Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Bồi dưỡng học sinh giỏi địa lý chuyên đề nhiệt độ không khí và các dạng bài tập ...

Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi địa lý chuyên đề nhiệt độ không khí và các dạng bài tập liên quan trong thi học sinh giỏi

.PDF
29
1211
111

Mô tả:

NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ VÀ CÁC DẠNG BÀI TẬP LIÊN QUAN TRONG THI HỌC SINH GIỎI ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiệt độ không khí là một trong các yếu tố cơ bản của khí hậu và là một trong những yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tự nhiên. Sự thay đổi của yếu tố nhiệt kéo theo sự thay đổi của các thành phần tự nhiên khác (theo qui luật thống nhất và hoàn chỉnh của lớp vỏ địa lí). Nhiệt độ không khí cũng là yếu tố tự nhiên có tác động sâu sắc đến các hoạt động sản xuất và sinh hoạt Đối với thi học sinh giỏi: nhiệt độ không khí là một trong những nội dung khó. Nội dung này có thể xuất hiện trực tiếp trong 3/7 câu của đề thi (câu 1, câu 3 và câu 4) và có thể có liên quan gián tiếp đến các câu còn lại. Đây là nội dung dài và tương đối khó. Nhóm địa lý của trường xin trình bày nhiệt độ không khí và các dạng bài tập liên quan của phần đại cương và Việt Nam PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ VÀ CÁC DẠNG BÀI TẬP LIÊN QUAN PHẦN ĐẠI CƯƠNG A. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ I. Khái niệm và cách đo nhiệt độ không khí Nhiệt độ ở một nơi là nhiệt độ của không khí ở nơi ấy nhưng là của lớp không khí cách mặt đất 2m. Người ta phải để nhiệt kế trong bóng râm ở các trạm khí tượng người ta thường đo nhiệt độ không khí mỗi ngày ít nhất ba lần lúc 5h, 13h và 21h rồi tính nhiệt độ trung bình ngày. Từ đó người ta tính toán được các trị số: nhiệt độ trung bình tháng, nhiệt độ trung bình năm và biên độ nhiệt. Biên độ nhiệt năm là sự chênh lệch giữa tháng có nhiệt độ lớn nhất với tháng có nhiệt độ thấp nhất trong năm. Biên độ nhiệt ngày là sự chênh lệch giữa thời điểm có nhiệt độ cao nhất và thời điểm có nhiệt độ thấp nhất trong ngày. Biên độ nhiệt tuyệt đôi là sự chênh lệch giữa nhiệt độ tối cao tuyệt đối và nhiệt độ tối thấp tuyệt đối. II. Nguồn cung cấp nhiệt cho không khí Nhiệt độ cung cấp chủ yếu cho không khí ở tầng đối lưu là nhiệt độ của bề mặt Trái Đất sau khi hấp thụ bức xạ Mặt Trời, rồi bức xạ lại vào không khí, làm cho không khí nóng lên, hình thành nhiệt độ không khí. Nhiệt độ không khí phụ thuộc vào góc chiếu sáng, thời gian chiếu sáng và yếu tố mặt đệm (góc chiếu sáng và thời gian chiếu sáng thay đổi theo yếu tố bề mặt đệm) III. Cách biểu hiện nhiệt độ không khí trên bản đồ Các phương pháp thường gặp là - Phương pháp biểu đồ định vị - Phương pháp đường đẳng trị (đường đẳng nhiệt- đường nối các điểm có cùng trị số nhiệt) IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhiệt độ không khí 1. Vĩ độ Nhiệt độ giảm dần từ xích đạo về hai cực. Biên độ nhiệt tăng từ vĩ độ thấp lên vĩ độ cao. 2 Trong khoảng từ vĩ độ 0 0 đến 30 0 nhiệt độ trung bình năm có xu hướng giảm chậm và biên độ nhiệt độ năm thì tăng chậm. Trong khoảng từ vĩ độ 30 0 đến cực nhiệt độ trung bình năm có xu hướng giảm nhanh hơn và biên độ nhiệt độ năm thì tăng nhanh hơn. Nhiệt độ trung bình năm có xu hướng giảm dần từ O0 đến 900 chủ yếu là do góc nhập xạ giảm dần khiến cho lượng nhiệt mà bề mặt Trái đất nhận được từ Mặt Trời cũng giảm dần. Vĩ độ thấp có góc chiếu sáng lớn quanh năm nên nhiệt độ trung bình năm cao; vùng vĩ độ cao có góc chiếu sáng nhỏ nên nhiệt độ trung bình năm thấp. Biên độ nhiệt độ năm có xu hướng tăng dần là do chênh lệch về thời gian chiếu sáng và góc chiếu sáng trong năm tăng dần từ O0 đến 900. Càng ở vĩ độ thấp mức chênh lệch giữa các tháng trong năm càng ít nên biên độ nhiệt nhỏ. Càng lên vĩ độ cao mức chênh lệch càng lớn nên biên độ nhiệt lớn. Trong vùng vĩ độ thấp có nhiệt độ trung bình năm giảm chậm và biên độ nhiệt năm tăng chậm còn vùng vĩ độ cao có nhiệt độ trung bình năm giảm nhanh và biên độ nhiệt năm tăng nhanh là do nhiệt độ và biên độ nhiệt phụ thuộc vào cường độ bức xạ Mặt trời mà cường độ bức xạ Mặt Trời lại phụ thuộc vào góc chiếu sáng; Lượng nhiệt mà bề mặt Trái đất nhận được : I = I0.sin  ( với  là góc chiếu sáng; I0 là lượng nhiệt lớn nhất và không đổi) nên I phụ thuộc vào sin  .  0 15 30 45 60 70 80 90 0 0,26 0,5 0,7 0,87 0,94 0,98 1 sin  Trong vùng vĩ độ thấp có góc chiếu sáng lớn quanh năm và thay đổi không nhiều nên tổng lượng nhiệt mà bề mặt Trái Đất nhận được thay đổi không đáng kể do sin giảm chậm. Trong vùng vĩ độ cao có góc chiếu sáng nhỏ quanh năm và chênh lệch giữa các mùa lớn nên tổng lượng nhiệt mà bề mặt Trái đất nhận được giảm nhanh và chênh lệch nhiều giữa các tháng trong năm do sin  giảm nhanh. 2. Lục địa - đại dương Đại dương có biên độ nhiệt nhỏ, lục địa có biên độ nhiệt lớn. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất đều ở trên lục địa. Nguyên nhân: do sự hấp thụ nhiệt của lục địa và đại dương khác nhau. Lục địa hấp thụ nhiệt nhanh, tỏa nhiệt nhanh còn đại dương thì ngược lại. Nhiệt dung riêng của đất lớn hơn nước 3. Địa hình Ảnh hưởng của độ cao địa hình: Trong tầng đối lưu, càng lên cao nhiệt độ không khí càng giảm, trung bình cứ lên cao 100m, nhiệt độ giảm 0,6˚C. Bức xạ MT gồm có các sóng điện từ với bước sóng từ 0,17  đến0,75, các sóng từ 0,17  -0,35  là những tia tử ngoại mà mắt thường chúng ta không nhìn thấy, phần nhìn thấy được là các sóng từ 0,35  0,75  , trên 0,75  là các tia hồng ngoại, các bước sóng dài chúng ta cũng không nhìn thấy. Không khí không hấp thu các tia có bước sóng ngắn, khi các tia này xuống mặt đất được mặt đất hấp thu làm mặt đất nóng lên rồi bức xạ trở lại vào không khí với các tia 3 bước sóng dài khoảng 4-40  . Chính các tia này đã được không khí hấp thu và làm cho nó nóng lên -> càng lên cao cách xa mặt đất thì nhiệt độ không khí càng giảm. Hướng sườn: nhiệt độ khác nhau ở các hướng của sườn núi. Sườn phơi nắng có nhiệt độ cao hơn sườn khuất nắng. Độ dốc khác nhau có nhiệt độ khác nhau. Nơi có độ dốc nhỏ sẽ có nhiệt độ cao hơn nơi có độ dốc lớn vì lớp không khí được đốt nóng có độ dày lớn hơn. Bề mặt địa hình: biên độ nhiệt trong ngày thay đổi theo địa hình. Nơi đất bằng nhiệt độ ít thay đổi hơn nơi đất trũng vì nơi đất trũng ban ngày ít gió, nhiệt độ cao, ban đêm khí lạnh trên cao dồn xuống làm cho nhiệt độ hạ thấp. Trên mặt các cao nguyên, không khí loãng hơn ở đồng bằng nên nhiệt độ thay đổi nhanh hơn ở các đồng bằng. 4. Các nhân tố khác Nhiệt độ không khí cũng thay đổi khi có sự tác động của các nhân tố: dòng biển nóng, lạnh, lớp phủ thực vật, hoạt động sản xuất của con người, yếu tố Mặt Trời lên thiên đỉnh .... Ở Bắc bán cầu, sự khác nhau nhiệt độ trung bình ở hai bờ đại dương như sau: Ở vùng vĩ độ cao, nhiệt độ trung bình của bờ Đông đại dương ấm hơn bờ Tây đại dương. Biên độ nhiệt ở bờ đông đại dương nhỏ hơn bờ Tây đại dương. Ở vùng vĩ độ thấp ngược lại. Nguyên nhân do ảnh hưởng của dòng biển ven bờ. Vùng nội thành của các thành phố lớn, do dân cư tập trung với mức độ cao, hoạt động giao thông vận tải và công nghiệp thải ra khí quyển nhiều khí CO2 , mức độ bê tông hóa cao cũng góp phần làm nhiệt độ cao hơn các vùng lân cận. Biến đổi khí hậu toàn cầu làm nhiệt độ của Trái Đất và Việt Nam tăng lên .... V. Phân bố nhiệt độ không khí Các đường đẳng nhiệt trên bề mặt Trái Đất thể hiện tình hình phân bố nhiệt, các đường đẳng nhiệt không trùng với các vòng vĩ tuyến vì Trái Đất không có sự đồng nhất giữa lục địa và đại dương. Nhiệt độ phân bố không đều trên bề mặt Trái Đất và hai nửa cầu Nhiệt độ cao nhất không phải ở xích đạo do mặt đệm chủ yếu là biển, đại dương, rừng rậm, mây, sự bốc hơi nước khiến khả năng tiếp nhận nhiệt không khí gần mặt đất bị giảm, lượng mưa quanh năm lớn cũng góp phần làm giảm nhiệt độ ở đây Nhiệt độ cao nhất là ven chí tuyến Bắc (Xahara) và chí tuyến Nam vì đây là khu vực áp cao động tính, không khí giáng xuống gây chèn ép, đây là khu vực lục địa rộng lớn, bị ngăn cách với biển bởi các cao nguyên đồ sộ, khả năng hấp thụ nhiệt độ và phản xạ của bề mặt đất mạnh Nhiệt độ trong vùng nội chí tuyến cao và ổn định, ít thay đổi trong năm, nhìn chung là các đường đẳng nhiệt 20-25 0 thống trị, ngoài ra còn có cả đường 30 0 C vì đây là khu vực có 2 lần Mặt Trời lên thiên đỉnh trong năm, góc nhập xạ lớn, sự chênh lệch ngày và đêm không lớn. Khu vực ngoại chí tuyến nhiệt độ giảm nhanh vì không có hiện tượng Mặt trời lên thiên đỉnh 4 Nhiệt độ thấp nhất là ở các vùng lục địa ôn đới gần cực (Xibia, Grơnlen) và cận cực Bắc, đường đẳng nhiệt 0 độ C thống trị vì góc nhập xạ nhỏ, chênh lệch ngày đêm lớn, băng tuyết bao phủ làm giảm hấp thụ nhiệt của mặt đất trong khi phản xạ nhiều và phải chi nhiệt cho tan băng Đường đẳng nhiệt ở Nam bán cầu đơn giản hơn do bề mặt đồng nhất hơn, còn Bắc bán cầu dày và phức tạp hơn do ít đồng nhất về mặt lục địa đại dương Nhiệt độ phân hóa đa dạng giữa bờ lục địa và đại dương: Khu vực gần xích đạo các đường đẳng nhiệt 20-25 độ thì bở Tây lục địa các đường xuống thấp về xích đạo còn bờ đông lục địa thì lên cao về phía cực-> Ở vĩ độ thấp bở đông lục địa lạnh hơn bờ tây do dòng biển lạnh chảy ở bờ Đông còn dòng biển nóng chảy bờ Tây Ở vĩ độ ôn đới phân bố nhiệt ở Nam bán cầu đơn giản hơn do mặt đệm chủ yếu là đại dương còn ở BBC bờ Tây lục địa đường đẳng nhiệt lên cao về phía cực còn bờ đông xuống thấp về phía xích đạo -> bờ Tây ấm hơn bờ Đông do dòng biển lạnh thống trị ở bờ đông, nóng ở bờ Tây Các đường đẳng nhiệt di chuyển theo mùa: mùa đông di chuyển về phía Xích đạo, mùa hạ di chuyển về phía cực VI. Ảnh hưởng của nhiệt độ không khí đến tự nhiên và kinh tế xã hội 1. Tự nhiên Căn cứ vào nhiệt độ: chia thành khối không khí nóng, khối không khí lạnh. Khối không khí nóng hình thành trên các vùng vĩ độ thấp, có nhiệt độ tương đối cao. Khối không khí lạnh hình thành trên các vùng vĩ độ cao, có nhiệt độ tương đối thấp Về mùa hạ, các frông chuyển dịch về phía cực; ngược lại về mùa đông, chuyển dịch về phía xích đạo. Nguyên nhân là do sự thay đổi của nhiệt độ không khí. Mùa hạ, nhiệt độ cao không khí nóng mở rộng và bành trướng, khối khí lạnh co lại về phía cực làm cho frong có xu hướng dịch chuyển về phía cực. Mùa đông, hiện tượng ngược lại. Sự phân bố các đai khí áp gắn với sự phân bố các vòng đai nhiệt (sự hình thành các đai áp thấp và áp cao để thấy có hai nguyên nhân hình thành đai khí áp là do nhiệt lực và động lực, nguyên nhân động lực liên quan đến nhiệt lực). Nhiệt độ của không khí giảm, sức trương hơi nước bão hòa giảm làm cho không khí bị bão hòa hơi nước và dẫn đến sự ngưng đọng hơi nước trong khi quyển, sinh ra các hiện tượng sương mù, mây, mưa (mưa đá, mưa tuyết đều liên quan chặt chẽ đến nhiệt độ không khí) Nhiệt độ không khí cao là một trong những lí do khiến bão thường xuất hiện ở khu vực nhiệt đới Nhiệt độ không khí ảnh hưởng đến sự trong lành của lớp không khí gần mặt đất. Không khí trong lành nhất vào khoảng thời gian từ khoảng 10h đến 15, 16h. Vì thời gian này nhiệt độ mặt đất