Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bước đầu tìm hiểu sự phát triển kinh tế xã hội của hyện nho quan ninh bình t...

Tài liệu Bước đầu tìm hiểu sự phát triển kinh tế xã hội của hyện nho quan ninh bình thời kỳ 1986 2000

.PDF
53
644
65

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐẶNG THỊ DUYÊN BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HUYỆN NHO QUAN - NINH BÌNH THỜI KỲ 1986 - 2000 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐẶNG THỊ DUYÊN BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HUYỆN NHO QUAN - NINH BÌNH THỜI KỲ 1986 - 2000 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Hoàng Xuân Thành SƠN LA, NĂM 2014 Lời cảm ơn Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy Hoàng Xuân Thành đã chỉ bảo và hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình thực hiện khóa luận, cùng toàn thể thầy cô trong khoa Sử - Địa, trường Đại học Tây Bắc, trung tâm thông tin - thư viện trường Đại học Tây Bắc. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn UBND, phòng thống kê, huyện ủy, thư viện huyện Nho Quan đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Để hoàn thành khóa luận này ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận. Sơn La, tháng 5 năm 2014 Tác giả Đặng Thị Duyên DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT HTX : Hợp tác xã THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông PAM : Dự án trồng rừng UBND : Uỷ ban nhân dân VAC : Vườn ao chuồng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ......................................................................................... 3 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài.................... 4 4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu ......................................................... 4 5. Đóng góp của khóa luận ................................................................................. 4 6. Bố cục của khóa luận...................................................................................... 5 CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN NHO QUAN (NINH BÌNH) ......... 6 1.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................... 6 1.1.1. Vị trí địa lí, địa hình ................................................................................. 6 1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên ............................................................................. 7 1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội............................................................................. 9 1.2.1. Đặc điểm kinh tế....................................................................................... 9 1.2.2. Đặc điểm xã hội...................................................................................... 10 1.3. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Nho Quan trước 1986 ............................. 11 CHƢƠNG 2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HUYỆN NHO QUAN - TỈNH NINH BÌNH THỜI KỲ 1986 - 2000..................................... 16 2.1. Chủ trương, chính sách đổi mới của nhà Đảng, Nhà nước và địa phương thời kỳ 1986 - 2000.................................................................................................. 16 2.2. Sự phát triển về kinh tế - xã hội từ 1986 - 2000 ......................................... 19 2.2.1. Kinh tế .................................................................................................... 19 2.3. Xã hội........................................................................................................ 32 CHƢƠNG 3. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HUYỆN NHO QUAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP VÀ MỞ CỬA ................................ 35 3.1. Lao động - việc làm - thu nhập .................................................................. 35 3.2. Giáo dục - Văn hóa.................................................................................... 39 3.3. Y tế............................................................................................................ 43 3.4. Thực hiện chính sách xã hội ...................................................................... 44 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau đại thắng mùa xuân năm 1975 đã đưa đất nước ta bước vào kỉ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt chúng ta phải nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định và khôi phục kinh tế - văn hóa, hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Trong thời gian đầu sau năm 1975 đất nước ta đạt được những thành tựu đáng kể. Sớm ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, bước đầu khắc phục hậu quả chiến tranh và chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ; bên cạnh đó trong cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục. Tuy nhiên, nước ta cũng gặp không ít khó khăn về kinh tế - xã hội đòi hỏi phải giải quyết đặc biệt là trong những năm 80 của thế kỉ XX đã trở nên trầm trọng hơn. Nguyên nhân gây nên tình trạng trên là do chúng ta vừa mới giành độc lập còn ngổn ngang về nhiều vấn đề, chưa có kinh nghiệm trong việc đề ra các kế hoạch để phát triển đất nước. Để đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng trên, Đảng ta đã đề ra đường lối mới đầu tiên tại Đại hội VI (12 - 1986), đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hóa. Đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị, nhưng trọng tâm là đổi mới kinh tế được điều chỉnh, bổ sung, phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), Đại hội VIII (6 - 1996), Đại hội IX (4 - 2001). Vận dụng đường lối đổi mới của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương, Đảng bộ và nhân dân huyện Nho Quan đã tìm tòi, đổi mới phương thức lãnh đạo và tổ chức thực hiện, đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội. Nho Quan là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Ninh Bình, ở đoạn giữa vùng đồi núi từ Hòa Bình chay theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đến thị xã Tam Điệp. Huyện Nho Quan có rất nhiều thế mạnh về đất đai, khí hậu, nguồn nước nhất là con người nơi đây cần cù, sáng tạo,... để phát triển nông nghiệp, công nghiệp và lâm nghiệp. “Trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2000), vượt qua bao khó khăn, chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý kinh tế, từng bước chuyển đổi cơ 1 cấu kinh tế tạo sức mạnh về vật chất và tinh thần là tiền đề thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên quê hương Nho Quan” Để đạt được những thành tựu trong thời kỳ 1986 - 2000 Đảng bộ và nhân dân huyện Nho Quan đã trải qua các kỳ Đại hội lần thứ XVIII (1981 - 1986), XIX (1986 - 1988), XX (1988 - 1991), XXI (1991 - 1996), XXII (1996 2000),... các nghị quyết và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Đảng bộ huyện vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào tình hình cụ thể của địa phương. Những chính sách mà Đảng đề ra làm cho bộ mặt của huyện được thay da đổi thịt, kinh tế - xã hội bắt đầu có những bước tiến quan trọng. Đảng bộ và nhân dân toàn huyện đoàn kết, vững vàng trước mọi thử thách khó khăn, tin tưởng ở đường lối đổi mới của Đảng, đẩy mạnh mọi hoạt động kinh tế - xã hội, tập trung thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện. Cụ thể hóa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những yếu kém cần được sự quan tâm hơn nữa của các cấp ủy Đảng đối với nhân dân huyện Nho Quan nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Là người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nho Quan có lịch sử lâu đời, giàu lòng yêu nước và truyền thống cách mạng. Tôi muốn tìm hiểu về lịch sử quê hương mình, qua đó biết được nhân dân trong huyện đã vượt qua khó khăn, thử thách trong chặng đường đổi mới. Qua nghiên cứu này, tôi có mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình hệ thống lại những nét chính trong việc thực hiện công cuộc đổi mới trên quê hương tôi. Huyện Nho Quan là một phần của tỉnh Ninh Bình, đang trên đà phát triển thay da đổi thịt qua từng ngày nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ huyện và sự nỗ lực không ngừng nghỉ của nhân dân. Tôi thực hiện đề tài này nhằm tìm hiểu về sự phát triển một cách toàn diện trong thời kỳ đầu đổi mới của huyện. Ngoài ra, đề tài này sẽ là nguồn tư liệu để nghiên cứu lịch sử địa phương, là cơ sở để nghiên cứu những chặng đường tiếp theo của huyện. Đặc biệt đề tài này còn là nguồn tư liệu quan trọng trong công tác giảng dạy lịch sử địa phương của tôi sau này. 2 2. Lịch sử nghiên cứu Sự nghiệp đổi mới của đất nước từ năm 1986 đến nay đã làm cho tình hình kinh tế - xã hội nói chung, huyện Nho Quan nói riêng đạt được những kết quả nhất định làm thay đổi bộ mặt của nước ta. Vấn đề kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới đã trở thành đề tài hấp dẫn thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Về mặt Nhà nước, tác phẩm: “Chính sách khẳng định phát triển đường lối mới”, (1989) của Đồng chí Đỗ Mười, “Tiếp tục đổi mới ổn định vững chắc tình hình tạo thế mạnh phát triển hơn”, (1991); “Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội”, bao gồm 6 chương trong đó cuốn sách này đã giành 1 chương để nói về công cuộc đổi mới của đất nước. Những bài viết và cuốn sách này đã làm sáng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta được bắt đầu thực hiện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 3”, PGS.Lê Mậu Hãn (chủ biên), NXB Giáo Dục Việt Nam, 2010, trong đó tác giả đã giành 1 chương trình bày vấn đề kinh tế - xã hội, văn hóa nước ta trong công cuộc đổi mới. Về địa phương, cũng có những tài liệu nghiên cứu và đề cập tới ấn đề kinh tế - xã hội huyện Nho Quan. UBND, Phòng thống kê huyện Nho Quan đã tập hợp những cuốn “Số liệu cơ bản (1990 - 1994)”, “Số liệu thống kê kinh tế - xã hội (8 - 1996)”, “Số liệu thống kê kinh tế - xã hội (1995 - 2000),... Đó là những tại liệu nghiên cứu về kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới của huyện Nho Quan. Tuy nhiên, những tài liệu đó mới nghiên cứu ở mức độ khái quát, chưa đi sâu vào vấn đề, cũng có những tài liệu chỉ là những con số chưa có sự so sánh, phân tích để biết được sự thay đổi hay phát triển của huyện Nho Quan. Những tài liệu ở trên đã nghiên cứu và đề cập tới vấn đề kinh tế - xã hội của huyện Nho Quan. Tuy nhiên, đó mới chỉ ở một khía cạnh nhất định nào đó chưa có tài liệu nào nghiên cứu cụ thể và trình bày đầy đủ, hệ thống. Chính vì vậy, khóa luận này xin nghiên cứu đi sâu hơn tìm hiểu sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Nho Quan thời kỳ 1986 - 2000. 3 3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài. 3.1 Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng mà khóa luận tập trung nghiên cứu là sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Nho Quan thời kỳ 1986 - 2000. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Khóa luận này đi sâu vào vấn đề phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian 1986 - 2000. Ngoài ra còn giới thiệu khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Nho Quan trước năm 1986. 3.3 Nhiệm vụ của khóa luận Khóa luận tập trung nghiên cứu vào việc khôi phục lại sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Nho Quan, thông qua đó khẳng định những thành tựu về kinh tế - xã hội mà nhân dân huyện Nho Quan đã đạt được trong thời kỳ đổi mới. Bên cạnh đó còn chỉ ra những tồn tại yếu kém, nguyên nhân gây nên những yếu kém đó. 4. Nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp nghiên cứu 4.1 Nguồn tƣ liệu Các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ Đại hội toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX. Các văn kiện của Đại hội Đảng bộ huyện Nho Quan lần thứ XVIII, XIX, XX, XXI, XXII, các nghị quyết của Huyện Ủy, UBND huyện Nho Quan, các tài liệu sách báo của các phòng ban huyện. Các sách báo, tạp chí, các luận văn có liên quan đến đề tài. 4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện khóa luận này tôi đã vận dụng các phương pháp: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, nhằm tái hiện lại các quá trình phát triển của khóa huyện trên con đường đổi mới. 5. Đóng góp của khóa luận Qua việc nghiên cứu, khóa luận nhằm tại hiện một cách có hệ thống quá trình phát triển của huyện Nho Quan từ 1986 - 2000. Bên cạnh đó, phải làm rõ thành tựu mà huyện đã đạt được; những khó khăn và nguyên nhân cản trở sự phát triển của địa phương. 4 Góp phần giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân trong huyện, tự hào về thành tích đã đạt được. Bên cạnh đó chỉ ra trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với quê hương. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, khóa luận được chia làm ba chương: Chương 1: Khái quát về huyện Nho Quan (Ninh Bình) Chương 2: Sự phát triển kinh tế - xã hội huyện Nho Quan - tỉnh Ninh Bình thời kỳ 1986 - 2000. Chương 3: Tác động từ sự phát triển kinh tế - xã hội đến đời sống nhân dân huyện Nho Quan - tỉnh Ninh Bình 5 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN NHO QUAN (NINH BÌNH) 1.1. Điều kiện tự nhiên 1.1.1. Vị trí địa lí, địa hình Nho Quan là huyện miền núi nằm ở phái Tây Bắc tỉnh Ninh Bình. Đây là nơi tụ hội đầu mối giao thông quan trọng nối liền vùng Tây Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, Nho Quan là nơi hậu cứ, cất dấu quân lương và là điểm xuất phát tiến công quân thù. Về mặt tọa độ, huyện Nho Quan nằm trong khoảng 20,19 độ vĩ Bắc, 105,4 độ kinh Đông, ở đoạn giữa vùng đồi núi từ Hòa Bình chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Huyện Nho Quan, phía Bắc và Tây Bắc giáp Hòa Bình, phía Đông giáp huyện Gia Viễn, phía Tây giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và Tam Điệp. Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ +3 đến +5, lượng mưa hàng năm ở Nho Quan trung bình là 2000mm. Trải qua lịch sử phát triển lâu dài của đất nước, Nho Quan có nhiều tên gọi khác nhau. Thời kỳ Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất giang sơn lập nên nước Đại Cồ Việt, vùng này thuộc phủ Tràng An. Dưới triều nhà Lý (1504) gọi là Trường Yên. Đến triều Trần đổi là trấn Thiên Quan, năm Quang Thái thứ 10 (1397) đổi là phủ Thiên Quan, triều Tự Đức năm thứ 15 (1861) đổi thành phủ Nho Quan. Năm 1921, ba tổng Đề Cốc, Bất Một, Xích Thố thuộc huyện Yên Hóa sát nhập vào huyện Gia Viễn. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 điều chỉnh cắt tổng Vân Trình (huyện Gia Viễn) nhập vào huyện Nho Quan. Đầu năm 1953, ủy ban hành chính liên khu II quyết định sáp nhập 5 xã Quang Minh, Phú Thịnh, Bảo Lương, Đoàn Kết và Yên Lương thuộc huyện Nho Quan vào huyện Yên Thủy (Hòa Bình). Tháng 4 năm 1977, do sự chỉ đạo của Trung ương phân bổ lại các khu vực hành chính đã sáp nhập 2 huyện Nho Quan và Gia Viễn thành huyện Hoàng Long (Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 125/CP ngày 27 tháng 4 năm 1977). 6 Tháng 4 năm 1981, do yêu cầu tình hình mới đòi hỏi phải tăng cường lãnh đạo và quản lý cấp huyện. Hoàng Long lại được điều chỉnh địa giới hành chính, tách thành 2 huyện Hoàng Long và Gia Viễn. Ngày 23 tháng 11 năm 1993, theo Nghị định 88/CP của chính phủ đổi tên huyện Hoàng Long trở lại tên cũ là huyện Nho Quan. Hiện nay diện tích tự nhiên của huyện Nho Quan theo điều tra năm 2008 là 45833 ha. Địa hình Nho Quan đa dạng, vừa có rừng núi, vùng bán sơn địa xem đồng trững. Nho Quan hình thành 3 vùng rõ rệt: * Vùng 1: bao gồm 3 xã là xã Kỳ Phú, Cúc Phương và Phú Long. * Vùng 2: bao gồm xã Đồng Phong, Thạch Bình, Phú Sơn, Lạc Vân, Văn Phong, Yên Quang, Lạng Phong, Văn Phương, Phú Lộc, Văn Phú, Sơn Hà, Quỳnh Lưu, Quảng Lạc, Sơn Lai, Xích Thổ, Gia Sơn, Gia Lâm, Gia Tường. Ba xã vùng 1 và 18 xã vùng 2 lúa cấy ít năng suất không cao, chủ yếu là trồng mầu: lạc, khoai sọ, sắn, khoai lang, khoai môn, cà chua, ớt,... * Vùng 3: gồm 5 xã là xã Đức Long, Thượng Hòa, Sơn Thành, Thanh Lạc và Gia Thủy. Đây là vùng thường đạt năng suất cao trong trồng lúa. Dân số Nho Quan ngày nay có 144792 người (2003), sinh sống trên đất Nho Quan gồm có 9 dân tộc anh em, trong đó 2 dân tộc chiếm số đông là dân tộc Kinh và dân tộc Mường . Dân tộc Kinh chiếm 82% dân số toàn huyện , dân tộc Mường có 18099 người chiếm 12, 5% số dân cả huyện . C̣n lại là các dân tộc khác di cư từ nơi khác đến. 1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên * Tài nguyên đất Diện tích đất tự nhiên 45833 ha. Đất đai hình thành 3 vùng: vùng rừng núi, vùng bán sơn địa, vùng đồng chiêm trũng. * Tài nguyên nước và khí hậu Nho Quan có hệ thống hồ nằm ở phía Tây của huyện, trải dài từ phía Bắc đến phía Nam huyện, có hơn 30 hồ lớn nhỏ, trữ lượng hơn 17 triệu m3 nước. Lớn nhất là hồ Yên Quang trữ lượng hơn 5 triệu m3 nước. Mùa mưa hồ là nơi chứa lũ, mùa khô là nơi cung cấp nước để phục vụ sinh hoạt cho con người. 7 Khí hậu, thời tiết Nho Quan là khí hậu của cảnh quan rừng nhiệt đới: mùa hè, mùa thu có mưa, mùa đông lạnh và khô. Song cũng mang tính chất khí hậu tiểu vùng, mùa đông hay xuất hiện sương muối. * Tài nguyên sinh vật Ở Nho Quan rừng chiếm 21% diện tích tự nhiên toàn huyện. Rừng, đồi tập trung khá lớn, chạy dài 40 km từ Xích Thổ, Thạch Bình đến Sơn Hà, Quảng Lạc. Đặc biệt, Nho Quan có rừng nguyên sinh Cúc Phương rộng 22200 ha riêng phần đất thuộc huyện Nho Quan rộng 11350 ha. Nhiều loại động thực vật quý hiếm và là thắng cảnh của đất nước. Theo số liệu điều tra chưa đầy đủ riêng về thực vật đã tìm thấy 2000 loài. Động vật ở đây có 232 loài có xương sống, gồm 64 loài thú, 137 loài chim, 36 loài b ̣ sát, 17 loài lưỡng thể. * Tài nguyên khoáng sản Nho Quan có nhiều tài nguyên khoáng sản. Đó là hệ thống núi đá vôi 11026 ha, cát vàng ở Xích Thổ, đất mầu ở Văn Phú là nguyên liệu để sản xuất ra ve để quét tường, đá ong dùng làm vật liệu xây dựng ở Quỳnh Lưu, Phú Lộc, Sơn Hà... ở Xích Thổ có đất làm gạch chịu nhiệt, Đầm Đùn (Thạch Bình) có mỏ than, trữ lượng khá lớn, suối nước khoáng nóng Thường Xung (Kỳ Phú) chữa được nhiều bệnh, có giá trị kinh tế cao. * Tài nguyên du lịch Tiềm năng du lịch của Nho Quan rất lớn có nhiều hồ có cảnh đẹp như hồ Đồng Chương, hồ Yên Quang, suối nước nóng Thường Xung... đặc biệt phải nói tới đó là Cúc Phương xứ sở của những loài bướm lạ có màu sắc đẹp, nhiều loại động vật được phát hiện đầu tiên như: Sóc bụng đỏ, các niếc hang, trăn gấm gấu, ngựa báo gấu. Tất cả tạo nên sự thống nhất trong khu rừng thật hoàn chỉnh, là điểm đến thăm quan, du lịch hấp dẫn thu hút nhiều khách du lịch. Với vị trí địa lý thuận lợi, địa hình đa dạng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào,... tạo điều kiện thuận lợi để Nho Quan phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên do địa hình Nho Quan giống như lòng chảo nên thường xuyên úng lụt và khô cạn. Vì thế, người dân ở đây thường có câu: “Nho 8 Quan chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã úng”... Những điều kiện này đã gây khó khăn trong việc phát huy tiềm năng của các ngành kinh tế trong huyện. 1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 1.2.1. Đặc điểm kinh tế Nho Quan có diện tích 457 km2 chiếm 32,9% diện tích của toàn tỉnh (2000), theo số liệu thống kê năm 2006 thì dân số toàn huyện là 147514 người, mật độ dân số trung bình là 322 người/km2. Tuy nhiên, dân số của huyện lại phân bố không đều, có những xã tập trung dân cư quá đông như Gia Thủy (895 người/km2), lại có những nơi tập trung quá ít như các xã Kỳ Phú (90 người/km2), Cúc Phương (22 người/km2) thấp hơn mức trung bình chung của huyện quá nhiều. Nghề sống chính là nông nghiệp, lao động đang làm trong ngành nông nghiệp và lâm nghiệp là 57701 người (chiếm 85,8% lao động của toàn huyện). Hoạt động kinh tế từ lâu đời của cư dân huyện Nho Quan là làm ruộng, trồng lúa nước, ngô, khoai, sắn và trồng một số cây công nghiệp như: lạc, vừng, thuốc lá,... nhằm nâng cao đời sống của nhân dân trong huyện. Bên cạnh đó, nơi đây có đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi tạo điều kiện cho việc đa dạng hóa các cây trồng nâng cao năng suất cho nhiều loại cây trồng như: khoai sọ, vải, nhãn, na. Có đồng cỏ ở một số nơi trong huyện để chăn nuôi gia súc: trâu, bò, dê. Tuy nhiên ngoài những thuận lợi để phát huy thế mạnh của mình huyện cũng gặp không ít khó khăn, thử thách. Địa hình không thuận lợi cho việc sử dụng đất, thường xuyên xảy ra thiên tai lũ lụt, ở vùng bán sơn địa thì đất đai không thuận lợi, ở Nho Quan khí hậu mang tính chất tiểu vùng, mùa đông còn xuất hiện sương muối ảnh hưởng tới sự phát triển của nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Hiện nay được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ huyện đã đầu tư hàng chục triệu đồng, hàng vạn ngày công làm thủy lợi, đào đắp hàng triệu m3 đất, đắp đê làm thêm hồ chứa nước, sửa lại hồ, xây dựng trạm bơm tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp. Hơn nữa còn có hợp tác xã thủ công nghiệp làm hàng xuất khẩu thúc đẩy kinh tế của huyện, từng bước cải thiện đời sống vật chất cho nhân dân. 9 Nho Quan là huyện giàu truyền thống cách mạng, sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc. Trong công cuộc đổi mới của Đảng những truyền thống ấy tiếp tục được phát huy, hăng hái vươn lên, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng huyện Nho Quan ngày càng giàu mạnh, văn minh, hiện đại. 1.2.2. Đặc điểm xã hội Nho Quan là vùng đất cổ, nên có con người sinh sống ở đây từ rất sớm. Dân số Nho Quan ngày nay có 144792 người (2003), hiện nay có 9 dân tộc, trong đó: dân tộc Kinh chiếm 82% dân số, dân tộc Mường có khoảng 2 vạn người chiếm 12,5% dân số trong huyện... các dân tộc khác chiếm tỉ lệ không đáng kể. Dân tộc Mường họ tụ tập thành những quần thể làng bản nằm sâu trong trong vùng rừng núi, chủ yếu ở khu vực vùng núi Cúc Phương. Có làng xã họ sống chung với người Kinh. Người Mường ở Nho Quan do người ở Thanh Hóa và Hòa Bình xuống. Còn lại dân tộc khác di cư ở nơi khác đến. Họ cư trú vừa tập trung, vừa xen kẽ sống với người Kinh ở các xã: Cúc Phương, Kỳ Phú, Quảng Lạc, Phú Long, Thạch Bình, Yên Quang, Xích Thổ, Văn Phương. Nho Quan với bề dày lịch sử và với các bằng chứng khảo cổ của viện nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam khai quật ở hang Đăng Đắng trong vườn quốc gia Cúc Phương tìm thấy 3 ngôi mộ của người nguyên thủy đã đi đến kết luận, con người sống ở đây thuộc thời kỳ đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 7000 năm, thuộc văn hóa Hòa Bình. Ở trong hang Đăng Đắng còn tìm thấy những công cụ bằng đá có hình rìu và búa đá cùng đống vỏ sò, vỏ hến đã hóa thạch. Tại 4 xã: Yên Quang, Gia Tường, Thạch Bình và Văn Phương đã phát hiện được 4 trống đồng thuộc loại II, còn được gọi là trống Mường. [7] Ở đất Nho Quan con người xuất hiện rất sớm và cũng là nơi người Nho Quan tham gia đấu tranh giành độc lập tự do lâu đời. Vùng đất này từ thế kỉ X đã in dấu ấn thời thơ ấu của Đinh Bộ Lĩnh và bà Đàm Thị (mẹ Đinh Bộ Lĩnh). Bên cạnh những khía cạnh trên, các vấn đề như tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên đã giảm qua các năm nhưng vẫn còn cao (năm 2000 tỉ lệ gia tăng dân số 10 tự nhiên là 1,16%). Hiện nay những phong tục hủ tục lạc hậu đã được xóa bỏ nhưng trình độ văn hóa, đời sống nhân dân trong huyện có sự chênh lệch... Đây chính là những khó khăn thử thách đòi hỏi huyện phải giải quyết. 1.3. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Nho Quan trƣớc 1986 Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 của nhân dân ta đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất tổ quốc. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV sau khi nêu bật những đặc điểm của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, Đại hội xác định đường lối chung xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và đề ra đường lối phát triển kinh tế: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp”. [8] Trên cơ sở đường lối chung và đường lối kinh tế, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu của Đảng đề cũng giống như hầu hết các địa phương khác trong cả nước lúc bấy giờ. Sau khi hoàn thành việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế nhân dân toàn tỉnh Ninh Bình tiến hành xây dựng kinh tế - xã hội của tỉnh. Dýới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Nho Quan nói riêng nhân dân huyện trong công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng. Sở dĩ đạt được điều đó là do sức mạnh đoàn kết, truyền thống lao động của con người nơi đây. Dưới ánh sáng nghị quyết Đại hội IV, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nho Quan lần thứ XVI (vòng 2) họp từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 4 năm 1977. Đại hội thảo luận và biểu quyết phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội, hai năm 1977 - 1978: “Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy sản xuất lương thực, thực phẩm làm trung tâm, sản xuất thuốc lá làm nhiệm vụ trọng yếu, phát triển mạnh chăn nuôi, trồng cây gây rừng, chú trọng sản xuất hàng tiêu 11 dùng và hàng xuất khẩu...”. [8] Những mục tiêu trên đã được nhân dân huyện Nho Quan tiến hành thực hiện và trở thành những điều kiện thuận lợi trong những chặng đường tiếp theo để xây dựng nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Về nông nghiệp tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết của Đại hội chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu 1981 - 1985: “Tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa...”. [8; 287] Trong không khí của Đại hội V của Đảng, nhân dân Đảng bộ huyện Nho Quan tập trung phát triển nông nghiệp: Bảng 1: Tình hình sản xuất nông nghiệp từ 1965 - 1985 TT Tiêu chí Đơn vị 1965 1970 1975 1980 1985 9642 9246 9801 Tổng diện tích gieo trồng Ha 10093 10272 Tổng sản lượng lương thực Tấn 18054 19078 19759 15574 15448 Năng suất lúa Bình quân lương thực Tạ/Ha 17,9 19,2 20,5 16,8 15,8 Kg 124,7 136,1 136,5 107,6 106,7 Nguồn: (9) Trong khoảng thời gian này do điều kiện kinh tế - xã hội nên huyện xuất hiện những mô hình mới về quản khoán trong hợp tác xã như hiện tượng khoán ở Gia Thắng. Huyển ủy sớm nắm bắt, đánh giá đúng sức mạnh của động lực vật chất đối với người lao động, khi được khuyến khích sẽ nhân lên sức mạnh gấp bội, mô hình này làm cũng làm cho sản xuất nông nghiệp có bước phát triển. Nhưng do cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộ lộ nhiều hạn chế không phù hợp với sản xuất nông nghiệp, kinh tế tập thể có khó khăn. Xã viên có tư tưởng: “Chân ngoài dài hơn chân trong”. Nhìn vào bảng thống kê (bảng 1) trên ta thấy được khoảng thời gian từ 1965 - 1985 nông nghiệp đã có sự phát triển nhưng không đều, thậm chí đã có sự suy giảm. Đặc biệt, trước năm 1986 tổng sản lượng lương thực đạt 15448 tấn (giảm 1,2 lần so với năm 1965). Sở dĩ có sự suy giảm đó là do cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, rồi xảy ra 2 cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam (1977) và 12 biên giới phía Bắc (2 - 1979), do thiên tai làm mất mùa, sự chỉ đạo của các cấp ủy chưa được chặt chẽ, thống nhất. Trước tình hình như trên, ngày 31/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) ban hành Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Với chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động như luồng sinh khí mới thổi vào nông thôn tạo sức mạnh trong sản xuất nông nghiệp. Cấy, cầy tốc độ nhanh đảm bảo thời vụ, nâng cao được chất lượng hoạt động của các hợp tác xã. Đồng ruộng trước kia đầy cỏ năn lác, thùng đào, thùng đấu nay trở thành đồng lúa. Củng cố quan hệ sản xuất, đồng thời có tác động rèn luyện cán bộ, Đảng viên góp phần chống tiêu cực, chống tư tưởng “làm ít muốn hưởng thụ nhiều”. Từ năm 1981, có chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, sản xuất nông nghiệp vươn lên mạnh mẽ ở tất cả các hợp tác xã. Đóng góp cho Nhà nước về lương thực đạt 107% so với kế hoạch, năng suất lúa vượt 4 tấn thóc/ha. Sản xuất nông nghiệp trong 5 năm (1981 - 1985) có nhiều mặt tiến bộ. Năng suất lúa bình quân (1983 - 1985) đạt 23 tạ/ha/vụ. Tổng sản lượng thóc 5 năm (1981 -s 1985) đạt 123765 tấn. [9] Tuy nhiên, trên thực tế Chỉ thị 100 của Ban Bí thư cũng có điểm chưa hợp lý: cơ chế quan liêu bao cấp vẫn duy trì, việc phát triển kinh tế trong hợp tác xã đã hạn chế sự phát triển tư nhân, sự chỉ đạo ở một số nơi thiếu sâu sát... Chính vì thế đã dẫn tới những mất cân đối trong nền kinh tế giữa cung và cầu... yêu cầu đặt ra là cần phải đổi mới để giải quyết tình trạng trên. Trong khoảng thời gian này, huyện Nho Quan áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất, đời sống... còn hạn chế, chưa có các loại giống cây trồng cho năng suất cao, thích ứng với điều kiện tự nhiên của huyện... Nông nghiệp đã bộc lộ nhiều điểm chưa phù hợp cần khắc phục để đưa kinh tế nông nghiệp phát triển. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi cũng có bước phát triển mới. Tuy nhiên, đàn trâu, đàn bó đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi lại có sự gia tăng không đều qua các năm. 13 Bảng 2: Tình hình chăn nuôi huyện Nho Quan từ 1975 - 1985 Năm 1975 1980 1985 Trâu 5728 7474 6953 Bò 4103 4975 5977 Lợn 15328 19861 22269 Con Nguồn: (9) Chăn nuôi trong giai đoạn này chủ yếu nhằm mục đích lấy sức kéo, lấy thịt để phục vụ cuộc sống của nhân dân. Chính vì thế mà chăn nuôi chậm phát triển. * Về lâm nghiệp Nho Quan là huyện miền núi của tỉnh Ninh Bình. Vì thế, công tác chăm sóc và bảo vệ rừng hết sức được Đảng bộ huyện và nhân dân chú trọng với lực lượng kiểm lâm được thành lập từ rất sớm, có trách nhiệm với công việc, hoạt động có hiểu quả đáp ứng được nhiệm vụ đề ra là bảo vệ và phát triển rừng. Trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc được chú trọng. Từ năm 1961 đến mùa xuân 1965, toàn huyện trồng hàng triệu cây các loại. Riêng 2 năm 1964 - 1965, trồng được 394000 cây. Trong 2 năm (1970 - 1972) toàn huyện trồng được 170 ha cây cải tạo đồi trọc và từ năm 1973 - 1975 toàn huyện trồng hơn hai triệu cây các loại trên đồi trọc đất trồng ven đường. Tuy nhiên, với vị trí là huyện miền núi thì việc bảo vệ và trồng rừng như vậy vẫn còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc khai thác rừng không có quy hoạch vẫn còn xảy ra, khai thác trái phép xảy ra ở nhiều nơi và cũng phải kể đến những diện tích rừng bị thiệt hại do bị cháy và bị sau bệnh. * Về công nghiệp Trước năm 1986, Nho Quan đã quan tâm đến công nghiệp của huyện tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn. Trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã có một số xí nghiệp như: xí nghiệp sứ, xí nghiệp gốm, xí nghiệp ngói,... bên cạnh đó còn có các hợp tác xã thủ công nghiệp: mành trúc, thêu ren, hàng mây hàng giang. Nhưng do cơ sở vật chất chưa đáp ứng nhu cầu của các ngành nghề, hơn 14 nữa ngành nghề thủ công nghiệp rất yếu, chưa có tỉ lệ đáng kể trong cơ cấu kinh tế của huyện, chưa có ngành nghề mới nào được đưa vào phát triển. * Về văn hóa - giáo dục - y tế Trên mặt trận văn hóa, Nho Quan đã có nhiều cuộc vận động xây dựng nếp sống mới, tập trung vào việc thực hiện việc cưới, bảo đảm đúng luật hôn nhân gia đình, xóa bỏ nạn tảo hôn, lấy vợ lẽ. Hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thông động viên nhân dân hăng hái lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng cuộc sống văn hóa mới ở khu dân cư trật tự vệ sinh dần dần đi vào nề nếp. Qua đó, góp phần tích cực vào thắng lợi của công cuộc xây dựng đời sống mới của nhân dân trong huyện. Giáo dục đã được huyện Nho Quan quan tâm và luôn đặt lên hàng đầu nhằm nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân toàn huyện. Năm 1985, số học sinh trung học cơ sở là 19749 học sinh; số học sinh trung học phổ thông là 1577 học sinh. Năm học 1984 - 1985 kết thúc, 90 - 95% học sinh lên lớp; 95% số học sinh tốt nghiệp. Đặc biệt giáo dục hướng nghiệp tiến bộ hơn năm trước. Các trường phổ thông duy trì sĩ số, các lớp bổ túc văn hóa tăng nhanh. Như vậy, ngay trong chiến tranh và thắng lợi mùa xuân 1975 và tới trước 1986, giáo dục huyện Nho Quan biến đổi không ngừng. Lĩnh vực y tế, trong những năm 1984 - 1985 tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng huyện luôn quan tâm đến sức khỏe của nhân dân. Vì thế đã cố gắng tạo điều kiện để bệnh nhân được điều trị: số người điều trị nội trú tại các cơ sở ý tế năm 1985 là 5263 người. Ngăn chặn kịp thời những dịch bệnh lây lan, như đau mắt đỏ, viêm họng. Các công trình vệ sinh giếng nước, nhà tắm... được chú ý sửa chữa, làm mới. Bên cạnh còn có hoạt động bảo vệ bà mẹ: “Năm 1985, số lần khám phụ khoa là 70008 lần người, số lần khám thai là 9181 lần người”. [9] 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan