- Nghị định 197/HĐBT ngày 14.12.1982 về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa;
- Xem thêm -