cao, quá trình đối lưu mạnh, các chất ô nhiễm (tro, bụi, hơi nước…) bị đẩy lên các tầng cao hơn. Sau 16h đến trước 10h đặc biệt là vào ban đêm mặt đất mất nhiệt, quá trình đối lưu giảm nên các phẩn tử dây ô nhiễm (khói bụi, tro, hơi nước, phấn hoa,…) tập trung nhiều ở lớp không khí gần mặt đất. 5 Nhiệt độ không khí là cơ sở để phân chia các kiểu khí hậu Sinh vật chịu tác động trực tiếp của nhiệt độ vì mỗi loài chỉ có thể sống trong một điều kiện nhiệt độ nhất định 2. Các hoạt động kinh tế xã hội Nhiệt độ ảnh hưởng đến cơ cấu, năng suất sinh học của cây trồng vật nuôi nông nghiệp. Nhiệt độ không khí ảnh hưởng đến máy móc công nghiệp, đến hoạt động xây dựng và nhiều ngành dịch vụ. Nhiệt độ ảnh hưởng đến sinh hoạt như trang phục, làm nhà ở, .... B. CÁC DẠNG BÀI TẬP I. Bài tập lí thuyết 1. Câu hỏi biết, hiểu. Câu 1: Chứng minh rằng nhiệt độ không khí trên bề mặt Trái đất thay đổi theo qui luật địa đới? - Nhiệt độ trung bình năm giảm dần từ Xích đạo về cực. - Biên độ nhiệt năm tăng dần từ Xích đạo về cực. - Sự phân bố các vòng đai nhiệt trên trái Đất. Từ Bắc cực đến Nam cực có 7 vòng đai nhiệt: + Vòng đai nóng nằm giữa hai đường đẳng nhiệt + 20 0C của hai bán cầu (khoảng giữa hai vĩ tuyến 30 0B và 30 0N). + Hai vòng đai ôn hòa ở hai bán cầu nằm giữa hai đường đẳng nhiệt + 20 0 C và + 100 C của tháng nóng nhất. + Hai vòng đai lạnh ở các vĩ độ cận cực của hai bán cầu, nằm giữa hai đường đẳng nhiệt + 10 0 C và 0 0C của tháng nóng nhất. + Hai vòng đai băng giá vĩnh cửu bao quanh cực, nhiệt độ quanh năm đều dưới 0 0 C. Câu 2: Biên độ nhiệt năm và biên độ nhiệt ngày trên Trái Đất có sự thay đổi như thế nào từ xích đạo về hai cực? + Biên độ nhiệt năm là sự chênh lệch giữa tháng có nhiệt độ lớn nhất với tháng có nhiệt độ thấp nhất trong năm. + Biên độ nhiệt năm của Trái Đất có xu hướng tăng dần từ Xích đạo về hai cực. + Biên độ nhiệt ngày là sự chênh lệch giữa thời điểm có nhiệt độ cao nhất và thời điểm có nhiệt độ thấp nhất trong ngày. + Biên độ nhiệt ngày trên Trái Đất có xu hướng giảm dần từ xích đạo về hai cực. Câu 3: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhiệt độ không khí. Câu 4: Nêu đặc điểm phân bố nhiệt trên bề mặt Trái Đất? Câu 5: Chứng minh rằng sự phân bố nhiệt độ trên Trái đất thể hiện quy luật phi địa đới? - Khái niệm quy luật phi địa đới - Biểu hiện: + Nhiệt độ cao nhất thuộc về vùng chí tuyến chứ không phải xích đạo 6 + Nhiệt phân bố không đều theo lục địa và đại dương (diễn giải) + Nhiệt phân bố không đều theo độ cao địa hình (diễn giải) + Nhiệt phân bố không đều theo hướng sườn (diễn giải) + Nhiệt độ còn thay đổi do ảnh hưởng của dòng biển (diễn giải) 2. Câu hỏi vận dụng, sáng tạo Câu 1: Vì sao trên Trái Đất nhiệt độ trung bình năm không cao nhất ở xích đạo mà lại hình thành ở vĩ tuyến 10 0B? Nếu nối liền những điểm có nhiệt độ trung bình năm cao nhất trên trái đất thành 1 đường thì ta ta sẽ có đường đẳng nhiệt cao nhất. Ở Bắc bán cầu đường này phân bố vào khoảng 10 0 vĩ tuyến. Xích đạo thường được coi là nơi nóng nhất vì vùng này có góc nhập xạ lớn. Tuy nhiên theo thống kê tại xích đạo nhiệt độ ban ngày không quá 35 độ, trong khi đó ở xa mạc Xahara ban ngày nhiệt độ lên đến 55 độ? Tại sao? - Vì những vùng thuộc xích đạo phần lớn đều có biển cả, mặt biển xích đạo mênh mông, có tính chất khác hẳn lục địa: nó có khả năng dẫn truyền nhiệt lượng của Mặt Trời xuống các lớp nước sâu, khi bốc hơi cũng tiêu hao nhiều năng lượng, nước biển có nhiệt dung riêng rất lớn so với đất nên nhiệt độ nước tăng chậm so với đất liền -> vì thế vào mùa hè nhiệt độ mặt biển không bao giờ tăng lên đột ngột Ở vùng chí tuyến có nhiều lục địa (nhất là Bắc bán cầu), ở đây có nhiều sa mạc, vào mùa hạ vùng này là vùng có góc nhập xạ lớn, cường độ bức xạ Mặt trời cao. Tình hình ở sa mạc thì hoàn toàn ngược lại với vùng xích đạo: ở sa mạc rất hiếm thực vật và nước, chủ yếu chỉ có cát do nhiệt dung riêng của cát rất nhỏ, nó nóng lên nhanh chóng khi hấp thụ nhiệt , lại không truyền nhiệt xuống dưới lớp sâu được. Do thiếu nước nên ở sa mạc thiếu hẳn tác dụng bốc hơi làm tiêu hao nhiệt như ở biển -> nên khi Mặt Trời xuất hiện nhiêt độ không khí vùng sa mạc tăng lên nhanh chóng, đến giữa trưa nhiệt độ lên rất cao. Nguyên nhân khác: vùng xích đạo mây và mưa nhiều hơn hẳn vùng sa mạc. Vùng xích đạo nhiều mây làm suy yếu cường độ bức xạ Mặt Trời, chiếu nào cũng có mưa nên nhiệt độ buổi chiều không thể quá cao được. Ở sa mạc trời nắng, rất ít mây và hiếm mưa, cường độ bức xạ Mặt Trời lớn và không có yếu tố làm dịu đi Câu 2: Tại sao không khí trên mặt đất không nóng nhất vào lúc 12h trưa (lúc bức xạ Mặt trời mạnh nhất) mà lại nóng nhất lúc 13h trưa? Tại sao vào ngày hạ chí 22/6 không phải là ngày nóng nhất trong năm ở Bắc bán cầu? Ánh sáng Mặt trời khi chiếu xuống mặt đất phải đi qua lớp khí quyển, không khí chỉ nhận nhận được một lượng nhiệt nhỏ. Sau khi mặt đất hấp thụ phần lớn nhiệt lượng của ánh sáng Mặt trời không khí mới nóng lên nhờ nhiệt của mặt đất (bức xạ mặt đất) Không khí nóng lên không phải do trực tiếp thu nhận nhiệt từ ánh sáng Mặt trời mà từ gián tiếp qua bức xạ mặt đất Nếu mặt đất tích được một lượng nhiệt lớn của Mặt Trời thì nó mới nóng lên và có khả năng bức xạ một lượng nhiệt lớn ra không gian 7 Trong một ngày Mặt trời lên cao nhất lúc giữa trưa, góc chiếu trên mặt đất lớn nhất, lúc đó mặt đất sẽ hấp thụ một lượng nhiệt lớn nhất nhưng nhiệt độ không khí chưa phải lớn nhất, vì mặt đất phải tích đủ một lượng nhiệt lớn mới bức xạ nhiệt lớn nhất. Do đó vào khoảng thời gian 13 giờ nhiệt độ không khí mới đạt mức cao nhất Trong một năm nhiệt độ không khí thay đổi tùy theo lượng nhiệt của mặt đất tích được. Chính vì vậy sau ngày hạ chí, ở nửa cầu bắc mặt đất sau khi đã tích lũy nhiều nhiệt, nhiệt độ tăng cao nên nhiệt độ nóng nhất trong năm phải đợi vài tuần sau ngày hạ chí Câu 3: Tại sao nhiệt độ trung bình của Bắc bán cầu vào thời kì Trái Đất ở xa Mặt trời cao hơn thời kì Trái đất ở gần Mặt Trời? - Thời kì ở xa Mặt Trời thì Bắc bán cầu chúc về phía Mặt trời - Góc nhập xạ lớn - Thời gian ban ngày dài hơn ban đêm Câu 4: Giải thích sự khác nhau về quá trình giảm nhiệt theo vĩ độ và giảm nhiệt theo đai cao? - Sự giảm nhiệt theo vĩ độ chủ yếu là do sự giảm sút bức xạ sóng ngắn của Mặt trời, liên quan đến sự giảm dần theo vĩ độ của góc nhập xạ. - Sự giảm nhiệt theo độ cao là do sự gia tăng bức xạ sóng dài của mặt đất, liên quan đến vị trí độ cao địa phương so với mực nước biển. Theo độ cao, giá trị góc nhập xạ không thay đổi, cường độ bức xạ Mặt trời tăng khoảng 10% trên 1000m độ cao, nhưng bức xạ sóng dài của mặt đất tăng theo độ cao nhanh hơn. Vì vậy, cân bằng bức xạ giảm nhanh và dẫn đến sự hạ thấp nhiệt độ. - Mức độ giảm nhiệt theo độ cao nhanh hơn nhiều theo vĩ độ: + Theo vĩ độ: bán cầu Bắc nhiệt độ giảm trung bình 0,5 0C/1 vĩ độ. + Theo độ cao: nhiệt độ giảm trung bình 0,6 0C/100m. Câu 5: Tuy cùng vĩ độ nhưng nhiệt độ trung bình năm và biên độ nhiệt giữa bờ đông và bờ Tây đại dương ở Bắc bán cầu khác nhau như thế nào? Vì sao có sự khác nhau? Ở Bắc bán cầu, sự khác nhau nhiệt độ trung bình ở hai bờ đại dương như sau: - Ở vùng vĩ độ cao, nhiệt độ trung bình của bờ Đông đại dương ấm hơn bờ Tây đại dương. Biên độ nhiệt ở bờ đông đại dương nhỏ hơn bờ Tây đại dương - Ở vùng vĩ độ thấp ngược lại Giải thích: ảnh hưởng của dòng biển ven bờ. Câu 6. Tại sao ở vùng cực nhiệt độ không khí ít khi vượt lên 1-2 0 C? - Góc nhập xạ nhỏ dẫn đến lượng bức xạ Mặt trời nhận được nhỏ - Mặt băng, tuyết ở vùng cực phản chiếu tới 80-90% lượng bức xạ mặt trời chiếu vào nên lượng bức xạ hấp thụ nhỏ. - Phần bức xạ hấp thụ được phải chi một phần cho quá trình làm tan băng tuyết và bốc hơi nên phần năng lượng để chi cho đốt nóng không khí nhỏ. Câu 7: Tại sao vào mùa hạ (ở nửa cầu Bắc) tổng bức xạ ở Xích đạo nhỏ hơn ở cực Bắc, nhưng nhiệt độ không khí ở đây vẫn cao? Do phụ thuộc: Góc nhập xạ, thời gian chiếu sáng và đặc điểm bề mặt đệm… 8 Mùa hạ ở Bắc bán cầu -> mặt trời di chuyển biểu kiến ở Bắc bán cầu + Tại cực Bắc có tổng lượng bức xạ lớn hơn ở xích đạo chủ yếu do cực Bắc có thời gian chiếu sáng dài hơn ở Xích đạo (vòng cực có ngày dài 24h, còn cực Bắc thì có ngày dài 6 tháng, tức là trong mùa hè luôn luôn có ánh sáng Mặt trời dù góc chiếu rất nhỏ; còn Xích đạo vẫn có ngày = đêm = 12h ) + Nhiệt độ ở cực Bắc thấp hơn ở Xích đạo do: nhiệt độ Trái Đất phụ thuộc vào tổng lượng bức xạ mặt trời (được quy định bởi góc nhập xạ và thời gian chiếu sáng) và đặc điểm bề mặt đệm. Mặc dù ở cực Bắc tổng bức xạ Mặt trời nhận được khá lớn nhưng ở cực chủ yếu là băng tuyết vĩnh cửu nên khả năng hấp thụ nhiệt nhỏ, phản hồi lại nhiệt lớn, đồng thời lượng nhiệt hấp thụ được lại dùng để làm tan băng tuyết nên không có nhiệt tích luỹ .Vì vậy cán cân bức xạ âm nên nhiệt độ thấp hơn ở Xích đạo Còn ở Xích đạo: chủ yếu là đại dương, và rừng rậm nên không khí có nhiều hơi nước, hấp thụ nhiệt nhiều hơn. II. Bài tập thực hành Câu 1: Cho bảng số liệu Sự thay đổi của nhiệt độ trung bình năm và biên độ nhiệt độ năm theo vĩ độ địa lí ở Bắc bán cầu (0C) Vĩ độ Nhiệt độ trung bình năm Biên độ nhiệt độ năm 0 24,5 1,8 20 25,0 7,4 30 20,4 13,3 40 14,0 17,7 50 5,4 23,8 60 - 0,6 29,0 70 - 10,4 32,2 Qua bảng số liệu trên hãy nhận xét và giải thích về sự thay đổi của nhiệt độ trung bình năm và biên độ nhiệt độ năm theo vĩ độ địa lí ở Bắc bán cầu Câu 2: Cho bảng số liệu sau: Biên độ năm của nhiệt độ không khí ở các vĩ độ (Đơn vị: 0C) Vĩ độ Bắc Bán Cầu Nam Bán Cầu 00 1,8 1,8 0 20 7,4 5,9 300 13,3 7,0 0 40 17,7 4,9 0 50 23,8 4,3 600 29,0 11,8 0 70 32,2 19,5 9 800 31,0 28,7 Hãy nhận xét và giải thích sự thay đổi biên độ nhiệt của các vĩ độ trên. a. Nhận xét giải thích khái quát - Càng lên vĩ độ cao biên độ nhiệt năm càng lớn Do: Càng lên vĩ độ cao thì sự chênh lệch góc chiếu sáng trong năm và độ dài ngày đêm càng lớn - Cùng một vĩ độ: Biên độ nhiệt thay đổi theo tương quan giữa lục địa và đại dương + Diện tích lục địa càng lớn, biên độ nhiệt càng lớn + Ngược lại, diện tích lục địa càng nhỏ, biên độ nhiệt càng nhỏ b. Nhận xét và giải thích thay đổi biên độ nhiệt theo vĩ độ - Từ 00 – 30 0 Bắc, Nam: + Vì cả hai bán cầu diện tích lục địa đều tăng nên biên độ nhiệt tăng + Ở Bắc bán cầu tăng nhanh hơn Nam bán cầu vì diện tích lục địa tăng nhanh hơn - Từ 300 -50 0 Bắc, Nam: + Bắc bán cầu diện tích lục địa tiếp tục tăng nhanh, biên độ nhiệt tăng nhanh + Nam bán cầu diện tích lục địa giảm nhanh đến không còn, biên độ nhiệt giảm - Từ 500 – 70 0 Bắc, Nam: + Bắc bán cầu: Diện tích lục địa tăng dần đến cao nhất, biên độ nhiệt tiếp tục tăng đến cao nhất + Nam bán cầu Do bắt đầu xuất hiện các đảo và bán đảo ở lục địa Nam Cực, biên độ nhiệt tăng - Từ 700 – 80 0 Bắc, Nam: + Bắc bán cầu: Với sự suất hiện của Bắc Băng Dương, biên độ nhiệt giảm + Nam bán cầu Bắt đầu gặp lục địa Nam Cực, biên độ nhiệt tăng Câu 3: Cho bảng số liệu sau hãy nhận xét và giải thích: Bảng: Nhiệt độ trung bình theo vĩ độ (0C) Bắc bán cầu Vĩ độ Nam bán cầu Nhiệt Nhiệt Nhiệt Biên độ Nhiệt Nhiệt Nhiệt Biên độ độ độ độ nhiệt độ độ độ nhiệt trung tháng 1 tháng 7 giữa trung tháng 1 tháng 7 giữa bình tháng 1 bình tháng 1 năm và 7 năm và 7 25,4 24,7 25,3 0,6 0 25,4 25,3 24,7 0,6 26 24,5 26,1 1,6 10 24,7 25,2 23,6 1,6 25 21,8 27,3 5,5 20 22,8 25,3 20,1 5,2 20,1 13,8 26,9 13,1 30 18,3 22,6 15 7,6 14 4,6 23,9 19,3 40 12 15,3 8,8 6,5 5,1 -7,7 18,1 25,8 50 5,3 8,4 3,0 5,4 -0,6 -16,4 14 30,4 60 -3,4 2,4 -9,1 11,5 10 -10,4 -17,2 -19 -26,9 7,2 34,1 70 -13,6 -3,5 -23 19,5 -33,2 2,0 35,2 80 -27 -10,8 -39,5 28,7 -36,0 0,0 36 90 -33 -13 -48 35 - Nhận xét về biên độ nhiệt: + Khái quát: Càng lên vĩ độ cao biên đọ nhiệt trong năm càng lớn vì chênh lệch độ dài ngày đêm trong năm càng lớn và chênh lệch góc chiếu sáng trong năm càng lớn. Cùng một vĩ độ biên độ nhiệt thay đổi theo tương quan giữa lục địa và đại dương: tỉ lệ này càng lớn thì biên độ nhiệt càng lớn, tỉ lệ này càng giảm thì biên độ nhiệt càng giảm + Nhận xét và giải thích thay đổi theo vĩ độ: Ở Nam bán cầu Từ 0-30 biên độ nhiệt tăng dần do diện tích lục địa tăng dần Từ 30-50 biên độ nhiệt giảm dần do diện tích lục địa giảm dần Từ 50-80 biên độ nhiệt tăng dần do thời gian chiếu sáng và góc chiếu sáng chênh lệch ngày càng lớn và ở đại dương đã bắt đầu xuất hiện các đảo và bán đảo lục địa Nam cực Ở Bắc bán cầu Từ 0-70 độ biên độ nhiệt tăng dần, tăng nhanh vì diện tích lục địa ngày càng tăng Từ 80 độ biên độ nhiệt giảm do Bắc Băng Dương là chủ yếu + Bắc bán cầu biên độ nhiệt cao hơn Nam bán cầu (trừ vùng cực Bắc thấp hơn vùng cực Nam) Câu 4: Dựa vào bản đồ đường đẳng nhiệt tháng 1, nêu nhận xét và giải thích phân bố nhiệt dọc theo vĩ tuyến 45 0B? - Đường đẳng nhiệt 0 và 10 độ C vồng lên cao về phía cực trên các đại dương và võng về phía Xích đạo trên các lục địa chứng tỏ địa dương có nhiệt độ cao hơn lục địa Do: nước nhận nhiệt chậm hơn nhưng nhả nhiệt cũng chậm hơn đất liền vì vậy trên đại dương mùa hạ mát hơn còn mùa đông ấm hơn trên lục địa - Đường đẳng nhiệt 0 và 10 độ C bờ đông đại dương vồng lên cao hơn về phía cực so với bờ Tây chứng tỏ bờ Đông các đại dương ấm hơ các bờ Tây đại dương Do các dòng biển nóng chảy ven bờ đông các đại dương 11 Câu 5: Hãy tính nhiệt độ tại đỉnh núi cao 2700m và ở độ cao 100m bên sườn núi khuất gió ẩm biết rằng tại sườn đón gió ẩm ở độ cao 200m nhiệt độ là 27 0 C? Một khối không khí lên cao 100m thì nhiệt độ giảm 0,6 0C 2700-200=2500m 15 0 C Vậy nhiệt độ ở đỉnh núi là 27-15=12 0C Không khí xuống thấp 100m thì nhiệt độ tăng 1 0C 2700-100=2600m 26 0C Vậy nhiệt độ không khí ở sườn khuất gió tại độ cao 100m là 12+26=38 0 C Câu 6: Xác định độ cao h và nhiệt độ tại điểm B? Xác định độ cao h của đỉnh núi Ta biết ở sườn đón gió AB không khí ẩm cứ lên cao 100m giảm 0,6 0 C. Ở sườn khuất gió BC không khí khô cứ xuống 100m thì nhiệt độ tăng 1 0 C. Như vậy nếu núi cao 100m chênh lệch nhiệt độ giữa A và C là: 1-0,6=0,4 0 C Qua hình vẽ ta thấy chênh lệch nhiệt độ giữa A và C là 41-25=16 0C Vậy h=16 x 100/0,4=4000m Câu 7. Ở chân núi nhiệt kế chỉ 20 0C, khi lên tới đỉnh núi nhiệt kế chỉ 80C. Hỏi ngọn núi đó có độ cao tương đối là bao nhiêu mét? 12 Đáp án: 2000m (Cứ lên cao 100m thì nhiệt độ giảm trung bình 0,6 0C. Nếu ở chân núi nhiệt độ là 200 C, khi lên tới đỉnh núi nhiệt độ còn 8 0C, nghĩa là nhiệt độ giảm 12 0 C. Vậy ta có phép tính: (12*100)/0.6=2000(m). Ta biết ngọn núi này có độ cao tương đối là 2000m). Câu 8. Một chiếc máy bay đang bay ở độ cao 10.000m. Hãy tính nhiệt độ không khí bên ngoài máy bay? (biết rằng tương ứng ở mặt đất lúc này nhiệt độ là 30 0C). Đáp án: - 30 0C (Theo nguyên lý gradien nhiệt độ chiều thẳng đứng, cứ lên cao 100m thì nhiệt độ giảm trung bình 0,6 0C. Nếu lên đến độ cao 10.000m thì nhiệt độ giảm: (10.000*0.6)/100=60 ( 0C). Nghĩa là nếu ở mặt đất nhiệt độ là 30 0C thì nhiệt độ không khí ngoài máy bay ở độ cao 10.000m sẽ là -30 0C). Câu 9: Núi Kilimangiaro (Châu Phi) nằm trong miền nhiệt đới, cao 5895m. Tại một thời điểm, người ta đo được nhiệt độ trung bình dưới chân núi là 25.2 0 C. Hỏi lên đến độ cao nào sẽ có băng tuyết? Giải thích? Đáp án: 4200m - Hiện tượng băng tuyết ở đây không phải do ảnh hưởng của vĩ độ, mà do ảnh hưởng của sự giảm nhiệt độ theo độ cao địa hình mang lại, cứ lên cao 100m thì nhiệt độ giảm trung bình 0.6 0C. - Điều kiện để xảy ra hiện tượng nước đóng băng là nhiệt độ giảm xuống dưới 0 0 C. - Vậy nếu ở chân núi nhiệt độ là 25.2 0C thì nhiệt độ sẽ giảm xuống 0 0C ở độ cao 4200m. Nghĩa là từ độ cao này trở lên đỉnh núi sẽ có băng tuyết Câu 10: Nhận xét bản đồ đường đẳng nhiệt trung bình tháng 7? Giải thích? 13 Câu 11: Nhận xét bản đồ đường đẳng nhiệt trung bình tháng 1? Giải thích? 14 CHƯƠNG II: NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ VÀ CÁC DẠNG BÀI TẬP LIÊN QUAN PHẦN VIỆT NAM I. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ VIỆT NAM 1. Vĩ độ Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam phần đất liền nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến Bắc bán cầu. Điểm cực Bắc nằm sát chí tuyến Bắc còn điểm cực Nam chỉ cách Xích đạo hơn 8 0 vĩ tuyến khiến cho Mặt Trời luôn nằm cao trên đường chân trời và qua thiên đỉnh lúc giữa trưa tại mỗi địa phương 2 lần trong năm. Lượng bức xạ tổng cộng thường đạt 110-130 kcal/cm2 /năm, cán cân bức xạ đạt 85-110 kcal/cm2/năm đều vượt và đạt chỉ số của khí hậu nhiệt đới. Vì thế nhiệt độ trung bình năm nước ta cao, thường từ 22-25 0C, tổng nhiệt hàng năm thường đạt 8000 0C 9000 0C 2. Gió Nhiệt độ của nước ta còn thay đổi tùy theo hoạt động gió cùng với tính chất của nó (gió mùa Đông Bắc, gió Tín phong, gió Lào, gió Tây Nam, …). Gió mùa Đông Bắc thổi vào nước ta từ tháng 11- tháng 4 năm sau, xuất phát từ áp cao Xibia gây nên thời tiết lạnh, nhiệt độ trong các tháng mùa đông hạ thấp, nhất là ở Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng làm cho miền Bắc không đạt chỉ tiêu khí hậu nhiệt đới. Bảng: Nhiệt độ không khí trung bình các tháng 12, 1, 2, 3 ở một số địa phương chịu tác động của gió mùa Đông Bắc, năm 2011 Địa phương Sơn La Tuyên Quang Hà Nội Vinh Nhiệt độ trung bình tháng 12 14,7 0C 16,5 0C 17,4 0C 17,1 0C Nhiệt độ trung bình tháng 1 11,7 0C 12,5 0C 12,8 0C 14,2 0C Nhiệt độ trung bình tháng 2 16,7 0C 17,6 0C 17,7 0C 17,7 0C Nhiệt độ trung bình tháng 3 16,4 0C 170 C 17,1 0C 16,9 0C Gió Lào gây ra thời tiết khô nóng cho duyên hải miền Trung, nhiệt độ có thể lên tới 37 0 C. Gió Lào thổi là nguyên nhân chính khiến nhiệt độ các tháng đầu mùa hạ của duyên hải miền Trung (như Vinh, Qui Nhơn) nhiệt độ tăng cao vượt cả khu vực Nam Bộ (như Cà Mau) – mặc dù Nam Bộ là nơi nằm ở gần Xích đạo hơn. Bảng: Nhiệt độ trung bình tháng 6, 7 ở một số địa phương năm 2011 Địa phương Vinh Qui Nhơn Cà Mau 0 0 Nhiệt độ trung bình tháng 6 30,5 C 30,5 C 28 0C Nhiệt độ trung bình tháng 7 29,7 0C 30,4 0C 27,7 0C Tín phong Bắc bán cầu thổi xen kẽ với gió mùa Đông Bắc làm xuất hiện kiểu thời tiết nắng ấm, nhiệt độ tăng cao trong mùa Đông cho miền Bắc khi gió mùa Đông Bắc bị suy yếu. Gió này cũng gây mùa khô sâu sắc với nền nhiệt độ cao cho Tây Nguyên và Nam Bộ từ tháng 11 đến tháng 4 (năm sau) 15 Đối với gió mùa mùa hạ, do đặc tính của khối khí này là nóng ẩm nên làm cho nhiệt độ trung bình của nước ta khá cao, trung bình từ 26 0C-290 C, nhiệt độ tối cao có thể lên tới 30 0C-35 0C, nhiệt độ tối thấp lên tới khoảng 22 0C-280 C. 3. Địa hình Xét về nhân tố độ cao địa hình, địa hình nước ta ¾ diện tích là đồi núi, tính phân bậc địa hình khá rõ nên theo qui luật đai cao nhiệt độ nước ta có sự phân hóa rõ rệt theo độ cao. Do ảnh hưởng của hướng các dãy núi đối với các luồng gió mùa trong năm dẫn đến chế độ nhiệt nước ta có sự phân hóa Bắc-Nam, Tây-Đông. Dãy Hoành Sơn và Bạch Mã chạy theo hướng Tây Đông đâm ngang ra biển ở vĩ tuyến 16 0B như bức tường thành góp phần làm cho gió mùa Đông Bắc không thể xâm nhập xuống miền Nam nước ta và làm cho miền này không có mùa đông lạnh. Ở miền núi phía Bắc, do ảnh hưởng của hướng địa hình khiến cho chế độ nhiệt giữa Đông Bắc và Tây Bắc cũng có sự khác biệt. 4. Mặt Trời lên thiên đỉnh Cùng nằm ở trong khu vực nội chí tuyến nhưng chế độ nhiệt ở hai miền Nam và Bắc lại khác nhau: miền Nam có hai tối đa và hai tối thiểu (dạng xích đạo) còn miền Bắc chỉ có một tối đa và một tối thiểu (dạng nhiệt đới hay dạng chí tuyến). Lí do vì sao? Việt Nam nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến Bắc bán cầu nên tất cả các địa điểm trên lãnh thổ nước ta đều có hiện tượng Mặt Trời lên thiên đỉnh 2 lần trong năm. Tuy nhiên khoảng cách giữa hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh ở miền Nam khá lớn (khoảng cách giữa hai lần Mặt trời lên thiên đỉnh tăng dần từ Bắc vào Nam - ở cao nguyên Đồng văn chỉ cách nhau vài ngày còn ở bán đảo Cà Mau khoảng cách này là gần 5 tháng) nên chế độ nhiệt có dạng xích đạo, trong năm có hai lần nhiệt độ cao nhất vào tháng 4, tháng 8 và hai lần nhiệt độ thấp nhất vào tháng 6 và tháng 12. Càng lên phía Bắc, hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh càng gần nhau và thành một lần ở chí tuyến Bắc nên chế độ nhiệt ở miền Bắc có dạng nhiệt đới với một tối đa và một tối thiểu (một lần nhiệt độ cao nhất vào tháng 6, tháng 7 và có một lần nhiệt độ thấp nhất thường vào tháng 12 hoặc tháng 1) Yếu tố Mặt Trời lên thiên đỉnh cũng ảnh hưởng đến nhiệt độ trung bình của các địa phương. Điều này giúp chúng ta hiểu được vì sao những ngày nóng nhất trong năm ở Tp. Hồ chí Minh và Nam Bộ nói chung đều rất sớm từ tháng tư còn ở Hà Nội và Đồng bằng sông Hồng thì những ngày nắng gay gắt nhất là ở cuối tháng năm và trung tuần tháng bảy 5. Các yếu tố khác Nhiều yếu tố tự nhiên khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến yếu tố nhiệt của khí hậu Việt Nam như mưa, biến đổi khí hậu toàn cầu, vị trí địa lí và hình dáng lãnh thổ, mức độ đô thị hóa, rừng, … Tp. Hồ Chí Minh nhiệt độ cao nhất vào tháng tư ngoài nguyên nhân do yếu tố Mặt Trời lên thiên đỉnh còn do tác động của lượng mưa, đây là tháng có lượng mưa thấp gần nhất trong năm. 16 Biến đổi khí hậu toàn cầu làm nhiệt độ của Trái Đất và Việt Nam tăng lên. Trong vòng 50 năm từ 1958-2007 nhiệt độ tăng 0,5 0C-0,7 0 C, trong đó nhiệt độ trung bình năm của bốn thập kỉ gần đây (1961-2000) cao hơn nhiệt độ trung bình năm của ba thập kỉ trước đó (1931-1960), nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè và nhiệt độ của vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn vùng phía Nam. Hình dáng lãnh thổ hẹp ngang, kéo dài với ba mặt giáp biển góp phần làm cho chế độ nhiệt nước ta điều hòa hơn so với nhiều nước khác cùng vĩ độ ở Bắc Phi, Tây Nam Á, nhất là biên độ nhiệt giữa ngày và đêm. Vùng nội thành của các thành phố lớn (Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh), do dân cư tập trung với mức độ cao, hoạt động giao thông vận tải và công nghiệp thải ra khí quyển nhiều khí CO2, mức độ bê tông hóa cao cũng góp phần làm nhiệt độ cao hơn các vùng lân cận. II. ĐẶC ĐIỂM CHẾ ĐỘ NHIỆT Trên nền tảng khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ cao thì chế độ nhiệt của nước ta diễn biến rất thất thường và có sự phân hóa không gian đa dạng do tác động của nhiều nhân tố khác nhau. 1. Chế độ nhiệt nước ta mang tính chất nhiệt đới: Nước ta nằm trong khu vực có chế độ nhiệt thuộc vành đai nhiệt đới: nhiệt độ trung bình năm toàn lãnh thổ chủ yếu 20 - 240C và lớn hơn 24 0C (tiêu chuẩn nhiệt đới nhiệt độ phải lớn hơn 18 - 20 0C ). Đa số các trạm ở nước ta hầu hết là các tháng có nhiệt độ trên 20 0 C. Hà Nội có 9 tháng nhiệt độ lớn hơn 20 0 C, từ Đà Nẵng trở vào ở đồng bằng không có tháng nào nhiệt độ dưới 20 0 C Chế độ nhiệt nước ta phần lớn mang tính chất nhiệt đới chỉ trừ một bộ phận nhỏ ở những vùng núi cao nằm trong thang nhiệt độ thấp dưới 18 0C. Các vùng núi cao đó là vùng núi cao Hoàng Liên Sơn và một phần vùng núi cao ở biên giới Việt-Trung, ViệtLào (do ảnh hưởng của độ cao địa hình và gió mùa Đông Bắc), vùng núi cao Kon Tum và cao nguyên Lâm Viên (do ảnh hưởng của yếu tố độ cao địa hình) 2. Chế độ nhiệt có sự phân hóa. Sự phân hóa của chế độ nhiệt nước ta cũng tuân theo những qui luật địa lí chung của Trái Đất đó là qui luật địa đới (sự phân hóa theo vĩ độ-sự phân hóa Bắc Nam) và qui luật phi địa đới (sự phân hóa theo độ cao, phân hóa theo chiều Đông Tây). a. Sự phân hóa theo vĩ độ (phân hóa Bắc Nam) Theo qui luật địa đới, nhiệt độ có sự giảm dần từ các vùng ở vĩ độ thấp lên các vùng ở vĩ độ cao. Ở nước ta sự phân hóa theo vĩ độ cũng được thể hiện rõ: biên độ nhiệt trung bình năm càng vào Nam (về phía vĩ độ thấp) càng giảm, nhiệt độ trung bình năm càng vào Nam càng nóng hơn, tính chất nhiệt đới càng rõ rệt và điển hình hơn Do lãnh thổ nước ta kéo dài trên 15 0 vĩ tuyến và quan trọng hơn là do gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ giảm dần từ Nam ra Bắc, trung bình khoảng 0,35 0C/1 độ vĩ tuyến. Nếu so với các nước nằm ở vĩ độ tương đương như nước ta mà không hoặc ít chịu tác động của gió mùa Đông Bắc thì tốc độ giảm nhiệt độ trung bình từ Nam ra Bắc của nước 17 ta sẽ nhanh hơn (ví dụ: Ấn Độ chỉ giảm 0,04 0C/1 độ vĩ tuyến, Lào chỉ giảm 0,2 0C/1 độ vĩ tuyến). Thế nhưng thực ra sự giảm nhiệt độ trung bình năm từ Nam ra Bắc không phải đều là 0,35 0C/1 độ vĩ tuyến mà có sự khác nhau rõ rệt giữa hai miền Bắc và Nam. Ở miền Bắc mỗi vĩ độ giảm tới 0,41 0C còn miền Nam mỗi vĩ độ chỉ giảm 0,16 0 C. Điều đó được lí giải bởi miền Bắc chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc còn miền Nam thì hầu như không. Nguyên nhân thứ hai là do miền Nam nằm ở vĩ độ thấp hơn miền Bắc. Nếu xem xét kĩ về nhiệt độ các mùa thì sự khác biệt giữa hai miền Bắc và Nam còn rõ hơn. Về mùa hạ nhiệt độ gần như đồng nhất trên khắp lãnh thổ: nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất của Hà Nội là 28,9 0 C (tháng 7), ở Huế là 29,4 0C (tháng 7) còn Tp. Hồ Chí Minh là Hà Nội là 28,9 0C (tháng 4); sở dĩ trong mùa hạ có sự thống nhất về nhiệt độ do có sự đồng nhất về các khối khí tác động. Trái lại trong mùa đông gió mùa Đông Bắc lạnh xuất phát từ áp cao Xibia chỉ hoạt động ở phạm vi miền Bắc nên giữa miền Bắc và miền Nam có sự chênh lệch lớn về nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1). Giữa Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh chênh lệch nhau tới 9,4 0 C, gần 1 0C/1 độ vĩ tuyến, từ Đà Nẵng trở vào phía Nam không có tháng nào nhiệt độ xuống đến 20 0C và dãy bạch Mã là ranh giới cuối cùng của miền có mùa đông lạnh Cũng có thể nhận biết sự phân hóa theo vĩ độ qua biến trình năm của chế độ nhiệt: ở khu vực miền Bắc do vị trí nằm gần chí tuyến nên biến trình nhiệt độ hàng năm có 1 cực đại và 1 cực tiểu rất rõ rệt mang tính chất chí tuyến (nhiệt đới). Trong khi đó khu vực Nam Bộ nước ta do gần Xích đạo hơn nên đã có dáng dấp của chế độ nhiệt với 2 cực đại và 2 cực tiểu Sự phân hóa của chế độ nhiệt còn thể hiện qua sự phân chia khí hậu nước ta thành hai miền là miền Bắc và miền Nam với ranh giới là dãy Bạch Mã. Miền Nam nhiệt độ trung bình năm trên 25 0C không có tháng nào nhiệt độ xuống dưới 20 0C, tổng nhiệt độ năm vượt quá 9300 0C, biên độ nhiệt năm thấp. Trong khi đó miền Bắc nước ta từ dãy Bạch Mã trở ra do chịu tác động của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình năm thấp hơn, đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi phía Bắc có mùa đông kéo dài 2-3 tháng (nhiệt độ <18 0C), tổng nhiệt hoạt động từ 7500 0C- 93000C, biên độ nhiệt >9 0C. Ngay trong từng miền khí hậu thì chế độ nhiệt cũng có sự phân hóa khá rõ theo chiều từ Bắc xuống Nam. Đối với Miền Bắc đặc điểm chế độ nhiệt của phía Bắc dãy Hoành Sơn (18 0B) có sự khác biệt với phía Nam của dãy Hoành Sơn. Trong khi từ dãy Hoành Sơn trở ra Bắc có mùa đông lạnh thì từ dãy Hoành Sơn trở vào Nam lại không còn mùa đông rõ rệt. Nguyên nhân là do dãy núi này làm giảm ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc xâm nhập xuống phía Nam, hơn nữa do gió mùa Đông Bắc di chuyển trên quãng đường dài nên dần bị biến tính. Đối với miền khí hậu phía Nam: nền nhiệt độ (thể hiện ở nhiệt độ trung bình năm và tổng nhiệt độ) đạt tiêu chuẩn khí hậu Xích đạo, quanh năm nhiệt độ trung bình các tháng đều trên 25 0C chỉ thể hiện rõ từ 14 0B trở vào. Còn trong phạm vi từ 14 0B (Quy Nhơn) đến dãy Bạch Mã, do bức chắn của khối núi Kon Tum, lượng mưa còn lớn và trong năm có 3-4 tháng nhiệt độ trung bình dưới 25 0C. 18 b. Sự phân hóa theo độ cao Sự phân hóa theo độ cao chỉ diễn ra ở các vùng núi. Nếu núi càng cao thì sự phân hóa biểu hiện càng rõ rệt. Ở miền núi có sự giảm đi của nhiệt độ theo độ cao do sự tăng nhanh bức xạ sóng dài của bề mặt đất khiến cho cán cân bức xạ có chiều hướng giảm đi mỗi khi lên cao. Bảng: Sự thay đổi nhiệt độ trung bình năm của một số địa phương nước ta theo độ cao Địa phương Độ cao Nhiệt độ trung bình năm Sơn La 602 m 21,2 0C Plây cu 772 m 22,4 0C Tam Đảo 900 m 18,2 0C Đà Lạt 1500 m 19,1 0C Sapa 1581 m 15,2 0C Sự phân hóa nhiệt theo độ cao khiến cho Việt Nam xuất hiện những đai cao khác nhau. Đai nhiệt đới gió mùa (dưới 600 – 700m ở miền Bắc, dưới 900 – 1000m ở miền Nam): khí hậu mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa với nhiệt độ trung bình năm trên 200 C, mùa hạ trên 25 0C, riêng miền Bắc vào mùa đông thì nhiệt độ có thể dưới 18 0C, tổng nhiệt độ hàng năm khoảng trên 7500 0C. Đai cận nhiệt đới gió mùa (tiếp theo đến 2600m): khí hậu mang tính chất cận nhiệt đới mát mẻ, không có tháng nào trên 25 0C, tổng nhiệt độ hàng năm từ khoảng 4500 0C-7500 0C. Trong đai này lại có sự phân chia thành hai á đai là: đai từ 600m-700m đến 1600m-1700m nhiệt độ trung bình khoảng từ 18- dưới 25 0C, trong khi đai từ 1600m-1700m trở lên thì nhiệt độ thấp trung bình dưới 180 C. Đai ôn đới gió mùa trên núi (trên 2600m) chỉ có ở Hoàng Liên Sơn, quanh năm rét với nhiệt độ dưói 15 0 C, mùa đông xuống dưới 5 0C, tổng nhiệt độ hàng năm không quá 4500 0C. Như vậy sự phân hóa các đai cao của nước ta ngoài sự phụ thuộc vào độ cao tuyệt đối thì vẫn chịu tác động của vị trí địa lí. Nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến, chịu sự chi phối sâu sắc của thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa do đó vành đai ở chân núi vẫn mang tính chất nhiệt đới gió mùa. Và do địa hình nước ta đồi núi thấp chiếm ưu thế nên tính chất nhiệt đới của khí hậu nước ta vẫn được bảo toàn. Giới hạn độ cao của các vành đai ở nước ta còn bị chi phối bởi sự phân hóa theo chiều vĩ độ và ảnh hưởng của chế độ gió mùa đối với vùng núi đó. Thực tế cho thấy các vùng núi cao ở miền Bắc nước ta có nhiều đai cao hơn và nằm ở độ cao thấp hơn so với các vùng núi cao miền Nam c. Sự phân hóa theo chiều Đông Tây Mặc dù cùng vĩ độ tương đương nhưng nhiệt độ các tháng trong mùa đông của Đông Bắc thấp hơn khu vực Tây Bắc. Đông Bắc mùa đông đến sớm, kết thúc muộn và lạnh hơn Tây Bắc (mùa đông đến muộn, kết thúc sớm và bớt lạnh hơn). Quan sát bảng số liệu nhiệt độ trung bình các tháng của Lạng Sơn (Đông Bắc) và Lai Châu (Tây Bắc) ta thấy mùa đông của Lạng Sơn kéo dài 3 tháng từ tháng 12 đến tháng 2 còn của Lai Châu chỉ còn 2 tháng là tháng 12 và 1, nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông của Lạng Sơn là 19 14,1 0C trong khi Lai Châu lên tới 17,4 0C. Như vậy, vùng núi Đông Bắc có khí hậu mang tính cận nhiệt đới gió mùa còn vùng núi thấp Tây Bắc mang sắc thái nhiệt đới ẩm gió mùa. Bảng: Nhiệt độ trung bình các tháng của Lạng Sơn và Lai Châu (đơn vị: 0C) Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Lạng Sơn 13,3 14,3 18,2 22,1 23,3 26,9 27,0 26,6 25,2 22,2 18,3 14,8 Lai Châu 17,1 18,0 21,3 24,6 24,5 26,5 26,5 26,6 26,1 23,7 20,6 17,7 Nguyên nhân do địa hình Đông Bắc có hướng vòng cung mở rộng về phía bắc và đông bắc tạo điều kiện cho gió mùa Đông Bắc xâm nhập sâu vào lãnh thổ nên là nơi ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa Đông Bắc. Tây Bắc có dãy Hoàng Liên Sơn chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam chắn gió mùa Đông Bắc nên hạn chế ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Gió mùa Đông Bắc phải đi vòng xuống Đồng bằng sông Hồng rồi sau đó mới đi dọc theo các thung lũng sông để xâm nhập lên Tây Bắc. Do trải qua quãng đường dài hơn nên gió mùa Đông Bắc bị suy yếu và làm cho Tây Bắc có mùa đông không lạnh bằng Đông Bắc và đến muộn, kết thúc sớm hơn Đông Bắc 3. Chế độ nhiệt có tính thất thường Nước ta nằm trải dài trên 15 0 vĩ tuyến lại nhiều núi, địa hình phức tạp và nhất là do vị trí địa lí đặc biệt trong miền châu Á gió mùa mà chế độ nhiệt nước ta vừa phức tạp và vừa thất thường nhất là ở miền Bắc (do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc lạnh). a. Sự thất thường thể hiện ở sự dao động lớn của các trị số nhiệt Biểu hiện của tính thất thường trong chế độ nhiệt nước ta ở sự dao động đáng kể về nhiệt độ trong các tháng mùa đông ở miền Bắc. Nhiệt độ tháng 1 của bất kì năm nào đó cũng có thể nóng hơn hoặc lạnh hơn so với nhiệt độ trung bình năm từ 3-50 C. Tuy vậy ở khu vực Tây Bắc - Bắc Trung Bộ sự chênh lệch này thấp hơn, chỉ vào khoảng 1-2 0C. Có năm mùa đông nhiệt độ hạ thấp xuống mức rét đậm (do gió mùa Đông Bắc hoạt động mạnh, đến sớm, kết thúc muộn), rét hại xuống dưới 10 0C, thậm chí có cả hiện tượng tuyết rơi. Nhưng cũng có năm mùa đông nhưng thời tiết nóng bất thường (gió mùa Đông Bắc hoạt động yếu). Người ta đã ghi lại được những cực đại tuyệt đối của nhiệt độ trong mùa đông ở Hà Nội và Thanh Hóa lên tới hơn 30 0C, thời tiết nóng nực như mùa hạ. Bảng: Nhiệt độ cực đại tuyệt đối về mùa đông của Hà Nội và Thanh Hóa Địa phương Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Hà Nội 34,5 0C 31,4 0 C 33,1 0 C 35,1 0C Tp. Hồ Chí 35,2 0C 31,4 0 C 33,0 0 C 35,8 0C Minh b. Sự thất thường thể hiện ở sự dao động của các ngày bắt đầu và kết thúc các mùa nóng, lạnh. Sự dao động này có thể từ 12-29 ngày tại khu vực Đông bắc và Đồng bằng Bắc Bộ. Tại Lạng Sơn, năm rét sớm (năm 1928) mùa lạnh đến sớm hơn hơn trung bình 18 ngày, năm rét muộn (1963) mùa lạnh chậm đến 14 ngày, năm mùa lạnh kết thúc sớm (năm 1960) thì lệch 19 ngày, năm mùa lạnh kết thúc muộn (1929) thì lệch 12 ngày. Tại 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan