Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Bồi dưỡng học sinh giỏi địa lý chuyên đề địa hình việt nam và một số bài tập liê...

Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi địa lý chuyên đề địa hình việt nam và một số bài tập liên quan đến địa hình

.PDF
35
1703
70

Mô tả:

TRƯỜNG THPT CHUYÊN BIÊN HÒA Người viết: Nguyễn Thị Hà BÀI THAM GIA HỘI THẢO CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI - ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ MÔN: ĐỊA LÝ Đề tài: Địa hình Việt Nam và một số bài tập liên quan đến địa hình PHẦN MỞ ĐẦU Địa hình là thành phần cơ bản và bền vững nhất của cảnh quan. Đây cũng là nơi diễn ra mọi hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Địa hình là yếu tố đầu tiên con người phải tính đến trong quá trình tổ chức lãnh thổ của mình, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Để khai thác được kĩ càng nội dung này, ngoài việc nêu những đặc điểm chung của địa hình, còn phải phân tích kĩ từng yếu của địa hình cùng các nội dung liên quan, tác động thường xuyên đến địa hình. Khi khai thác, tìm hiểu địa hình, trước hết phải nắm vững phần kiến thức cơ bản hay chính là đặc điểm địa hình của nước ta. Sau đó, phân tích nó dưới nhiều góc độ, ở từng khu vực khác nhau thông qua các dạng bài từ nhiều trang Atlat Địa lí Việt Nam. Giáo viên nên đặt ra nhiều kiểu câu hỏi: phân tích, giải thích, chứng minh, so sánh,…để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Kết hợp giữa lí thuyết và vận dụng để khai thác nhuần nhuyễn Atlat chính là yêu cầu không thể thiếu đối với học sinh trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Phần chuyên đề của chúng tôi dưới đây có những nội dung chính như sau: - Chương 1: Đặc điểm chung của địa hình - Chương 2: Các kiểu địa hình và các khu vực địa hình - Chương 3: Ảnh hưởng của địa hình đến thiên nhiên và sự phát triển kinh tế - xã hội - Chương 4: Một số bài tập liên quan đến địa hình 1 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỊA HÌNH 1.1 Địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích nhưng chủ yếu là đồi núi thấp 1.1.1 Trên đất liền Đồi núi chiếm tỉ lệ lớn, tới 3/4 diện tích lãnh thổ, phần còn lại là đồng bằng. Đồi núi thấp chiếm hơn 60% diện tích nước ta. Nếu kể cả đồng bằng thì địa hình thấp dưới 1000m chiếm 85% diện tích, địa hình cao trên 2000m chỉ chiếm khoảng 1% diện tích của cả nước. Bản thân nền móng các đồng bằng cũng là miền núi sụt võng, tách dãn được phù sa sông bồi đắp tạo thành. Vì thế hiện tại trên các đồng bằng ở nước ta còn có nhiều núi sót, nhô cao như Sài Sơn (Hà Nội), núi Voi (Hải Phòng), Non Nước (Ninh Bình), Thất Sơn (An Giang), Hòn Đất (Kiên Giang). Đồi núi tạo thành biên giới tự nhiên bao quanh phía bắc và phía tây giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam với Lào và phần lớn biên giới với Campuchia. 1.1.2 Các hải đảo Đồi núi nhấp nhô trên mặt biển làm thành các hải đảo, quần đảo ở Quảng ninh, Hải Phòng, các đảo ngoài khơi Trung Bộ, Cù lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc và các quần đảo ở Kiên Giang. Đồi núi còn lan ngầm dưới đáy biển, tạo ra những thâm ngầm làm chỗ dựa cho san hô phát triển hình thành các đảo san hô như Trường Sa và Hoàng Sa. 1.2 Cấu trúc địa hình nước ta khá đa dạng 1.2.1 Hệ thống núi già được tân kiến tạo nâng lên làm trẻ lại Giai đoạn cổ kiến tạo đã tạo lập nền móng các đồi núi sau đó các hoạt động ngoại lực đã làm cho địa hình đồi núi cổ bị san bằng thành dạng bán bình nguyên. Đến thời kì Miôxen của đại Tân sinh cách đây hơn 23 triệu năm, những vận động mới đã nâng cao những vùng núi cũ, nền móng cũ. Sông suối, nước chảy trên mặt đã cắt xẻ sâu vào bán bình nguyên cổ để tạo nên những khe sâu, 2 những sườn núi dốc đứng hiện nay. Đây là kết quả của sự cắt xẻ bề mặt bán bình nguyên cổ theo nhiều bậc của ngoại lực. Tác động của dòng nước, của gió, của nhiệt độ... thường xuyên đã làm biến đổi bề mặt địa hình cổ. Khi các lớp đất đá trẻ nhưng vụn bở bị bóc đi làm lộ ra các vỉa đá rắn, nếp núi cổ như đỉnh Phu Hoạt, Pu Xai Lai Leng, Rào Cỏ, Mẫu Sơn. Khi các lớp trầm tích trẻ không phủ hết cấu trúc cũ cũng làm lộ ra các địa hình già như các núi sót ở các đồng bằng tạo nên sự tương phản trên địa hình: núi nổi cao giữa đồng bằng. Kiến trúc cổ chi phối hướng địa hình hiện đại, quy luật này thể hiện qua hướng vòng cung của các nếp núi bao quanh khối Vòm sông Chảy ở khu vực Đông Bắc và Việt bắc, hướng tây bắc - đông nam ở vùng núi Tây Bắc, Trường Sơn Bắc do các nhân đá kết tinh cổ song song và kéo dài theo hướng tây bắc đông nam và hướng vòng cung của dãy núi Động Ngài, Bạch Mã, Lang Biang bao quanh khối nền cổ Inđôxini. Hướng