CHÚ THÍCH
CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTB&DHMT: Bắc Trung Bộ & Duyên Hải Miền Trung
CBTS: chế biến biến thủy sản
CBTSXK: chế biến biến thủy sản xuất khẩu
CBXK: chế biến xuất khẩu
CSTK: công suất thiết kế
DN: Doanh nghiệp
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long
ĐBSH: Đồng Bằng Sông Hồng
ĐL: đông lạnh
ĐNB: Đông Nam Bộ
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
GTT: giá thực tế
GSS: giá so sánh
HCDV: hậu cần dịch vụ
KTTS: khai thác thủy sản
NAFIQAD:
NTTS: nuôi trồng thủy sản
QCVN: Quy chuẩn Việt Nam
TB: thiết bị
TĐTBQ: tốc độ tăng bình quân
XKTS: xuất khẩu thủy sản
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, từ sau khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, kinh tế đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc. Cùng với chiến
lược kinh tế hội nhập và phát triển do Nhà nước đặt ra, thương mại quốc tế trở
thành một bộ phận quan trọng có vai trò quyết định đến sự phát triển của quốc
gia. Ngành thuỷ sản đã có sự phát triển to lớn, hàng năm đem về cho đất nước
một nguồn ngoại tệ lớn phục vụ tái đầu tư thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Đối với một nước đang phát triển, có sự khan hiếm về vốn để tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc phát triển các ngành kinh tế tận
dụng được lợi thế vốn có của quốc gia là một điều vô cùng quan trọng.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG NGHỆ LẠNH
1.1. Lịch sử phát triển
Lịch sử phát triển ngành lạnh là một chuỗi dài những sự kiện nối tiếp nhau,
cùng phát triển và vươn tới đỉnh cao như những ngành học khác. Con người đã
biết làm lạnh và sử dụng lạnh cách đây rất lâu:
Các tranh vẽ trên tường trong các kim tự tháp Ai Cập cách đây khoảng
2500 năm đã mô tả cảnh nô lệ quạt các bình gốm xốp cho nước bay hơi để làm
mát không khí.
Cách đây khoảng 2000 năm người Ấn Độ và Trung Quốc đã biết trộn
muối vào nước hoặc tuyết để tạo nhiệt độ thấp hơn. Nhưng kỹ thuật lạnh
hiện đại bắt đầu phải kể từ khi giáo sư Black tìm ra ẩn nhiệt hóa hơi và ẩn
nhiệt nóng chảy vào năm 1761 – 1764.
Ở cuối thế kỷ XVIII từ phát hiện đầu tiên là trong điều kiện chân không
nước bay hơi ở nhiệt độ thấp. Vào năm 1834 bác sĩ Perkins (Anh) xây
dựng được máy lạnh đầu tiên với tác nhân lạnh là ete etylen làm việc ở áp
suất thấp hơn áp suất khí quyển.
Cuối thế kỷ XIX có hàng loạt các phát minh ra máy lạnh với những tác
nhân có áp suất trong chu trình kín cao hơn áp suất khí quyển:
Năm 1871 Tellier xây dựng máy lạnh với tác nhân ete metylen.
Năm 1872 Boil phát minh nguyên lý máy lạnh NH3.
Năm 1874 kỹ sư Linde (Đức) đã thiết kế được máy lạnh NH 3, lúc
này việc chế tạo máy lạnh nén hơi mới thực sự phát triển rộng rãi
trong hầu hết các ngành kinh tế.
Mốc quan trọng trong kỹ thuật lạnh là việc sản xuất và ứng dụng các freon
ở Mỹ vào năm 1930. Các loại rau, trái cây, hải sản và thịt đông lạnh đã
được bán cho công chúng lần đầu tiên vào năm 1930 tại Springfield,
Massachusetts, dưới thương hiệu Birds Eye Frosted Foods.
Ngày nay công nghiệp lạnh đã tiến một bước khá xa trên thế giới với
nhiều chủng loại hệ thống làm lạnh: tủ lạnh, máy điều hóa không khí,
phòng lạnh, phòng lạnh đông… có trình độ khoa học kỹ thuật ngang với
các ngành kỹ thuật tiên tiến khác. Phạm vi nhiệt độ của kỹ thuật lạnh ngày
nay được mở rộng rất nhiều và kỹ thuật đang tiến dần đến nhiệt độ không
tuyệt đối.
Riêng kỹ thuật lạnh là nhu cầu thiết yếu để phát triển công nghiệp thực
phẩm: “Lạnh cần cho công nghiệp thực phẩm như điện và hơi nước cần
cho công nghiệp nặng vậy. Điện và hơi nước đã đẩy công nghiệp nặng tiến
tới, thì lạnh sẽ làm cho công nghiệp thực phẩm phát triển vượt bậc”
(Micoiang - 1935).
Ngày nay, người ta thường dùng nitơ lỏng để làm đông thực phẩm, thực
phẩm càng nhanh đông sẽ càng ít đóng tuyết.
Làm lạnh đông được thực hiện trong các ngành khai thác chế biến và bảo
quản thực phẩm. Quá trình làm lạnh không thể thiếu trong ngành đánh bắt
thủy sản, công nghiệp chế biến rau quả, rượu bia, sữa… tóm lại trong hầu
hết các ngành công nghiệp chế biến nguyên liệu tươi có nguồn gốc thực
vật và động vật đều cần đến lạnh.
1.2.
Thực trạng việc sử dụng công nghệ lạnh trong CBTS
Theo thống kê của NAFIQAD năm 2010 cả nước có 429 cơ sở CBTS
động lạnh với tổng công suất cấp đông khoảng 7.870 tấn/ngày, trong đó số cơ sở
đạt QCVN 02 là 199 cơ sở, số cơ sở có Code của EU là 289 cơ sở. Đây là cơ sở
vật chất, là điều kiện rất tốt của ngành công nghiệp CBTS đông lạnh phát triển
và chiếm lĩnh thị trường thủy sản thế giới trong thời gian qua và sắp tới.
Bảng: Năng lực thiết bị công nghệ trong các nhà máy CBTS
2002
Chỉ tiêu
Số cơ sở CBTS
Tổng CS thiết bị cấp đông,
tấn/ngày
Số thiết bị cấp đông, chiếc
Tủ đông tiếp xúc, chiếc
Tủ đông gió, chiếc
Tủ đông IQF, chiếc
Số cơ sở đạt QCVN 02
Số cơ sở có code EU
Năm
2007
TĐTBQ
2010
211
3.150
320
4.262
429
7.870
836
517
193
126
60
62
1.318
681
355
282
82
235
1.378
694
376
317
199
284
(%/năm)
10,7
12,3
7,4
4,3
10
14,1
18,7
24,3
Nguồn: NAFIQAD, Viện nghiên cứu Hải sản, kết quả khảo sát của Viện
KT&QHTS 2011.
Về thiết bị cấp đông: tại các cơ sở CBTS toàn quốc có 1.378 thiết bị cấp
đông. Trong đó, cấp đông dạng CF có 694 chiếc, AB có 367 chiếc, IQF có 317
chiếc.
Công suất sử dụng thiết bị: vùng ĐBSCL có mức sử dụng công suất thực
tế cao nhất khoảng 71,2%, ĐNB khoảng 79,7%, BTB&DHMT khoảng 58,7% và
vùng ĐBSH khoảng 25,7%. Việc sử dụng công suất chế biến thực tế từ Bắc vào
Nam theo sự gia tăng sản lượng của vùng nguyên liệu. Có thể xu hướng này vẫn
sẽ tiếp tục diễn ra trong giai đoạn quy hoạch từ nay cho đến năm 2020.
Bảng: Số lượng và loại thiết bị cấp đông năm 2011
Loại
Số
TB
lượng
Chiếc
ĐBSH
BTB&DHMT
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
lượng
lượng
ĐNB
Số
Tỷ lệ
lượng
ĐBSCL
Số
Tỷ lệ
lượng
CF
AB
IQF
Tổng
CSTK,
694
367
317
1.378
58
23
12
93
8,36
6,27
3,79
18,41
310
202
128
81
411
29,11
34,88
25,55
29,83
900
152
21,9
83
22,62
58
18,3
293 21,26
1.510
282 40,63
133 36,24
166 52,37
581 42,16
5.150
tấn/ngày
CSTK,
68.600
197.300
332.300
1.134.000
tấn/năm
SL chế biến,
17.610
115.850
263.200
808.000
25,7
58,7
79,7
71,2
tấn
Mức
huy
động
CSTB,
%
Nguồn: Viện nghiên cứu Hải sản, kết quả khảo sát của Viện KT&QHTS
2011.
1.3.
Quy hoạch phát triển kho lạnh
Nhằm đáp ứng tốt nhu cầu kho lạnh phục vụ cho ngành công nghiệp
CBTS phát triển, đến năm 2020 cả nước có tổng công suất kho lạnh đạt khoảng
1,1 triệu tấn, trong đó vùng ĐBSH khoảng 85,7 nghìn tấn, Miền Trung khoảng
145,3 nghìn tấn, ĐNB khoảng 217,5 nghìn tấn, ĐBSCL khoảng 640 nghìn tấn,
các tỉnh còn lại khoảng 11,5 nghìn tấn.
Phát triển hệ thống kho lạnh thủy sản theo định hướng phân bố phù hợp
với nhu cầu phát triển của từng vùng đề phục vục việc bảo quản, vận chuyển,
chế biến, dự trữ và phân phối lưu thông 3 triệu tấn thủy sản các loại.
Bảng: Quy hoạch phát triển kho lạnh theo vùng đến năm 2020
TT
1
2
3
Địa phương
ĐBSH
Miền trung
ĐNB
Tổng công suất kho (tấn)
2015
2020
58.000
85.700
98.800
145.300
150.500
217.500
4
5
ĐBSCL
23 tỉnh còn lại
Cả nước
437.500
5.750
750.550
640.000
11.500
1.100.000
2. GIỚI THIỆU VỀ NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM
2.1. Điều kiện phát triển ngành thuỷ sản.
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, có đường bờ biển dài
hơn 3.260 km từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), diện tích
vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng hơn 226.000 km 2, có diện tích vùng đặc quyền
kinh tế rộng trên 1.000.000 km 2, trong vùng biển Việt Nam có trên 400 hòn đảo
lớn nhỏ, là nơi có thể cung cáp các dịch vụ hậu cần cơ bản, trung chuyển sản
phẩm khai thác, đánh bắt, đồng thời làm nơi neo đậu cho tàu thuyền trong những
chuyến ra khơi. Biển Việt Nam còn có nhiều vịnh, đầm phá, cửa sông (trong đó
hơn 10.000 ha đang quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản) và trên 400.000 ha rừng
ngập mặn. Đó là tiềm năng để Việt Nam phát triển hoạt động khai thác và nuôi
trồng thuỷ hải sản. Cùng đó trong đất liền còn có khoảng 1,7 triệu ha diện tích
mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản trong đó có 120.000 ha hồ ao nhỏ, mương
vườn, 244,000 ha hồ chứa mặt nước lớn, 446.000 ha ruộng úng trũng, nhiễm
mặn, cấy lúa 1 hoặc 2 vụ bấp bênh, và 635.000ha vùng triều.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm và một số vùng có khí hậu ôn đới. Tài
nguyên khí hậu đã giúp cho ngành thuỷ sản phát triển một cách thuận lợi. Chủng
loại sinh vật đa dạng và phong phú với khoảng 510 loài cá trong đó có nhiều loài
có giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên bên cạnh những điều kiện thuận lợi cũng có những khó khăn do
điều kiện địa hình và thuỷ vực phức tạp, hàng năm có nhiều mưa, bão, lũ, vào
mùa khô lại hay bị hạn hán gây khó khăn và cả những tổn thất to lớn cho ngành
thuỷ sản.
2.1.2. Về điều kiện kinh tế xã hội
Nghề khai thác thuỷ sản đã được hình thành từ lâu. Nguồn lao động có
kinh nghiệm đánh bắt và nuôi trồng, giá nhân công thấp hơn so với khu vực và
thế giới. Hiện nay Nhà nước đang coi thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn do đó
có nhiều chính sách đầu tư khuyến khích để đẩy mạnh sự phát triển của ngành.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn và vướng mắc đặt ra cho ngành
thuỷ sản nước ta đó là hoạt động sản xuất vẫn còn mang tính tự cấp, tự túc, công
nghệ sản xuất thô sơ, lạc hậu, sản phẩm tạo ra chất lượng chưa cao. Nguồn lao
động tuy đông nhưng trình độ văn hoá kỹ thuật không cao, lực lượng được đào
tạo chiếm tỷ lệ nhỏ, hầu hết chỉ dựa vào kinh nghiệm do đó khó theo kịp sự thay
đổi của điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường. Cuộc sống của lao động trong
nghề vẫn còn nhiều vất vả, bấp bênh do đó không tạo được sự gắn bó với nghề.
Nhưng về cơ bản vẫn có thể khẳng định rằng Việt Nam có tiềm năng dồi dào để
phát triển ngành thuỷ sản thành một ngành kinh tế quan trọng.
2.2. Đặc điểm ngành thuỷ sản.
Việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản chịu nhiều tác động của điều kiện tự
nhiên. Việc thời tiết có ổn định hay không ảnh hưởng lớn đến năng suất đánh bắt
và nuôi trồng. Muốn có được năng suất cao ngoài phụ thuộc vào các điều kiện tự
nhiên sẵn có cần tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của
các loài thuỷ sản. Các sản phẩm thuỷ sản sau khi thu hoạch đền rất dễ hư hỏng
do đó cần có sự đầu tư công nghệ bảo quản để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Đây là một ngành có tính hỗn hợp, phát triển thành một quy trình gắn liền
từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến. Cả quy trình phải phát triển một cách nhịp
nhàng thì mới đảm bảo cho sự phát triển của toàn ngành. Các hoạt động đánh bắt
và nuôi trồng (thuộc lĩnh vực nông nghiệp) là tiền đề cho các hoạt động chế biến
phát triển đông thời các hoạt động chế biến phát triển sẽ quay lại thúc đẩy việc
đánh bắt và nuôi trồng, chỉ có sự liên kết chặt chẽ, đồng bộ mới có thể khẳng
định vị trí ngành kinh tế mũi nhọn trong giai đoạn hiện nay của ngành thuỷ sản.
2.3. Tác động của ngành thuỷ sản đến kinh tế xã hội đất nước.
Thủy sản là một ngành kinh tế giữ vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh
tế Quốc dân. Giai đoạn 2001 – 2011 đóng góp của thủy sản vào GDP chung toàn
quốc dao động trong khoảng từ 3,10 % – 3,72 %. Năm 2011 thủy sản đóng góp
vào kim ngạch xuất khẩu chung toàn ngành nông nghiệp khoảng 24,44 %, và
6,34 % tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.
Bình quân giai đoạn 2001 – 2011 thủy sản giải quyết công ăn việc làm cho
khoảng 150.000 lao động/năm (trong đó, lao động KTTS khoảng 29,55 %, lao
động NTTS 40,52 %, lao động CBTS 19,38 %, lao động HCDV nghề cá khoảng
10,55 %). Trong xóa đói giảm nghèo, nhờ tăng trưởng thủy sản đã đưa được 43
xã bãi ngang ven biển khó khăn ra khỏi danh sách các xã nghèo.
Cũng trong giai đoạn này, thủy sản cung cấp thực phẩm cho trên 80 triệu
người dân Việt Nam. Bình quân hàng năm thủy sản đáp ứng từ 39,31 % – 42,86
% tổng sản lượng thực phẩm góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh
thực phẩm và dinh dưỡng quốc gia.
Trong quá trình phát triển thời kỳ qua, thủy sản đã có đóng góp quan trọng
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Cơ cấu sản xuất nông, lâm,
thủy sản chuyển dịch theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá
trị gắn với thị trường. Tỷ trọng nông nghiệp (nông, lâm, diêm, ngư nghiệp) trong
tổng GDP cả nước giảm dần từ 19,52 % năm 2001 xuống còn 16,41 % năm
2011. Trong nội bộ ngành Nông nghiệp, tỷ trọng thủy sản tăng từ 19,06 % năm
2001 lên 21,30 % năm 2011.
Bảng : Hiện trạng GDP thủy sản trong nền kinh tế Quốc dân giai đoạn 2001 –
2011
Đvt: Tỷ đồng
TT
Hạng
2001
2005
2010
2011
Tăng trưởng bình quân
2001 – 2006 – 2001 –
mục
GDT
481.29
839.21
1.980.91
2.303.43
toàn
1
2005
14,91
2011
18,78
2011
16,95
5
1
4
9
%
%
%
17.904
32.947
66.130
71.504
16,47
13,28
14,85
%
%
%
quốc
2
(GTT)
GDP
thủy sản
Tỷ trọng
3,72
3,93
3,34
3,10
quốc
GDP
292.53
393.03
551.609
587.654
7,66%
6,68%
7,22%
toàn
5
1
(GSS)
GDP
7.449
10.181
14.286
15.279
8,12%
6,85%
7,45%
thủy sản
Tỷ trọng
2,55
2,59
2,59
2,60
so
với
toàn
1
quốc
2
so
với
toàn
quốc
Nguồn: Tổng Cục thống kê
2.4. Những thành tựu đạt được của ngành thủy sản giai đoạn 2001 –
2011
Trong những năm qua sản xuất thủy sản đạt được những thành tựu đáng
kể, tăng mạnh cả về sản lượng thủy sản và giá trị. Năm 2011, tổng sản lượng
thủy sản đã đạt trên 5,2 triệu tấn (tăng gấp 2,1 lần so với năm 2001, bình quân
tăng 8,82 %/năm); sản lượng NTTS đạt 3 triệu tấn (tăng gấp 4 lần so với năm
2001, bình quân tăng 17,37 %/năm), sản lượng KTTS đạt trên 2,2 triệu tấn (tăng
gấp 1,27 lần so với năm 2001, bình quân tăng 2,74 %/năm). Hàng thủy sản Việt
Nam đã có mặt trên 164 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, kim ngạch xuất
khẩu năm 2011 đạt 6,11 tỷ USD (tăng gấp 2,4 lần so với năm 2001, bình quân
tăng 13,16 %/năm).
Có thể nói giai đoạn 2001 – 2011 ngành thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng
cao trên tất cả các lĩnh vực KTTS, NTTS, CBTS, XKTS. Tuy nhiên chất lượng
tăng trưởng còn ở mức thấp. cụ thể, trong 100% phần tăng lên của tổng sản
lượng KTTS có đến 100% là do yếu tố tăng số lượng tàu thuyền tạo ra, trong
100 % phần tăng lên của tổng sản lượng NTTS có đến 70 % là do tăng năng
suất, còn lại 30 % là do tăng diện tích, trong 100 % phần tăng lên của tổng giá trị
XKTS có đến trên 80 % là do tăng sản lượng tạo ra, còn lại dưới 20 % là do yếu
tố tăng giá.
2.5. Thực trạng phát triển CBTS
Theo thống kê, 2011 cả nước có 564 cơ sở CBTSXK hoặc làm vệ tinh cho
doanh nghiệp xuất khảu, trong đó có 91 cơ sở thuộc DNNN, 159 cơ sở thuộc
công ty cổ phần, 292 cơ sở thuộc DNTN, 9 cơ sở liên doanh và 13 cơ sở thuộc
công ty 100 % vốn nước ngoài. Trong 564 cơ sở có 429 cơ sở chế biến đông
lạnh.
Số DN và công suất cấp đông của các cơ sở CBTS tăng nhanh trong giai
đoạn 2002 – 2010. Năm 2010 có 429 cơ sở đông lạnh với công suất cấp đông
7.870 tấn/ngày đêm ( 2002 chỉ có 3.147 tấn/ngày đêm), số doanh nghiệp tăng
bình quân 10,7 %/năm và công suất cấp đông tăng 12,3 %. Điều này chứng tỏ
quy mô cơ sở CBTS đông lạnh ngày một lớn hơn. Sự gia tăng này là điều kiện
cần thiết bảo đảm cho ngành công nghiệp chế biến đáp ứng yêu cầu gia tăng sản
lượng thủy sản xuất khẩu. Cùng với đà tăng về số lượng và quy mô cơ sở CBTS,
trình độ công nghệ CBTS cũng có bước thay đổi rõ rệt, được thể hiện qua tốc độ
tăng bình quân số lượng tủ đông IQF là 14,1 %/năm, tủ đông gió là 10 %/năm,
tủ đông tiếp xúc tăng 4,3 %/năm.
2.6. Các vùng hoạt động thủy sản mạnh trong nước
Hoạt động sản xuất, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam nằm rải rác dọc đất
nước với sự đa dạng về chủng loại thủy sản, nhưng có thể phân ra thành 5 vùng
xuất khẩu lớn:
Vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung: nuôi trồng thủy sản nước mặn
lợ, đặc biệt phát huy thế mạnh nuôi biển, tập trung vào một số đối tượng
chủ yếu như: tôm các loại, sò huyết, bào ngư, cá song, cá giò, cá hồng...
Vùng ven biển Nam Trung Bộ: nuôi trồng thủy sản trên các loại mặt nước
mặn lợ, với một số đối tượng chủ yếu như: cá rô phi, tôm các loại...
Vùng Đông Nam Bộ: Bao gồm 4 tỉnh là Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa
– Vũng Tàu và TP.HCM, chủ yếu nuôi các loài thủy sản nước ngọt hồ
chứa và thủy sản nước lợ như cá song, cá giò, cá rô phi, tôm các loại....
Vùng ven biển ĐBSCL: gồm các tỉnh nằm ven biển của Đồng Bằng Sông
Cửu Long như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau, Kiên Giang…Đây là khu vực hoạt động thủy sản sôi động, hoạt
động nuôi trồng thủy sản trên tất cả các loại mặt nước, đặc biệt là nuôi
tôm, cá tra – basa, sò huyết, nghêu và một số loài cá biển.
Các tỉnh nội vùng: Bao gồm những tỉnh nằm sâu trong đất liền nhưng có
hệ thống sông rạch khá dày đặc như Hà Nội, Bình Dương, Cần Thơ, Hậu
Giang, Đồng Tháp, An Giang, thuận lợi cho nuôi trồng các loài thủy sản
nước ngọt như: cá tra – basa, cá rô phi, cá chép…
Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, với điều kiện lý tưởng có hệ thống
kênh rạch chằng chịt và nhiều vùng giáp biển, đã trở thành khu vực nuôi trồng
và xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam. Theo thống kê, năm 2011 cả nước có
37 tỉnh có doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, trong đó các tỉnh có kim ngạch xuất
khẩu thủy sản lớn nhất lần lượt là Cà Mau (chủ yếu nhờ kim ngạch xuất khẩu
lớn của Minh Phú, Quốc Việt), TP.HCM, Cần Thơ, Đồng Tháp, Khánh Hòa, Sóc
Trăng…
2.7. Mục tiêu quy hoạch đến năm 2020
Tổng sản lượng thủy sản qua chế biến đạt 2,95 triệu tấn. Trong đó:
Sản lượng thủy sản chế biến xuất khẩu 2 triệu tấn.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 11 triệu USD
Tốc độ tăng giá trị kim ngạch thủy sản xuất khẩu 7 %/năm.
Sản lượng thủy sản chế biến tiêu thụ nội địa đạt 950 nghìn tấn, giá trị thủy
sản chế biến tiêu thụ nội địa đạt 22.790 tỷ đồng, tốc độ tăng 5,79 %/năm.
Nâng tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng đạt trên 60%.
Bảng quy hoạch sản lượng CBXK thủy sản theo nhóm sản phẩm
Đơn vị tính sản lượng: nghìn tấn, giá trị: triệu USD
Chỉ tiêu
2015
2020
I Tổng sản lượng CBXK
1. Thủy sản đông lạnh
Cá ĐL
Trong đó: Cá tra
Cá ngừ
Cá khác
Tôm ĐL
Mực và bạch tuộc ĐL
Thủy sản khác ĐL
2. Thủy sản khô
II. Tổng giá trị CBXK
3. Thủy sản ĐL
Cá ĐL
Trong đó: Cá tra
Cá ngừ
Cá khác
Tôm ĐL
Mực và bạch tuộc ĐL
Thủy sản khác ĐL
2. Thủy sản khô
Sản lượng
1.660
1.600
1.090
760
80
250
270
110
130
60
Giá trị
7.500
7.250
3.310
2.300
320
690
2.540
490
910
250
Tỷ lệ (%)
100
96
65,7
45,8
4,8
15,1
16,3
6,6
7,8
3,6
Tỷ lệ (%)
100
97
44,1
30,7
4,3
9,2
33,9
6,5
12,1
3,3
Sản lượng
2.000
1.920
1.320
900
100
320
330
120
150
80
Giá trị
10.750
10.350
4.930
3.300
500
1.130
3.470
650
1.300
400
Tỷ lệ (%)
100
96
66
45
5
16
16,5
6
7,5
4
Tỷ lệ (%)
100
96
45,9
30,7
4,7
10,5
32,3
6
12,1
3,7
CHƯƠNG 2: NGUYÊN LIỆU
1. TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN LIỆU
Cá rô phi vằn có tên khoa học là Oreochromis niloticus, là loài cá có thịt
ngon, giá trị thương phẩm cao, nhanh lớn và dễ nuôi ở các mô hình nuôi khác
nhau. Kết quả nghiên cứu những năm gần đây cho thấy nuôi đơn cá rô phi hay
nuôi ghép với các loài cá khác, cá sinh trưởng nhanh và rất ít khi bị bệnh. Cá rô
phi có khả năng chống chịu tốt với các môi trường sống khác nhau và cho hiệu
quả kinh tế cao. Cá rô phi là một loại cá tăng trưởng nhanh, khỏe mạnh mà từ lâu
đã trở thành nguồn protein chủ yếu ở nhiều quốc gia đang phát triển và gần đây
có nhu cầu cao ở các nước phát triển. Thịt cá rô phi ngọt, bùi, trong thịt cá rô phi
giàu khoáng, ít mỡ, lượng đạm vừa phải, thịt cá rô phi có vị ngọt, tính bình,
không độc, có tác dụng bồi bổ cơ thể ..
Bởi lý do đạt hiệu quả kinh tế cao, nhiều chủng thuộc giống Talipia đã được
du nhập để nuôi trong những ao hồ nước ngọt, tại Trung Mỹ và vùng đông nam
Á. Khoảng 2,3 triệu tấn cá rô phi được sản xuất hàng năm, trong đó 73% là cá
nuôi. Phần lớn cá rô phi được sản xuất ở Trung Quốc, sau đó là Ai Cập,
Indonesia, Thái Lan và Philippines. Mặc dù không được liệt kê vào các nước sản
xuất lớn, Costa Rica, Honduras và Ecuador là những nhà cung cấp cá rô phi phi
lê tươi quan trọng sang Hoa Kỳ.
Tại Hội nghị Quốc tế về Kỹ thuật và Thương mại cá rô phi đã được tổ chức
vào ngày 28-30/5/2001 (Kuala Lumpur, Malaysia) đã nhận định cá rô phi là một
đối tượng đã được thừa nhận có khả năng phát triển rất lớn và là sản phẩm có
nhu cầu rất cao trong những năm tới trên nhiều thị trường thế giới như Mỹ, Nhật
Bản và một phần ở Châu Âu.
Ở Mỹ, cá rô phi xếp thứ 8 trong danh sách 10 loài thủy sản được tiêu thụ
nhiều nhất. Cá rô phi là mặt hàng thuỷ sản được nhập khẩu lớn thứ 3 vào Mỹ,
sau tôm và cá hồi. Đó cũng là thị trường nhập khẩu các sản phẩm cá rô phi lớn
nhất thế giới: năm 1999, nhập khẩu 37.575 tấn; năm 2000 là 40.500 tấn; năm
2001 nhập 70.000 tấn.. Nhật Bản- chuyên tiêu thụ các mặt hàng cá rô phi cao
cấp, nhất là cá rô phi đỏ: năm 1999, nhập 507 tấn.. Thị trường tiêu thụ lớn nhất
của Châu Âu là Anh, kế đến Đức, Pháp, Bỉ, Italia…đã nhập 270 tấn năm
1999.Sản lượng nuôi cá rô phi trên thế giới năm 1990 đạt trên 400 ngàn tấn, năm
1995 đạt trên 800 ngàn tấn, năm 1999 đạt 1,1 triệu tấn, trong đó Châu Á chiếm
trên 70%, riêng Trung Quốc là nước dẫn đầu với gần 50% sản lượng thế giới với
năng suất đạt 6 tấn/ha và Đài Loan là nước xuất khẩu cá rô phi lớn nhất thế giới
với năng suất nuôi trong ao đạt 12 tấn/ha.
Trên cơ sở dự báo về khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường thế giới trong
những năm tới, Bộ Thủy sản đã xác định đây là đối tượng nuôi cần được chú ý
phát triển mạnh để đưa mặt hàng cá rô phi nhanh chóng có sản lượng hàng hóa
lớn và trở thành một trong những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao..
Trước mắt, trong năm 2002-2003, đưa khoảng 13.000 –15.000 ha (khoảng
3% diện tích nuôi nước ngọt) mặt nước của khu vực ĐBSCL vào nuôi cá rô phi
hàng hóa để đạt sản lượng 120.000-150.000 tấn, chế biến xuất khẩu khoảng
70.000 – 100.000 tấn nhằm đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu 100 –120 triệu USD
từ con cá này.
Vĩnh Long có tiềm năng rất lớn về nuôi thủy sản nước ngọt, ngoài tôm càng
xanh, cá tra, những giống loài có giá trị kinh tế cao ngày càng được người nuôi
chú ý để thích ứng với nhịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đang
ngày càng sôi động của tỉnh nhà, trong đó có cá rô phi đỏ (cá điêu hồng) và cá rô
phi được cải thiện di truyền (GIFT, Genetically Improved Farmed Tilapia) đã mở
ra tiềm năng nuôi xuất khẩu đầy triển vọng do cá tăng trưởng nhanh, kích thước
thương phẩm lớn (sau 6 tháng nuôi có thể đạt kích cỡ thương phẩm từ 0,50,6kg/con), có ngoại hình đẹp, tỉ lệ thịt cao, chất lượng thịt ngon.
Các rô phi là nguyên liệu để chế biến thành những món ăn ngon, từ nướng,
chiên, hấp, nấu canh như là cá rô phi kho tiêu , cá rô phi nướng sả , cá rô phi sốt
cà chua ...
2. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
2.1. Nguồn gốc và sự phân bố
Cá rô phi có nguồn gốc từ Châu Phi thuộc họ Cichlidae, bộ cá vược
Perciformes. Cho đến năm 1964, người ta mới biết khoảng 30 loài cá rô phi, hiện
nay con số đó khoảng 100 loài, trong đó khoảng 10 loài có giá trị kinh tế. Những
loài được nuôi phổ biến là cá rô phi vằn, rô phi xanh, rô phi đỏ và rô phi đen
trong đó loài nuôi phổ biên nhất là cá rô phi vằn.
Ngày nay cá rô phi không những được nuôi ở châu Phi mà đã được phát tán
và nuôi ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Trong vài chục năm trở lại đây, chúng mới thừc sự trở thành loài cá nuôi
công nghiệp, sản lượng lớn và giá trị kinh tế cao.
2.2. Phân loại
Dựa vào đặc điểm sinh sản, người ta chia cá rô phi thành 3 giống:
Tilapia (cá đẻ cần giá thể)
Sarotherodon (Cá bố hay cá mẹ ấp trứng trong miệng)
Cá rô và Oreochromis (Cá mẹ ấp trứng trong miệng)
Cá rô phi hiện đang nuôi phổ biến ở Việt Nam thuộc:
Bộ cá vược - PerciForms
Họ - Cichlidae
Giống - Oreochromis
Loài - Cá rô phi vằn O.niloticus.
Hiện nay có 3 loài chính được phổ biến tại Việt Nam là :
Cá rô phi cỏ Oreochromis Mossambicus, được nhập vào Việt Nam năm
1953 từ Thái Lan.
Cá rô phi văn (Rô phi Đài Loan O.niloticus) được nhập vào Việt Nam
năm 1974 từ Đài Loan.
Cá rô phi đỏ (red Tilapia), có màu hồng được nhập vào Việt Nam năm
1985 từ Maliaxia.
2.3. Đặc điểm hình thái
Loài cá rô phi vằn Oreochromis
niloticus : Toàn thân phủ vảy, ở phần
lưng có màu xám nhạt, phần bụng có
màu trắng ngà hoặc xanh nhạt. Trên
thân có từ 7 - 9 vạch chạy từ phía lưng
xuống bụng. Các vạch đậm dọc theo
vây đuôi ở từ phía lưng xuống bụng rất
rõ . Cá rô phi vằn là loài có kích cỡ
thương phẩm lớn, lớn nhanh và đẻ thưa
hơn cá rô phi đen. Ðây là loài được
nuôi phổ biên nhất trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.
Loài cá rô phi đen Oreochromis mossambicus : Toàn thân phủ vảy, vảy ở
lưng có màu xám tro đạm hoặc xanh đến hơi nhạt. Phần bụng có màu trắng xám
hoặc xám ngà. Trên thân và vây đuôi không có các sọc chạy từ phía lưng xuống
bụng như ở cá rô phi vằn. Cá rô phi đen ( còn cọi là cá rô phi cỏ, rô phi sẻ ) là
loài lớn chậm, kích cỡ thương phẩm nhỏ, đẻ mau nên không được ưa chuộng.
Ngoài ra còn một số giống cá rô phi khác như cá rô phi đỏ ( cá diêu hồng )
cũng được nuôi khá phổ biến hiện nay, đặc biệt là ở ÐBSCL.
Cá rô phi thay đổi theo giai đoạn phát triển và môi trường nuôi. Cá rô phi là
loài cá ăn tạp nghiêng về thực vật, thức ăn chủ yếu là tảo và 1 phần thực vật bậc
cao và mùn bã hữu cơ. Ở giai đoạn cá con từ cá bột lên cá hương, thức ăn chủ
yếu là động vật phù du và 1 ít thực vật phù du . Từ giai đoạn cá hương đến cá
trưởng thành thức ăn chủ yếu là mùn bã hữu cơ và thực vật phù du. Cá rô phi có
khả năng tiêu hoá các loài tảo xanh, tảo lục mà 1 số loài cá khác không có khả
năng tiêu hoá. Ngoài ra cá rô phi còn ăn được thức ăn bổ sung như cám gạo, bột
ngô, các loại phụ phẩm nông nghiệp khác.
Ðặc biệt cá rô phi có thể sử dụng rất có hiệu quả thức ăn tinh như : cám
gạo, bột ngô, khô dầu lạc, đỗ tương, bột cá ... và các phụ phẩm nông nghiệp
khác. Trong nuôi thâm canh nên cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm cao ( 18 35% Protein ).
Phân biệt cá đực và cá cái:
Đặc điểm phân Cá đực
biệt
Đầu
To và nhô cao
Màu sắc
Lỗ niệu sinh dục
Hình dạng huyệt
Cá cái
Nhỏ, hàm dưới trề do ngậm
trứng và con
Vi lưng và vi đuôi sặc sỡ
Màu nhạt hơn
2 lỗ : lỗ niệu sinh dục và lỗ 3 lỗ : lỗ niệu. lỗ sinh dục và
hậu môn
lỗ hậu môn.
Ðầu thoát lỗ niệu sinh dục Dạng tròn, hơi lồi và không
dạng lồi, hình nón dài và nhọn như ở cá đực
nhọn
Trước khi đẻ cá đực đào tổ xung quang bờ ao, nơi có nền đáy cứng, độ sâu
mực nước 50 - 60 cm. Hố hình lòng chảo, đường kính tổ đẻ từ 30 - 40 cm, sâu 7
- 10 cm. Cá cái đẻ trứng vào tổ, cá đực tiến hành thụ tinh, sau khi thụ tinh cá cái
nhặt hết trứng vào miệng để ấp.
Ở nhiệt độ 28°C thời gian ấp khoảng 4 ngày .
Ở nhiệt độ 30°C thời gian ấp khoảng 2 - 3 ngày .
Ở nhiệt độ 20°C thời gian ấp khoảng 6 ngày .
Cá sau khi nở lượng noãn hoàng lớn, cá rất yếu, cá mẹ tiếp tục ấp trong
miệng từ 4 - 6 ngày, cá mẹ nhả con và vần tiếp tục bảo vệ ở phía dưới trong 1-2
ngày đầu. Cá bột khi còn nhỏ thường bơi thành đàn xung quanh ao, có thể quan
sát được vào lúc sáng sớm.
2.4. Môi trường sống
Nhiệt độ:
Nhiệt độ cần thiết cho sự phát triển của cá rô phi từ 20-32oC, thích hợp
nhất là 25-32oC. khả năng chịu đựng với biến đổi nhiệt độ cũng rất cao từ 842oC, cá chết rét ở 5,5oC và bắt đầu chết nóng ở 42oC. Nhiệt độ càng thấp thì cá
càng giảm ăn, ức chế sự tăng trưởng và tăng rủi ro nhiễm bệnh.
Độ mặn:
Cá rô phi là loài rộng muối, có khả năng sống được trong môi trường nước
sông, suối, đập tràn, hồ ao nước ngọt, nước lợ và nước mặn có độ muối từ 040%.
Trong môi trường nước lợ (độ mặn 10-25‰) cá tăng trưởng nhanh, mình
dày, thịt thơm ngon.
pH:
Môi trường có độ pH từ 6,5-8,5 thích hợp cho cá rô phi, nhưng cá có thể
chịu đựng trong môi trường nước có độ pH thấp bằng 4.
Oxy hoà tan:
Cá rô phi có thể sống được trong ao, đìa có màu nước đậm, mật độ tảo dày,
có hàm lượng chất hữu cơ cao, thiếu Oxy. Yêu cầu hàm lượng oxy hoà tan trong
nước của cá rô phi ở mức thấp hơn 5-10 lần so với tôm sú.
- Xem thêm -