các dòng sông lớn trùng với hướng các đứt gãy cổ kiến tạo quyết định như sông Hồng, sông Chảy, sông Cả, sông Gianh. Giữa địa hình và nham thạch cấu tạo nên địa hình có mối quan hệ chặt chẽ, vì thế nhìn địa hình có thể đoán biết nham thạch: - Địa hình mềm mại, lượn sóng: Thường là của đá phiến, đá cát kết, đá sét kết. Nhân dân quen gọi là "núi kết" hoặc bán sơn địa. - Địa hình caxtơ hiểm trở, vách dựng đứng nhiều hang động ngầm đặc trưng cho cấu tạo đá vôi. - Địa hình cao, đỉnh nhọn là các đá phun trào riolit như Tam Đảo, Mẫu Sơn. - Địa hình cao nguyên rộng lớn, đất đá sẫm là đá badan phun trào. - Địa hình thấp, bằng phẳng là do nham thạch phù sa bở rời. 1.2.2 Địa hình có tính phân bậc rõ rệt và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam Địa hình nước ta được phân thành khá nhiều bậc, bao gồm các bậc địa hình núi cao trên 2000m, từ 1000m đến 2000m và dưới 1000m. Cụ thể: - Địa hình núi cao trên 2000m: Ngoài các khu vực đỉnh núi đơn lẻ với độ cao trên 2400m cho đến 3000m, ở các vùng núi cao có thể quan sát thấy một bậc 3 địa hình ở độ cao 2100m đến 2200m vốn nằm chung trên một mặt bằng bán bình nguyên cổ sau đó bị chia cắt mà thành các đỉnh núi đơn độc hoặc các dải núi kéo dài. Điển hình nhất của địa hình này là vung núi cao Hoàng Liên Sơn. - Bậc địa hình có độ cao từ 1000m đến 2000m bao gồm: + Bậc địa hình từ 1500m đến 1800m: Đay cũng vốn là các bán bình nguyên cổ của nước ta còn sót lại khá rộng như các cao nguyên đá vôi Đồng Văn, Bắc Hà, vùng núi Sa Pa, Đà Lạt. + Bậc địa hình có độ cao từ 1000m đến 1400m: Khá phổ biến ở vùng núi phía Bắc, Trường Sơn và Tây Nguyên. - Các bậc địa hình của vùng đồi núi và đồng bằng có độ cao dưới 1000m: + Bậc địa hình có độ cao từ 600 - 900m: Đây là bậc địa hình có độ cao trung bình tiêu biểu cho vùng núi thấp tập trung nhiều ở vùng núi phía bắc và cao nguyên Kon Tum, Plây Cu, Đắk Lắk ở Tây Nguyên. + Bậc địa hình có độ cao từ 200 - 600m: Là bậc địa hình có diện tích lớn nhất nước ta và phân bố rộng khắp ở trung du Bắc Bộ, các vùng đồi núi thấp chân núi ở Trung Bộ và nam Tây Nguyên đến đồng bằng Nam Bộ. + Bậc địa hình có độ cao từ 25 - 100m: Bậc địa hình này là vùng đồi gò thấp phần lớn là các bậc thềm phù sa có tuổi đệ tứ ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ. + Bậc địa hình thấp dưới 15m: Tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển là các bậc thềm sông và thềm biển hiện đại. - Cấu trúc địa hình gồm 2 hướng chính: + Hướng tây bắc - đông nam thể hiện rõ rệt từ hữu ngạn sông Hồng đến dãy Bạch mã. + Hướng vòng cung thể hiện ở vùng núi Đông Bắc và khu vực Nam Trung Bộ (Trường Sơn Nam). 1.3 Địa hình của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa Biểu hiện ở xâm thực mạnh ở miền đồi núi, bồi tụ nhanh ở hạ lưu, lớp vỏ phong hóa dày với nhiều hiện tượng đất trượt và sụt lở trên bề mặt địa hình. 4 1.3.1 Xâm thực mạnh ở miền đồi núi Nền nhiệt ẩm cao với một mùa mưa và một mùa khô xen kẽ thúc đẩy quá trình xâm thực mạnh mẽ, bề mặt địa hình bị cắt xẻ, đất bị bào mòn rửa trôi... - Điều kiện nóng ẩm đẩy nhanh cường độ phong hóa, xâm thực, bào mòn, rửa trôi đất đá trên sườn dốc. Biểu hiện của quá trình này là bề mặt địa hình bị cắt xẻ, hẻm vực, khe sâu, đất bị bào mòn rửa trôi nhiều nơi chỉ còn trơ sỏi đá, những hiện tượng đất trượt, đá lở thành những nón phóng vật tích tụ ở dưới chân núi. - Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa đẩy nhanh tốc độ hòa tan và phá hủy đá vôi, tạo thành các địa hình caxtơ với các hang động ngầm, suối cạn, thung khô, các đồi đá vôi sót ở vùng núi đá vôi. - Khí hậu đã làm sâu sắc hơn, rõ nết hơn tính chất trẻ của địa hình đồi núi Việt Nam do Tân kiến tạo để lại. Có thể nói quá trình xâm thực bào mòn của do tác động của dòng nước là quá trình địa mạo đóng vai trò chủ yếu tạo nên hình thái của địa hình đồi núi nước ta hiện nay. 1.3.2 Bồi tụ nhanh ở hạ lưu - Hệ quả của quá trình xâm thực, bào mòn mạnh ở miền núi là sự bồi tụ, mở mang nhanh các đồng bằng hạ lưu sông. - Rìa phía đông nam của đồng bằng sông Hồng và rìa phía tây nam của đồng bằng sông Cửu Long hàng năm lấn ra biển từ vài chục đến gần trăm mét. 1.3.3 Lớp vỏ phong hóa dày Bị mưa nắng công phá, bề mặt địa hình bị thay đổi tạo nên lớp vỏ phong hóa dày, có nơi tới 10 - 15m. Trên cùng của lớp vỏ phong hóa là tầng đất mềm (thổ nhưỡng) và rừng cây che phủ bảo vệ. Lớp vỏ phong hóa có đặc tính thấm nước, vụn bở dễ dàng bị phá hủy, xói mòn và rửa trôi nhất là những nơi có địa hình dốc, lớp phủ thực vật và thổ nhưỡng bị tàn phá. Ở nước ta quá trình phong hóa hóa học diễn ra mạnh. Các vùng núi đá vôi bị nước mưa hòa tan tạo nên những hang động lớn và suối ngầm. Còn các vùng đá măcma, biến chất quá trình phong hóa diễn ra yếu và chậm hơn. 5 1.3.4 Các hiện tượng đất trượt và sụt lở trên bề mặt địa hình Địa hình nước ta thường xuyên xảy ra các hiện tượng thiên nhiên bất lợi như đất trượt, đất chảy, đá đổ, hang động ngầm. Ở miền núi khi gặp mưa lớn thường xảy ra lũ bùn, lũ quét. Hiện tượng kết von và đá ong hóa xảy ra trong lớp vỏ phong hóa và thổ nhưỡng diễn ra khá mạnh. 1.4 Địa hình chịu tác động mạnh mẽ của con người Con người từ khi xuất hiện đã tác động lên địa hình theo cả hai hướng: tích cực và tiêu cực, để phục vụ cho mục đích cư trú và sản xuất của mình. Các hoạt động thường diện ra ở vùng đồng bằng như đắp đe, đào sông, xây dựng... đã tạo nên nhiều dạng địa hình mới. Ở miền núi điển hình với hoạt động phá rừng, làm nương rẫy, ruộng bậc thang...cũng đã làm cho địa hình miền núi thay đổi lớn. Hiện nay, nước ta có dân số đông nên vẫn đang tiếp tục tác động sâu sắc lên địa hình. 6 CHƯƠNG 2: CÁC KIỂU ĐỊA HÌNH VÀ CÁC KHU VỰC ĐỊA HÌNH 2.1 Các kiểu địa hình Căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài, còn gọi là hình thái và trắc lượng hình thái của địa hình, có thể phân biệt địa hình nước ta thành các kiểu hình thái địa hình như sau: - Kiểu địa hình núi: Kiểu địa hình núi với đặc điểm chung là độ cao tuyệt đối và tương đối khá lớn. Về ngoại hình, thường là các khối núi hay dãy núi, có độ chia cắt sâu và sườn dốc lớn. + Kiểu địa hình núi cao: có độ cao trên 2000m, chiếm tỉ lệ diện tích không lớn lắm, tập trung ở biên giới phía bắc từ Hà Giang đến Lai Châu và biến giới phía tây thuộc 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh như đỉnh Phu Hoạt, Pu Xai Lai Leng, Rào Cỏ. Tiêu biểu là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Si Păng cao 3143m. Ở khu vực phía nam dãy Trường Sơn cũng có một số đỉnh cao trên 2000m như Ngọc Linh, Ngọc Kring, Vọng Phu... + Kiểu địa hình núi trung bình: có độ cao tuyệt đối từ 1000m đến dưới 2000m, chiếm diện tích không lớn nhưng cũng được phân bố khá rộng khắp từ biên giới phía bắc đến phía nam dãy Trường Sơn. Kiểu địa hình này thường có thung lũng hẹp, sườn dốc 25 - 30o, có dạng đỉnh núi, khối núi và dãy núi đơn độc tách biệt với vùng núi cao như đỉnh Phia Ya, Mẫu Sơn, Nam Châu Lãnh, Tam Đảo... hoặc gắn liền với các vùng núi cao ở Tây Bắc, bắc và nam dãy núi Trường Sơn. + Kiểu địa hình núi thấp: có độ cao trung bình từ 500m đến dưới 1000m, thường liền kề với vùng núi trung bình và vùng đồi thành một dải liên tục với các bậc địa hình cao thấp khác nhau, thậm chí kiểu địa hình này còn gặp ở ngay vùng đồng bằng và vùng ven biển dưới dạng núi sót như núi Voi, núi Đồ Sơn, núi Bà Đen, núi Thất Sơn và các đảo ven bờ. Kiểu địa hình này tập trung thành một khu vực rộng lớn ở Nam Trung Bộ, thành khối núi rời rạc ở Việt Bắc, Đông Bắc và dải hẹp ở biên giới Việt - Lào thuộc Bắc Trung Bộ. - Kiểu địa hình cao nguyên: 7 + Cao nguyên đá vôi điển hình ở phía bắc và tây bắc nước ta. Đặc điểm chung là độ cao khá lớn nhưng bề mặt khá bằng phẳng, mạng lưới sông suối thưa thớt và rất hiếm nước, nhất là vào mùa khô. Điển hình như cao nguyên Đồng Văn, Sơn La, Mộc Châu... + Cao nguyên badan: tập trung ở Tây Nguyên và rìa của vùng Đông Nam Bộ. Địa hình có dáng mềm mại, bằng phẳng hơn so với cao nguyên đá vôi, trên mặt cao nguyên còn có nhiều di tích của các hoạt động núi lửa như nón miệng núi lửa, hồ tròn. Điển hình như cao nguyên Kom Tum - Plây Cu, Đăk Lăk, Mơ Nông, Di Linh. + Cao nguyên hỗn hợp các loại đá trầm tích, măcma và biến chất: là các cao nguyên bóc mòn có độ cao khá lớn ở phía bắc tỉnh Lâm Đồng. Ở đây địa hình bằng phẳng xen kẽ với dãy đồi và ngọn đồi thoải, tiêu biểu là cao nguyên Lâm Viên - Đà Lạt... - Kiểu địa hình sơn nguyên có độ cao tuyệt đói như độ cao của núi, nhưng vùng đỉnh vẫn giữ dạng đồi thấp, lượn sóng với độ cao tương đối 25 - 100m. - Kiểu địa hình đồi: Có độ cao tuyệt đối dưới 500m, độ cao tương đối 25 - 200m. Địa hình đồi thường gắp ở vùng giáp ranh có tính chất chuyển tiếp từ địa hình miền núi xuống đồng bằng. Kiểu địa hình đồi của nước ta thường phổ biến dưới 2 dạng: + Đồi bát úp: Chủ yếu gồm những quả đồi riêng biệt có kích thước tương tự nhau và được ngăn cách với nhau bởi các thung lũng xâm thực. + Dãy đồi: Gồm các các đồi nối tiếp nhau dưới dạng yên ngựa hoặc lượn sóng. Các dãy đồi thường nằm xen kẽ nhau, giữa chúng là các khoảng trũng hoặc các thung lũng. - Kiểu địa hình bán bình nguyên: hình thành tại vùng Tân kiến tạo ổn định, ở ranh giới giữa vùng nâng và vùng sụt, độ cao tuyệt đối 100 - 200m, độ dốc dưới 8o. Phân bố ở rìa các đồng bằng lớn (vùng trung du Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Giang, Đông Nam Bộ) hoặc bên trong các đồng bằng duyên hải (Móng Cái, Thừa Thiên Huế, Bình Thuận). 8 - Kiểu địa hình đồng bằng: Thuộc bậc địa hình thấp nhất, phần lớn nằm ở phái đông lãnh thổ tiếp giáp với biển Đông. Có đặc điểm chung là rất bằng phẳng, tuyệt đại bộ phận có độ cao thấp, thường không vượt quá 15m, được b ồi đắp bằng trầm tích biển, trầm tích lục địa và phù sa các con sông lớn trên các vùng trũng, sụt lún mạnh. Kiểu địa hình đồng bằng điển hình nhất ở nước ta là hai vùng đồng bằng lớn là đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ, ngoài ra cũng có một số nét riêng ở dải đồng bằng ven biển miền Trung. - Các kiểu địa hình đặc biệt: + Kiểu địa hình caxtơ: thung - động caxtơ (rìa núi Bắc Sơn), núi caxtơ (Pu Tha Ca - Hà Giang), sơn nguyên caxtơ (Quản Bạ - Đồng Văn), hang động caxtơ (Phong Nha). + Thung lũng và lòng chảo miền núi: Điện Biên, Nghĩa lộ, An Khê. + Kiểu địa hình bờ biển: bờ biển bồi tụ (khu vực cửa sông Hồng, từ cửa sông Sài Gòn đến Hà Tiên), bờ biển mài mòn (từ mũi Đại Lãnh đến Mũi Dinh), bồi tụ - mài mòn (khu vực ven biển Quảng Ninh, miền Trung từ Thanh Hóa đến mũi Dinh...) + Kiểu địa hình đảo: đảo núi đất, núi đá ven bờ; đảo san hô. 2.2 Các khu vực địa hình 2.2.1 Khu vực đồi núi 2.2.1.1 Vùng núi Đông Bắc Vị trí nằm ở tả ngạn sông Hồng. Bao gồm một loạt các dãy núi chạy theo hướng cánh cung uốn quanh khối núi đá kết tinh cổ thượng nguồn sông Chảy. Các cánh cung này mở rộng về phía bắc và quy tụ ở núi Tam Đảo, bao gồm các cánh cung Sông Gâm, cánh cung Ngân Sơn, cánh cung Bắc Sơn và cánh cung Đông Triều. Do ảnh hưởng của hoạt động Tân kiến tạo nên khu vực này được nâng lên với cường độ trung bình và dốc từ tây bắc về đông nam. Đa số các núi thuộc loại thấp, từ độ cao 2000m xuống còn 1500m - 500m và thấp dần ra biển. Khu vực mang hình thái của núi già được trẻ hóa: đỉnh tròn, sườn thoải, độ dốc và độ chia cắt yếu. 9 Ngoài cánh cung còn có những dải sơn nguyên đá vôi, độ cao trung bình 1000m và chạy dọc biên giới Việt - Trung từ Lào Cai đến Cao Bằng. Đó là các sơn nguyên Mường Khương (772m), sơn nguyên Bắc Hà (974m), sơn nguyên Sinmacai, sơn nguyên Quản Bạ (870m), sơn nguyên Đồng Văn (1842m) và sơn nguyên Mèo Vạc (950m). Trên nền các sơn nguyên đá vôi có các khối núi cao trên dưới 2000m như: Tây Côn Lĩnh (2431m), Kiều Liêu Ti (2403m), Pu Tha Ca (2274m), Phia Ya (1979m), Phia Uăc (1931m). Trung tâm là vùng đồi núi thấp 500 - 600m. Giữa vùng núi và đồng bằng là vùng đồi trung du thấp dưới 100m. 2.2.1.2 Vùng núi Tây Bắc Khu vực núi nằm giữa sông Hồng và sông Cả, có hướng nghiêng và hướng núi tây bắc - đông nam. Là khu vực cao và đồ sộ nhất Việt Nam với nhiều đỉnh cao trên 2000m, có những đỉnh trên 3000m: Phan Si Păng (3143m), Pu Si Lung (3076m), Pu Trà (2504m), Phu Luông (2985m)... Núi cao và núi trung bình chiếm ưu thế. Khu vực mang đặc điểm hình thái của núi trẻ với sống núi rõ, sắc sảo, sườn dốc, khe sâu, độ chia cắt ngang và chia cắt sâu lớn. Khu vực gồm có 3 mạch núi chính: + Phía đông là dãy Hoàng Liên Sơn gồm nhiều đỉnh núi cao nhất cả nước. + Phía tây là vùng núi cao trung bình cảu các dãy núi chạy dọc theo biên giới Việt - Lào. + Ở giữa thấp hơn là các dãy núi, sơn nguyên, cao nguyên đá vôi như Sơn La, Mộc Châu... Nối tiếp với những dãy núi trên là vùng núi Ninh Bình - Thanh Hóa. Xen giữa các dãy núi, cao nguyên là các bồn trũng, mở rộng thành các cánh đồng giữa núi như đồng bằng Nghĩa Lộ ở Điện Biên, đồng bằng Mường Thanh... Ở đây, các thung lũng sông nằm giữa các dãy núi có cùng hướng tây bắc - đông nam khiến địa hình tăng thêm sự chia cắt sâu sắc. 2.2.1.3 Vùng núi Trường Sơn Bắc Khu vực kéo dài từ phía nam sông Cả đến núi Bạch Mã. Núi Trường Sơn được nâng lên với hai sườn không đối xứng. Sườn phía tây (trên lãnh thổ Lào) 10 rộng và thoải dần về thung lũng sông Mê Công, còn sườn phía đông (thuộc Việt Nam) hẹp và dốc, núi lan ra sát biển. Dãy núi Trường Sơn Bắc bao gồm một chuỗi các dãy núi cùng hướng tây bắc - đông nam, có đường chia nước chạy dọc biên giới Việt - Lào, phân chia 2 lưu vực giữa sông Mê Công và các sông ven biển miền Trung. Ngoài ra còn có hướng tây - đông (dãy Bạch Mã). Núi ở đây không cao lắm, chỉ trên dưới 1000m song có một vài đỉnh cao trên 2000m nhu Pu Lai Leng (2771m), Rào Cỏ (2235m).Các đỉnh núi nhô cao phần lớn là những khối nền cổ đá măcma xâm nhập được Tân kiến tạo nâng lên mạnh. Nơi thấp nhất của các đường chia nước là các đèo. 2.2.1.4 Vùng núi Trường Sơn Nam Khu vực này nằm ở phía nam dãy Bạch Mã đến hết vùng núi cực Nam Trung Bộ. Gồm các khối núi và cao nguyên cao hơn ở khu vực Trường Sơn Bắc do được Tân kiến tạo nâng lên mạnh. Kèm theo sự nâng lên là sự phun trào mãnh liệt đá badan tạo nên một vùng cao nguyên đá đỏ rộng lớn. Vùng núi hướng vòng cung, dựng đứng ở phía đông và thoải dần về phía tây: - Phía đông khối núi Kon Tum và cực Nam Trung Bộ có địa hình mở rộng, nâng cao đồ sộ, địa hình xô về phía đông với nhiều đỉnh cao trên 2000m: Ngọc Linh (2598m), Vọng Phu, Chư Yang Sin... - Phía tây là các cao nguyên có bề mặt mở rộng khá bằng phẳng, có độ cao trung bình 500 - 1000m và các bán bình nguyên xen đồi. 2.2.2 Địa hình bán bình nguyên và vùng đồi trung du Dạng địa hình bán bình nguyên và vùng đồi trung du nằm ở nơi chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng: - Địa hình bán bình nguyên phổ biến chủ yếu ở Đông Nam Bộ với các bậc thềm phù sa cổ ở độ cao 100m và bề mặt phủ badan ở độ cao chừng 200m. - Địa hình đồi trung du chủ yếu ở rìa đồng bằng sông Hồng và thu hẹp ở rìa đồng bằng duyên hải miền Trung. Chủ yếu là các bậc thềm phù sa cổ bị chia cắt do tác động của dòng chảy. 11 2.2.3 Khu vực đồng bằng Khu vực đồng bằng có diện tích nhỏ, chiếm khoảng 1/4 diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu ở phía đông - nam thành một dải liên tục từ bắc vào nam. Đồng bằng nước ta được hình từ hai nguồn chính là do phù sa sông bồi đắp (đồng bằng châu thổ) và do cả sông và biển bồi tụ (đồng bằng ven biển). 2.2.3.1 Đồng bằng sông Hồng Đồng bằng sông Hồng có nguồn gốc là sự bồi tụ phù sa của sông Hồng và sông Thái Bình. Đồng bằng có dạng một tam giác cân, đáy là đoạn bờ biển từ Hải Phòng đến Ninh Bình, đỉnh là Việt Trì ở độ cao 15m. Đồng bằng rộng 15000km2, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. Địa hình khá bằng phẳng, trong đồng bằng có xen kẽ một số ô trũng, ao hồ dễ ngập úng và một số khu vực đồi núi sót. Trong vùng có trên 2000m đê lớn, nhỏ chia cắt đồng bằng thành từng ô trũng, khó thoát nước vào mùa mưa lũ. Ô trũng lớn nhất nằm ở vùng trong đê giữa sông Hồng và sông Đáy. Do địa hình đã được con người khai thác từ lâu đời nên bị biến đổi mạnh. Bở biển phẳng, thêm lục địa nông, mở rộng nên khả năng mở rộng lớn, sông Hồng vẫn tiếp tục bồi đắp phù sa cho châu thổ sông Hồng và hàng năm lấn ra biển hàng chục mét. Đất của đồng bằng chủ yếu là đất phù sa ngọt trong đê không được bồi đắp hàng năm. Ngoài ra, bên ngoài đê có diện tích nhỏ đất phù sa được bồi tụ hàng năm, vùng ven biển có diện tích nhỏ đất ngập mặn đang được cải tạo thành ruộng cói, ruộng lúa hoặc nuôi thả tôm cua. 2.2.3.2 Đồng bằng sông Cửu Long Là đồng bằng châu thổ được bồi tụ bởi phù sa hàng năm của hệ thống sông Cửu Long (sông Tiền và sông Hậu). Đồng bằng có dạng tứ giác châu thổ, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. Với diện tích khoảng 40000km2, địa hình thấp và bằng phẳng hơn so với địa hình đồng bằng sông Hồng. Trên bề mặt đồng bằng không có đê nhưng có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, về mùa lũ nước ngạp trên diện rộng, còn về mùa cạn, nước triều lấn mạnh làm cho gần 2/3 diện tích đồng bằng là đất phèn, đất mặn. Địa hình có xen kẽ những vùng trũng lớn chưa được phù sa bồi tụ đầy như khu vực Đồng Tháp Mười, tứ giác Long 12 Xuyên, giữa bán đảo Cà Mau. Địa hình bở biển phẳng, thềm lục địa nông và mở rộng hơn so với thềm lục địa của đồng bằng sông Hồng, vì vậy khả năng mở rộng đồng bằng còn rất lớn, lớn hơn nhiều so với đồng bằng sông Hồng. Về cơ cấu đất: Chủ yếu là đất phù sa được bồi đắp hàng năm, chia thành 3 loại: Đất phù sa ngọt phân bố chủ yếu dọc sông Tiền, sông Hậu, chiếm diện tích lớn là đất bị nhiễm phèn và đất bị nhiễm mặn. 2.2.3.3 Đồng bằng duyên hải miền Trung Đồng bằng có diện tích khảng 15000km2. Biển có vai trò quan trọng trong việc hình thành đồng bằng này. Đồng bằng kéo dài, hẹp ngang và bị chia cắt mạnh bởi các mạch núi ăn lan ra sát biển, chia đồng bằng thành nhiều đồng nhỏ, trong đó lớn nhất là đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Ở nhiều đồng bằng thường có sự phân chia thành ba dải: giáp biển, ở giữa và trong cùng. Trong đó, dải giáp biển có nhiều cồn cát, đầm phá, thường xuyên chịu tác động của biển. Ở giữa là vùng trũng thấp. Dải trong cùng được bồi tụ thành đồng bằng. Địa hình bờ biển khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp và sâu nên khả năng mở rộng đồng bằng chậm. Đất phù sa cát chiếm diện tích chủ yếu trong cơ cấu đất của đồng bằng. Loại đất này thường nghèo dinh dưỡng, kém hơn phù sa đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra trong vùng cũng có đất phù sa ngọt (diện tích không đáng kể), đất phù sa cổ. 13 CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỊA HÌNH ĐẾN THIÊN NHIÊN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 3.1 Ảnh hưởng của địa hình đến các thành phần tự nhiên 3.1.1 Ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên nước ta - Địa hình nhiều đồi núi làm thiên nhiên phân hóa đa dạng theo độ cao. Ngoài ra, hướng sơn văn của địa hình đồi núi nước ta làm thiên nhiên phân hóa theo chiều bắc - nam, đông - tây. - Cảnh quan thiên nhiên phân hóa theo độ cao: + Địa hình ở độ cao dưới 600 - 700m ở miền Bắc, 900 - 1000m ở miền Nam, thiên nhiên mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. + Từ 600 - 700m đến 2600m ở miền Bắc và 900 - 1000m đến 2600m ở miền Nam: Thiên nhiên mang tính chất nhiệt đới ẩm trên núi, khí hậu mang tính chất á nhiệt đới mát mẻ, mùa hạ nhiệt độ dưới 25oC, xuất hiện đất feralit có mùn (do quá trình ferralit yếu dần), về sinh vật xuất hiện loại thú lông dày, ưa lạnh. + Trên 2600m, thiên nhiên giống như vùng ôn đới, xuất hiện khí hậu ôn đới núi cao lạnh, nhiệt độ trung bình dưới 15oC, nhiệt độ tháng lạnh dưới 5oC, chủ yếu là loại đất mùn thô và sinh vật ôn đới. - Thiên nhiên phân hóa bắc - nam, đông - tây do hướng sơn văn: Cảnh quan thiên nhiên thay đổi từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, từ đồng bằng lên miền núi. Tương ứng với sự thay đổi cảnh quan khác nhau: từ rừng ẩm ướt đến rừng thưa cây bụi gai khô hạn, từ rừng nhiệt đới ẩm chân núi đến rừng ôn đới núi cao. - Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo toàn tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của nước ta: + Do phần lớn là đồi núi thấp nên tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của khí hậu nước ta được bảo toàn (dưới 600 - 700m ở miền Bắc, 900 - 1000m ở miền Nam) + Miền đồi núi có nhiều đai cao nhưng đai nhiệt đới chân núi chiếm diện tích rộng nhất, quá trình feralit phát triển mạnh. Rừng nhiệt đới ẩm gió mùa phát triển trên đất feralit chiếm ưu thế, thành phần loài nhiệt đới chủ yếu. - Địa hình đồi núi cũng gây cho nước ta nhiều thiên tai: xói mòn, lũ quét, lũ ống... ở miền núi, ngập lụt ở đồng bằng. 14 3.1.2 Ảnh hưởng của địa hình đến khí hậu * Độ cao địa hình là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khí hậu, đặc biệt là chế độ nhiệt - Do phần lớn là đồi núi thấp nên tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của khí hậu nước ta được bảo toàn ở vành đai chân núi (dưới 600 - 700m ở miền Bắc, 900 - 1000m ở miền Nam) - Do địa hình nước ta 3/4 là đồi núi nên ngoài sự phân hóa theo chiều bắc nam, khí hậu có sự phân hóa theo độ cao khá rõ: + Địa hình ở độ cao dưới 600 - 700m ở miền Bắc, 900 - 1000m ở miền Nam là đai nhiệt đới gió mùa. Khí hậu biểu hiện rõ rệt ở nền nhiệt độ cao, mùa hạ nóng. Độ ẩm thay đổi tùy nơi từ khô hạn đến ẩm ướt. + Từ 600 - 700m đến 2600m ở miền Bắc và 900 - 1000m đến 2600m ở miền Nam là đai cận nhiệt gió mùa trên núi, khí hậu mát mẻ, mùa hạ nhiệt độ dưới 25oC, mưa nhiều độ ẩm tăng. + Trên 2600m, là đai ôn đới gió mùa trên núi (chỉ có ở Hoàng Liên Sơn) khí hậu có nết giống với khí hậu ôn đới, nhiệt độ trung bình dưới 15oC, nhiệt độ tháng lạnh dưới 5oC. - Theo quy luật đai cao, cư lên cao khoảng 100m thì nhiệt độ giảm khoảng 0,6oC. Vì vậy những vùng núi cao của nước ta có nhiệt độ thấp hơn so với nền nhiệt độ trung bình của nước ta. * Hướng nghiêng chung của địa hình và hướng núi ảnh hưởng rất lớn đến đặc điểm khí hậu - Ảnh hưởng của hướng nghiêng địa hình đến đặc điểm chung của khí hậu. Do địa hình nước ta có hướng nghiêng chung là tây bắc - đông nam thấp dần ra biển kết hợp với hướng các loại gió thịnh hành trong năm nên ảnh hưởng của biển có thể tác động sâu vào trong lục địa khiến tính lục địa của địa phương không thể hiện rõ nét, làm cho khí hậu nước ta mang tính chất khí hậu hải dương điều hòa hơn khác hẳn với các nước cùng vĩ độ ở Tây Á, Đông Phi, Bắc Phi. - Ảnh hưởng của hưởng của hướng núi đến sự phân hóa khí hậu theo chiều bắc - nam, đông - tây. 15 + Hướng vòng cung \ Các cánh cung ở Đông Bắc hút gió làm vùng có mùa đông lạnh nhất cả nước. Phía đông cánh cung Đông Triều mưa nhiều do địa hình đón gió trong khi vùng thung lũng Lạng Sơn, Cao Bằng mưa ít do bị khuất bởi những cánh cung này. \ Dãy Trường Sơn Nam làm cho đồng bằng duyên hải mưa vào thu đông do đón gió, trong khi mùa hạ khô hạn ít do địa hình song song với hướng gió. Còn Tây Nguyên có mưa nhiều vào mùa hạ, mùa khô sâu sắc. + Hướng tây bắc - đông nam \ Dãy Hoàng Liên Sơn: có vai trò ngăn gió mùa đông bắc, làm Tây Bắc có mùa đông đến muộn, kết thúc sớm, đỡ lạnh hơn Đông Bắc. \ Dãy Trường Sơn Bắc: gây hiệu ứng phơn cho đồng bằng duyên hải miền Trung vào mùa hạ, đồng thời gây mưa vào thu đông do địa hình đón gió. + Hướng tây - đông: điển hình là dãy Bạch Mã ngăn gió mùa đông bắc xâm nhập sâu xuống phía nam, góp phần làm miền Nam có nhiệt độ cao hơn phần lãnh thổ phía Bắc. + Các địa điểm nằm ở sườn đón gió của dãy núi thì có lượng mưa lớn, nằm ở sườn khuất gió thì có lượng mưa nhỏ hơn. Vùng núi thượng nguồn sông Chảy, vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, vùng đồng bằng ven biển Quảng Ninh, duyên hải Thừa Thiên - Huế là những nơi mưa nhiều nhất nước ta, trong khi những nơi khuất gió như thung lũng sông Cả, sông Mã, sông Ba lượng mưa trung bình năm rất thấp. - Địa hình làm khí hậu nước ta phân hóa theo vùng miền, thành các kiểu khí hậu khác nhau, làm tăng thêm tính thất thường của khí hậu. 3.1.3 Địa hình ảnh hưởng đến đặc điểm sông ngòi - Hướng nghiêng của địa hình ảnh hưởng đến hướng chảy của sông. Địa hình nước ta nghiêng hướng tây bắc - đông nam thấp dần ra biển nên hầu hết các sông đều đổ ra biển Đông (trừ một số sông ở Tây Nguyên do địa hình nghiêng đông - tây nên sông đổ sang Campuchia). - Độ cao, độ dốc địa hình, sự phân bậc địa hình làm cho sông ngòi bị chia cắt phức tạp, vận tốc chảy lớn. Ở vùng miền núi sông ngòi có độ dốc lớn, nhiều 16 thác ghềnh, lòng sông hẹp sâu và dốc. Còn sông ngòi ở khu vực đồng bằng, tốc độ dòng chảy nhỏ hơn, giảm sự đào sâu lòng mà thay vào đố là mở rộng lòng sông, sông có hiện tượng uốn khúc nhiều hơn so với sông ngòi miền núi. - Hướng sơn văn của địa hình quy định hướng chảy của sông: + Hướng tây bắc - đông nam của vùng Tây Bắc và Trường Sơn Bắc làm cho các sông của khu vực có hướng tây bắc - đông nam là chủ yếu: Sông Hồng, sông Mã, sông Đà... + Hướng vòng cung của vùng núi Đông Bắc quy định hướng chảy của sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam - Địa hình ảnh hưởng đến cường độ lũ của sông: Địa hình đồi núi có sự phân bậc, chia cắt phức tạp làm cho sông ngòi có cường độ lũ lớn, lên nhanh, rút nhanh, nhất là miền Trung. - Địa hình cũng góp phần tạo nên lượng phù sa lớn cho sông ngòi nước ta. - Thông qua khí hậu, địa hình ảnh hưởng đến thủy chế sông ngòi. 3.1.4 Địa hình ảnh hưởng đến đất - Ảnh hưởng của địa hình đến đất chủ yếu thông qua tác động phân phối lại các nguyên tố địa hóa trong lớp vỏ phong hóa và điều kiện nhiệt ẩm theo các yếu tố địa hình (đỉnh, sườn, chân) và nhất là độ cao địa hình. - Địa hình nước ta chủ yếu là đồi núi thấp nên quá trình hình feralit thành đất diễn ra mạnh. Vùng đồi núi nước ta chủ yếu là đất feralit vàng đỏ, nâu đỏ, chiếm 65% diện tích đất tự nhiên. - Địa hình phân bậc theo độ cao nên đất cùng có sự phân hóa theo đai cao: + Nhiệt đới gió mùa chân núi: đất feralit chủ đạo. + Cận nhiệt gió mùa trên núi có giới hạn từ 600 - 700m đến 2600m ở miền Bắc và 900 - 1000m đến 2600m ở miền Nam: \ Từ 600 - 700m đến 1600 - 1700m và 900 - 1000m đến 1600 - 1700m: Hình thành đất feralit có mùn do quá trình feralit yếu dần, mùn được tích lũy. Đồng thời quá trình phong hóa yếu đi nên tầng đất mỏng hơn. \ Từ 1600 - 1700m đến 2600m, quá trình feralit ngưng trệ, hình thành đất mùn alit. 17 + Đai ôn đới gió mùa trên núi hình thành đất mùn thô do nhiệt độ và mưa giảm mạnh. - Địa hình đồi núi làm đất có độ dốc lớn, tầng mỏng,dễ bị xói mòn, rửa trôi, nghèo dinh dưỡng (nhất là ở những nơi lớp phủ thực vật bị tàn phá). - Địa hình có độ dốc lớn cùng với tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa nên quá trình xâm thực rửa trôi diễn ra mạnh ở miền núi và bồi tụ nhanh ở hạ lưu sông, là cơ sở hình thành các đồng bằng phù sa bồi tụ. 3.1.5 Địa hình ảnh hưởng đến sinh vật Địa hình tác động tới sự phát triển và phân hóa của giới sinh vật chủ yếu thông qua sự tác động đến các yếu tố của khí hậu, mà chủ yếu là theo độ cao. Chính vì vậy, sinh vật có sự phân hóa theo độ cao địa hình. - Từ độ cao dưới 600 - 700m ở miền Bắc và dưới 900 - 1000m ở miền Nam: Chiếm ưu thế là kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa. Ở những vùng núi thấp mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, mùa khô không rõ rệt, hình thành hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh. - Ở độ cao từ 600 - 700m đến 1600 - 1700m: đai rừng cận nhiệt đới gió mùa trên núi với thành phần chủ yếu là các loài cây thuộc họ dẻ, re, hồ đào và rừng á nhiệt lá đới lá kim như thông, sa mu, pơ mu. - Từ trên 1600 - 1700m đến 2600m là phạm vi phân bố của rừng á nhiệt đới mưa mù trên đất alit với các cây ôn đới như đỗ quyên, thiết sam, lãnh sam. Trong rừng xuất hiện các loại chim thú á nhiệt đới phương bắc như gấu, sóc, cầy, cáo có bộ lông dày. - Trên 2600m chủ yếu là quần hệ thực vật núi cao, rừng phát triển kém, cành lá cong queo. 3.2 Thế mạnh và hạn chế của thiên nhiên các khu vực địa hình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 3.2.1 Khu vực đồi núi, bình nguyên và vùng đồi trung du - Thế mạnh + Vùng đồi núi có nhiều cao nguyên rộng lớn, khá bằng phẳng với nhiều loại đất feralit khác nhau, đất xám phù sa cổ là điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển vùng chuyên canh cây công nghiệp và cây ăn quả; có nhiều đồng cỏ rộng 18 lớn để phát triển chăn nuôi đại gia súc. Ngoài các cây trồng, vật nuôi nhiệt đới, các vùng cao có thể trồng các loại cây và nuôi các loài vật cân nhiệt và ôn đới. + Địa hình bán bình nguyên và vùng đồi trung du thích hợp để trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và cây lương thực. + Phần lớn diện tích rừng tập trung ở vùng đồi núi. Vì thế phát triển lâm nghiệp là một thế mạnh lớn của vùng đồi núi. + Là nơi tập trung nhiều loại khoáng sản, đặc biệt là các mỏ khoáng sản nội sinh, đó là nguyên liệu, nhiên liệu cho nhiều ngành công nghiệp. + Một thế mạnh kinh tế hết sức quan trọng là phát triển thủy điện. Vì đây là vùng tập trung nhiều sông lớn, dốc, lắm thác ghềnh nên tiềm năng thủy điện rất lớn. + Với khí hậu mát mẻ, có nhiều phong cảnh đẹp, miền núi có nhiều điều kiện để phát triển các loại hình du lịch: thăm quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái… - Hạn chế + Địa hình đồi núi nước ta chủ yếu là đồi núi thấp, nhưng bị chia cắt mạnh, nhiều sông suối, hẻm vực, sườn dốc gây trở ngại cho giao thông, vận tải, giao lưu kinh tế giữa các vùng. + Do mưa nhiều, sườn dốc mạnh nên thường sảy ra một số thiên tai: lũ ống, lũ quét, xói mòn,...gây trượt lở đất. Tại các nơi đứt gãy còn có nguy cơ phát sinh động đất, nơi khô nóng sảy ra cháy rừng. + Miền núi đá vôi thiếu đất trồng trọt và khan hiếm nước vào mùa khô. + Các thiên tai khác: lốc, mưa đá, sương muối, rét hại…. thường sảy ra gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư. + Biên giới giữa nước ta với các nước chủ yếu là địa hình cao, hiểm trở nên việc bảo vệ an ninh quốc phòng gặp nhiều khó khăn, tốn kém. 3.2.2 Khu vực đồng bằng - Thế mạnh + Địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ là cơ sở để phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới, đa dạng hóa các loại nông sản, gạo là nông sản chính. + Cung cấp các nguồn lợi thiên nhiên khác: thủy sản, khoáng sản và lâm sản (rừng ngập mặn). + Là nơi có điều kiện để tập trung các thành phố, các khu công nghiệp và các trung tâm thương mại, các đầu mối giao thông vận tải, đặc biệt phát triển giao thông vận tải đường bộ, đường sông. - Hạn chế: Thường xuyên có thiên tai: bão, lũ lụt, hạn hán… gây thiệt hại lớn về người và tài sản. 19 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ BÀI TẬP LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA HÌNH Bài tập 1: Dựa vào Atlat địa lí và kiến thức đã học hãy trình bày các kiểu địa hình thuộc khu vực đồi núi nước ta? Trả lời Căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài, còn gọi là hình thái và trắc lượng hình thái của địa hình, có thể phân biệt địa hình đồi núi nước ta thành các kiểu hình thái địa hình như sau: - Kiểu địa hình núi: Kiểu địa hình núi với đặc điểm chung là độ cao tuyệt đối và tương đối khá lớn. Về ngoại hình, thường là các khối núi hay dãy núi, có độ chia cắt sâu và sườn dốc lớn. + Kiểu địa hình núi cao: có độ cao trên 2000m, chiếm tỉ lệ diện tích không lớn lắm, tập trung ở biên giới phía bắc từ Hà Giang đến Lai Châu và biến giới phía tây thuộc 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh như đỉnh Phu Hoạt, Pu Xai Lai Leng, Rào Cỏ. Tiêu biểu là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Si Păng cao 3143m. Ở khu vực phía nam dãy Trường Sơn cũng có một số đỉnh cao trên 2000m như Ngọc Linh, Ngọc Kring, Vọng Phu... + Kiểu địa hình núi trung bình: có độ cao tuyệt đối từ 1000m đến dưới 2000m, chiếm diện tích không lớn nhưng cũng được phân bố khá rộng khắp từ biên giới phía bắc đến phía nam dãy Trường Sơn. Kiểu địa hình này thường có thung lũng hẹp, sườn dốc 25 - 30o, có dạng đỉnh núi, khối núi và dãy núi đơn độc tách biệt với vùng núi cao như đỉnh Phia Ya, Nam Châu Lãnh, Tam Đảo... hoặc gắn liền với các vùng núi cao ở Tây Bắc, bắc và nam dãy núi Trường Sơn. + Kiểu địa hình núi thấp: có độ cao trung bình từ 500m đến dưới 1000m, thường liền kề với vùng núi trung bình và vùng đồi thành một dải liên tục với các bậc địa hình cao thấp khác nhau, thậm chí kiểu địa hình này còn gặp ở ngay vùng đồng bằng và vùng ven biển dưới dạng núi sót như núi Voi, núi Đồ Sơn, núi Bà Đen, núi Thất Sơn và các đảo ven bờ. Kiểu địa hình này tập trung thành một khu vực rộng lớn ở Nam Trung Bộ, thành khối núi rời rạc ở Việt Bắc, Đông Bắc và dải hẹp ở biên giới Việt - Lào thuộc Bắc Trung Bộ. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan