VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN NINH
CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH NGUY HIỂM CHO XÃ
HỘI CỦA HÀNH VI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 62.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ QUANG VINH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác
TÁC GIẢ
PHẠM VĂN NINH
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CQTHTT
: Cơ quan tiến hành tố tụng
NLTNHS
: Năng lực trách nhiệm hình sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN CHUNG VỀ CÁC TÍNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH
NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA HÀNH VI ....................................................... 8
1.1. Khái niệm, bản chất và ý nghĩa của các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi ................................................................................................... 8
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự việt nam về
các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi ................................. 13
1.3. Quy định về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong
bộ luật hình sự một số nước trên thế giới ............................................................. 20
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC
TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA HÀNH VI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................ 30
2.1. Quy định của PLHS Việt Nam về các tình thiết loại trừ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi và những bất cập trong Bộ luật hình sự hiện hành . 30
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về các tình thiết loại trừ tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi tại thành phố Hồ Chí Minh và những tồn tại, vướng mắc trong
áp dụng pháp luật .................................................................................................. 47
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ
TÍNH NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA HÀNH VI .......................................... 69
3.1. Yêu cầu cải cách tư pháp về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi ............................................................................................................ 69
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi ................................................................. 70
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về
các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi ................................. 76
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (theo số bị
cáo) từ năm 2011đến 2015 ........................................................................................54
Bảng 2.2: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (theo số bị cáo) từ năm 2011đến 2015
...................................................................................................................................59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm để đảm bảo
thắng lợi sự nghiệp đổi mới phải ổn định và giữ vững an ninh chính trị trật tự an
toàn xã hội đảm bảo trật tự kỷ cương và công bằng xã hội. Muốn vậy, nhà nước
phải quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa coi trọng
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đấu tranh phòng chống tội phạm là công cuộc to lớn và hết sức khó khăn,
cấp bách của nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Muốn đạt được hiệu quả cao
trong đấu tranh phòng chống tội phạm, chúng ta phải có một chính sách hình sự
đồng bộ, nhất quán phù hợp với tình hình thực hiện của Việt Nam và xu hướng
chung của thế giới. Để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đi vào nề nếp, hiệu
quả, ngang tầm với vị trí của nó và đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của thực
tế tình hình hiện nay cần phải hoàn thiện pháp luật, đồng thời phải tiến hành nghiên
cứu một cách tổng thể và toàn diện các vấn đề liên quan đến chế định tội phạm
trong luật hình sự. Đặc biệt, để nhận thức sâu hơn về tội phạm thì cần phải làm rõ
các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Từ bản chất xã hội của
tội phạm, đi sâu nghiên cứu lý luận về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi giúp chúng ta có cơ sở để xây dựng các chế định có liên quan trong
Phần chung và các cấu thành tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự. Mặt khác, cũng chính từ việc nghiên cứu các tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và các qui định của pháp luật thực định có liên quan,
để có những giải pháp nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người. Đây là vấn đề đang
đặt ra hết sức cấp bách trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay.
Các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là một trong
những vấn đề hết sức quan trọng trong khoa học luật hình sự, mặc dầu đó không
phải là vấn đề mới nhưng cho đến nay ở Việt Nam chưa có đươc một công trình
1
nghiên cứu khoa học pháp lý như nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện về vấn
đề này. Thực tế, trong một số ít sách và bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành, chỉ mới đề cập đến một vài khía cạnh, rời rạc, thiếu những công trình nghiên
cứu chuyên khảo tổng thể.
Tất cả những điều đó nói lên tính cấp thiết của vấn đề: Các tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi theo luật hình sự Việt Nam trên cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua việc khảo sát, cũng như tìm hiểu dưới góc độ Luật hình sự có các công
trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài cụ thể như sau:
- Về Giáo trình tham khảo:
Các giáo trình Luật hình sự của các trường đào tạo Luật như: Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (2005);
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm do GS.TS Võ Khánh Vinh
chủ biên (2003); Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (giáo trình sau đại
học) do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 2
của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh (2012); Giáo trình
luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm - Quyển 1, Trường Đại học luật Tp. Hồ
Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh (2013); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các
tội phạm - Quyển 2 của Trường Đại học Luật TP.HCM do TS. Trần Thị Quang
Vinh chủ biên (2013); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm của
Khoa luật - Trường Đại học quốc gia Hà Nội; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm (tập 1 và 2) của tác giả Khổng Văn Hà , Học viện cảnh sát nhân
dân (chủ biên)
- Về Luận văn thạc sĩ:
Phòng vệ chính đáng trong Luật Hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học,
Phạm Quốc Hưng, TS. Võ Khánh Vinh hướng dẫn, Hà Nội (2001); Những tình tiết
loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong Luật Hình sự Việt Nam,
2
luận văn thạc sĩ luật học, Hoàng Văn Hùng, PGS. PTS. Kiều Đình Thụ hướng dẫn,
Hà Nội (1999); Định lượng các căn cứ đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm, Luận văn thạc sĩ, Nguyễn Thị Thuỳ Dung, Người hướng dẫn TS. Nguyễn
Thái Phúc , Tp. Hồ Chí Minh (2006); Phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,
Nguyễn Sơn, người hướng dẫn TS. Trịnh Tiến Việt (2014); Tính nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ, Phan Anh Tuấn, Người hướng dẫn, TS. Trần Văn Độ, Tp. Hồ Chí Minh
(2002); Tình thế cấp thiết trong luật hình sự Việt nam, Luận văn thạc sĩ, Nguyễn
Hương Giang, hướng dẫn: GS.TSKH. Đào Trí Úc; Các tội phạm do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn ở
Tây Nguyên), Luận văn ThS. Luật, Trần Thị Thanh Tâm, người hướng dẫn Nguyễn
Khắc Hải (2015).
- Về Đề tài nghiên cứu khoa học:
Từ quyền cơ bản của công dân đến chế định phòng vệ chính đáng trong Bộ
luật Hình sự năm 1999, công trình dự thi giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa
học”, Trường Đại học Luật Hà Nội , Hà Nội (2011); Vấn đề định lượng các căn cứ
đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, Công trình tham dự
"Hội nghị nghiên cứu khoa học của sinh viên" Trịnh Thị Thanh, Người hướng dẫn:
ThS. Trần Thị Quang Vinh , Tp.Hồ Chí Minh (2000).
- Về Khóa luận tốt nghiệp:
Phòng vệ chính đáng trong Luật Hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, khóa luận tốt nghiệp, Bùi Thị Huyền Nga, Nguyễn Văn Hương hướng
dẫn, Hà Nội (2011); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, khoá luận tốt
nghiệp, Vũ Thanh Tùng, TS. Hoàng Văn Hùng hướng dẫn, Hà Nội (2011); Tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, khoá luận tốt nghiệp, Hoàng Thị Hoài Nam, TS. Đỗ Đức Hồng Hà hướng dẫn,
Hà Nội (2010); Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng - Những vấn đề lý luận và
3
thực tiễn, khoá luận tốt nghiệp, Dương Vân Anh, Hoàng Văn Hùng hướng dẫn, Hà
Nội (2010); Tính chất, nội dung, đặc điểm, các dấu hiệu của phòng vệ chính đáng,
khoá luận tốt nghiệp, Nguyễn Thanh Bình, Hà Nội (1997); Phòng vệ chính đáng và
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, khoá luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Nguyệt
Ánh, Hà Nội (1996)
- Về Bài viết:
Vấn đề thi hành công vụ và chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự
Việt Nam, tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, tạp chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Số
2/2012, tr.25-31; Người phạm tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng, tác giả An Văn Khoái , tạp chí Tòa án nhân dân, Số 3/2011, tr41-42;
45; phòng vệ chính đáng, tác giả Nguyễn Tiến Đạt, tạp chí Tòa án nhân dân, Số
14/2006, Tr.34-36; Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh và tội giết người do vuợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tác giả Vũ Thị
Tố Nga, tạp chí Kiểm sát, Số 7/2006, Tr.42-44,48; Đinh Văn Giang phạm tội cố ý
gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tác giả Vũ Hồng Thiêm,
tạp chí Tòa án nhân dân, Số 8/2005, tr.32-34; Về một trường hợp phạm tội do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tác giả Nguyễn Tiến Đạm, tạp chí Kiểm sát, Số
10/2004, tr.33-34; Phải coi đây là phòng vệ chính đáng, tác giả Trịnh Tiến Việt, tạp
chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Số 5/2002, tr.63-65; Quy
định về chế định phòng vệ chính đáng theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, tác
giả Giang Sơn, Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,
2001, Số 160, tr.21-29; Phòng vệ chính đáng theo quy định của Bộ luật Hình sự
năm 1999, tác giả Nguyễn Đức Mai, tạp chí Tòa án nhân dân, Số 6/2000, tr.12-14;
Định lượng các căn cứ đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, tác giả
Trần Thị Quang Vinh, tạp chí Khoa học pháp lý. Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, Số 1/1999, tr. 25; Những quy định về phòng vệ chính đáng và tình thế
cấp thiết trong bộ luật hình sự Nhật Bản và Trung Quốc, tác giả Hoàng Văn Hùng,
tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 1/1999, tr.43-45; Về trách nhiệm
4
hình sự của người gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tác
giả Trương Thanh Đức , tạp chí Tòa án nhân dân, Số 3/1999, tr.19-20.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là: nhằm làm rõ những cơ sở khoa học của việc qui định
các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong luật luật hình sự
trên cả hai phương diện lí luận và thực tiễn. Trên cơ sở thống nhất về nhận thức, kết
quả nghiên cứu của luận văn tìm ra những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, bất cập và
nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc, tồn tại và bất cập. Từ đó đề xuất một
số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt lí luận và thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
trong thực tiễn, góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ
cụ thể sau đây:
Làm sáng tỏ những vấn đề lí luận, bản chất của các tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi
Đánh giá thực tiễn áp dụng áp dụng các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi. Chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng
ở thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc, bất cập đó.
Làm rõ những yêu cầu cần phải hoàn thiện các tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi. Đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của pháp luật hình sự việt nam
về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và thực tiễn áp dụng
các tình tiết này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
- Phạm vi nghiên cứu
5
Về không gian: luận văn nghiên cứu các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Về thời gian: luận văn nghiên cứu số liệu, thực tiễn áp dụng các tình tiết loại
trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khoảng thời gian 05 năm từ 2011
đến 2015
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận văn là phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước - pháp luật và quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong đấu tranh phòng
chống tội phạm cũng như chính sách hình sự trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: luận văn được nghiên cứu bằng nhiều
phương pháp khác nhau như: phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, tổng kết thực
tiễn, phương pháp chuyên gia, sử dụng biểu đồ minh họa, sử dụng những số liệu về
những vụ án có tính chất điển hình để minh họa; khảo cứu các văn bản, tài liệu có
liên quan đến luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có cách tiếp cận mới và khoa học trong việc đanh giá, phân tích
làm sáng tỏ vấn đề lí luận về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua.
Luận văn đánh giá được những mặt đạt được cũng như những bất cập trong
quy định của pháp luật về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi từ góc độ pháp luật thực định.
Luận văn phân tích những yêu cầu khách quan, những đòi hỏi và các biện
pháp bảo đảm nhằm thực hiện có hiệu quả trong việc áp dụng các tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn tại thành phố Hồ Chí
Minh.
6
Kết quả nghiên cứu của luận văn là góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lí
luận về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khắc phục
được hạn chế trong thực tiễn áp dụng. Chúng tôi hy vọng rằng, những phân tích,
quan điểm và những kiến nghị, giải pháp trong luận văn có giá trị tham khảo trong
quá trình hoàn thiện chế định các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi trong luật hình sự, cũng như đối với việc áp dụng các tình tiết này trong
thực tiễn. Đồng thời luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho những ai
quan tâm đến vấn đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của đề
tài luận văn được thiết kế thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn chung về các tính tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự việt nam về các tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và thực tiễn áp dụng ở thành phố Hồ Chí
Minh.
Chương 3: Hoàn thiện quy định về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi.
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN CHUNG VỀ CÁC TÍNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH NGUY
HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA HÀNH VI
1.1. Khái niệm, bản chất và ý nghĩa của các tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi
1.1.1. Khái niệm về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi
Theo điều 2 BLHS năm 1999 Luật hình sự Việt Nam 1999 qui định “chỉ một
người nào phạm một tội do Bộ luật hình sự qui định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự”. Điều đó còn có ý nghĩa là mọi hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm được
qui định trong Bộ luật hình sự đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong
đời sống xã hội có không ít những trường hợp mà về hình thức, một hành vi có đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng hành vi đó, do có những tình tiết đặc biệt và
vì thế chẳng những hành vi không bị coi là tội phạm mà còn là hành vi có tính tích
cực, có lợi cho xã hội và được xã hội ủng hộ. Những tình tiết này được khoa học
luật hình sự gọi là các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Khái niệm về các trường hợp loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
trong khoa học luật hình sự từ trước đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa
thống nhất giữa các nhà hình sự học. Khi nghiên cứu tìm hiểu khái niệm về các tình
tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, chúng tôi thấy.
Trong lý luận khoa học luật hình sự và trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét
xử có những người có sử dụng các thuật ngữ khác nhau để nói về trường hợp không
phải là tội phạm. Thuật ngữ “các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi”, “các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”. Có thể những thuật
ngữ sử dụng không thống nhất. Tuy nhiên đây đều là những tình tiết mà với tính
chất đặc biệt của mình làm cho hành vi cố ý gây thiệt hại cho người đang có hành vi
xâm phạm những lợi ích và giá trị mà pháp luật bảo vệ không những không bị coi là
tội phạm mà còn được coi là hành vi có lợi cho xã hội và được khuyến khích thực
8
hiện do đó những trường hợp này “không phải là tội phạm” và đương nhiên “không
bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Khi nghiên cứu về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của các
hành vi, khác với những trường hợp được miễn trách nhiệm hình quy định tại các
điều 19, 23,25 và 70 Bộ luật hình sự. Đối với các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, bởi tính có lợi cho xã hội của mình mà hành vi chống trả
gây thiệt hại cho người đang có hành vi tấn công xâm hại lợi ích của Nhà nước, của
tổ chức, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không còn nguy hiểm cho
xã hội, tức là không còn có dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể nên không bị coi là
tội phạm và người thực hiện nó không bị coi là người phạm tội.
Các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về các trường hợp loại trừ tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi, chúng ta có thể khẳng định rằng: trường hợp mà
việc gây thiệt hại về mặt pháp lý không bị coi là tội phạm phải có tổng hợp các đặc
điểm chung và bắt buộc sau đây:
Trước hết trường hợp loại trừ tính tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phải được điều chỉnh bằng các quy phạm của pháp luật hình sự, chứ không phải
điều chỉnh bằng các quy phạm của các ngành luật khác.
Việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong trường hợp tương ứng cụ thể
mặc dù có thể là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, nhưng được coi là hợp pháp về
mặt pháp lý vì nó được thừa nhận chung bằng sự chấp nhận của xã hội bởi một
trong những lý do như: để bảo vệ lợi ích của xã hội hay Nhà nước, cũng như quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân
Tính chất tội phạm của hành vi gây thiệt hại được thực hiện trong trường hợp
tương ứng cụ thể bị loại trừ là do có căn cứ nhất định được điều chỉnh bằng pháp
luật hình sự, vì do thiếu một trong năm dấu hiệu của tội phạm (tính nguy hiểm cho
xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính chất lỗi, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện, người thực hiện hành vi đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự)
Theo quan điểm GS.TS Võ Khánh Vinh về các tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi có thể hiểu như sau: “Tình tiết loại trừ tính chất tội
9
phạm của hành vi là tình tiết mà với tính chất đặc biệt của mình làm cho hành vi cố
ý gây thiệt hại cho người đang có hành vi xâm phạm những lợi ích và giá trị (các
quyền) mà pháp luật bảo vệ không những không coi là tội phạm mà còn được coi là
hành vi có lợi cho xã hội và được khuyến khích thực hiện” [75, Tr. 273]. Trong bộ
luật hình sự 1999 những tình tiết đó là phòng vệ chính đang (Điều 15) và tình thế
cấp thiết (Điều 16). Và một số tình tiết như: Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người
phạm pháp; Thi hành mệnh lệnh cấp trên; Rủi ro trong sản xuất, trong nghề nghiệp
và trong nghiên cứu khoa học. Chưa được quy định trong Bộ luật hình sự 1999. Tuy
nhiên trong thực tiễn tư pháp hình sự những tình tiết này đã được thừa nhận và áp
dụng ở mức độ khác nhau. Và những tình tiết này đã được quy định trong chương
IV Bộ luật hình sự năm 2015.
1.1.2. Bản chất của các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi
Khoản 1 điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm đến chế độ chính trị, kinh
tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Theo viện dẫn của điều luật thì tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, tức là hành vi gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt
hại cho các quan hệ xã hội được nhà nước bảo vệ ở mức độ nhất định, các quan hệ
xã hội này được qui định tại phần các tội phạm cụ thể.
Đặc điểm chung của các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi là một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác, cho Nhà nước hoặc xã hội
mặc dù có đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm nhất định nhưng có các tình tiết
này thì không bị coi là phạm tội. Họ không bị coi là người phạm tội vì trong hành vi
của họ có một trong các tình tiết kể trên đã làm cho tính nguy hiểm cho xã hội của
trường hợp gây thiệt hại cụ thể mất đi.
10
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính cơ bản thể hiện
nội dung của tội phạm, còn được coi là dấu hiệu quan trọng nhất, quyết định các
dấu hiệu khác của tội phạm. [7, tr.38].
Hành động của người thực hiện các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi tuy gây ra những thiệt hại cho người khác, tập thể, Nhà nước hay
xã hội nhưng tính nguy hiểm cho xã hội không còn nữa, vì vậy họ không thể bị coi
là phạm tội.
Ngoài đặc điểm chung của các tình tiết này là làm cho tính nguy hiểm cho xã
hội của những trường hợp gây hiệt hại triệt tiêu, thì khi thực hiện các xử sự gắn với
các tình tiết này được xác định là hợp pháp, không có tính chống đối pháp luật.
Hệ thống pháp luật là một thể thống nhất nội tại. Để bảo vệ những quan hộ
xã hội nhất định, Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật có tính chất cấm chỉ.
Việc thực hiện những điều cấm chỉ có thể là vi phạm pháp luật hoặc là tội phạm,
người thực hiện có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp
luật. Trong luật hình sự biện pháp cưỡng chế đó là hình phạt có tính nghiêm khắc
cao. Nhưng để bảo vệ các quan hệ xã hội, nhà nước không chỉ sử dụng các quy
phạm pháp luật có tính cấm chỉ mà cả các quy phạm mang tính chất cho phép.
Chúng thống nhất với các quy phạm mang tính cấm chỉ trong sự liên kết nội tại của
hệ thống pháp luật cuả một nhà nước. Vì không thể một hành động ở chỗ này được
coi là bị cấm, ở nơi khác lại là hành động được phép.
Các quy định của luật hình sự về các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi là những quy phạm mang tính chất cho phép. Cùng với quy
định cấm chỉ nó tạo ra sự định hướng cho xử sự của công dân trong xã hội.
Với tính chất là quy phạm cho phép các quy định về các tình tiết loại trừ tính
chất nguy hiểm cho xã hộ của hành vi tạo cơ sở pháp lý cho công dân trong hoàn
cảnh nhất định mà các quy phạm đã dự liệu có thể gây thiệt hại đến lợi ích hoặc
quyền của người khác, của tập thể, của Nhà nước hoặc của xã hội mà không bị coi
là chống đối phápluật. Quy định cho phép và các quy định cấm chỉ có mối liên hệ
thống nhất trong hệ thống pháp luật. Cơ sở của mối liên hệ thống nhất này là quy
11
phạm cấm chỉ và quy phạm cho phép nó đều có mục đích chung là bảo vệ các quan
hệ xã hội tiến bộ và thúc đẩy xã hội phát triển.
Các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cụ thể hoá
quyền của công dân trong xã hội. Việc thực hiện các quyền năng này không phụ
thuộc vào địa vị xã hội của mỗi người. “Bất cứ quyền nào cũng đều có nghĩa là áp
dụng một tiêu chuẩn duy nhất cho những người khác nhau, cho những người thật ra
thì không giống nhau và cũng không ngang nhau”.[6, tr. 9]. Trật tự pháp luật của
một nhà nước không chỉ được xây dựng trên các quy định cấm chỉ mà bên cạnh đó
còn các quy định mang tính chất cho phép.
Các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi ngoài các
đặc điểm nêu ở trên còn có đặc điểm khác nữa là những hành động với các tình tiết
này được coi là có ích cho xã hội rằng nó gây thiệt hại nhất định cho quyền và lợi
ích của, người khác, tập thể, xã hội, hoặc của Nhà nước nhưng nó lại bảo vệ những
lợi ích có, ý nghĩa lớn hơn hoặc; đem lại những lợi ích lớn hơn cho xã hội. Cũng
chính vì nó có ích cho xã hội cho nên được xã hội chấp nhận và ở những mức độ
khác nhau được pháp luật của các nước quy định là những xử Sự hợp pháp. Song
các nhà làm luật dù cố gắng đến đâu chăng nữa cũng không thể khái quát được hết
các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
1.1.3. Ý nghĩa của các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi
Là cơ sở để phân định ranh giới giữa tội phạm và hành vi không phải là tội
phạm đối với trường hợp hành vi đã gây thiệt hại cho xã hội. Đặc trưng cơ bản của
tội phạm cho phép chúng ta phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật
khác là tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được xác định, trước hết bởi thiệt hại mà hành
vi phạm tội gây ra hoặc có khả năng gây ra cho các quan hệ xã hội mà luật hình sự
bảo vệ.
Là cơ sở pháp lí và khuyến khích công dân thực hiện hành vi ngăn chặn tội
phạm. Một hành vi chỉ bị coi là nguy hiểm cho xã hội khi nó không phù hợp với lợi
12
ích của Nhà nước và xã hội, khi nó đi ngược lại lợi ích của Nhà nước và xã hội. Còn
những hành vi phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội thì ngay cả khi chúng
gây ra những thiệt hại nhất định nào đó cho các quan hệ xã hội, mà luật hình sự bảo
vệ cũng chưa phải là tội phạm
Bảo vệ các quyền con người. Trong những năm gần đây, khi sự nghiệp đổi
mới được Đảng và Nhà nước ta khởi xướng thì vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường
pháp chế nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền của công dân và các quyền của con người
càng trở nên cấp bách đối với toàn xã hội. Đặc biệt ở giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam thì vấn đề bảo vệ
quyền con người càng có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng hơn lúc nào hết.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
việt nam về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
1.2.1. Những qui định về các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi trong cổ luật Việt Nam
Từ thời xưa, quyền tự vệ của cá nhân khi bị tấn công đã được hầu hết hệ
thống pháp luật khác nhau trên thế giới thừa nhận. Đây là chế định mang tính xã hội
chung, không phân biệt kiểu xã hội nào. Trong nội dung phần này, chúng tôi chỉ tìm
hiểu về sự hình thành và phát triển của các tình tiết loại trừ tính tội phạm của hành
vi trong luật hình sự Việt Nam thể hiện trong các luật hình sự cổ và hiện hành.
Qua các công trình nghiên cứu khoa học, cho chúng ta thấy: pháp luật Việt
Nam cũng ra đời rất sớm, cùng với sự ra đời của Nhà nước. Giai đoạn đầu cũng
giống như sự ra đời của pháp luật các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam thời
Văn Lang-Âu Lạc chưa có luật thành văn mà chủ yếu là những phong tục tập quán
được coi là pháp luật, vừa được Nhà nước cưỡng chế, vừa được dư luận xã hội cộng
đồng buộc các cá nhân thực hiện.
Cuộc xâm lược và cai trị hơn 1000 năm của phong kiến Trung Quốc là một
thời gian dài thử thách toàn diện đối với dân tộc ta nhất là về phương diện văn hóa.
Nhưng đây cũng là thời điểm giao lưu văn hóa, dân tộc ta một mặt đấu tranh bảo
tồn bản sắc văn hóa dân tộc, mặt khác tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa bên
13
ngoài để phát triển văn hóa dân tộc. Pháp luật thuộc lĩnh vực thành tựu văn hóa nên
cũng chịu đựng những thử thách và giao lưu đó. Kết quả của một thời kì kiên nhẫn,
kiên cường là thế kỷ Thứ X nước ta giành độc lập chính trị, xây dựng được Nhà
nước và Pháp quyền độc lập.
Tuy nhiên, từ triều Ngô, Đinh – Tiền Lê, đất nước vừa độc lập còn phải xây
dựng, còn phải đấu tranh chống thế lực chia cắt đất nước cho nên hoạt động lập
pháp thời kì này chủ yếu dựa vào phán quyết và ý chí của các đời Vua, mang nặng
tính đàn áp khốc liệt và tùy tiện.
Ở nước ta khi nghiên cứu Bộ luật Hồng Đức hay Bộ Quốc triều hình luật
thấy rằng: trong Bộ luật Hồng Đức không có những qui định mang tính khái quát về
những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự, nhưng các nhà làm luật qui định nhiều
trường hợp cụ thể về vấn đề này như:
Điều 450 qui định: “Những kẻ ban đêm vô cớ vào nhà người ta, thì xử tội đồ;
Chủ nhân đánh chết ngay lúc ấy, thì không phải tội”
Điều 485 qui định: “Ông, bà, cha mẹ bị người ta đánh, con cháu đánh lại mà
không bị què gãy, bị thương thì không phải tội; bị thương, què thì phải tội kém đánh
bị thương người thường ba bậc; đánh chết thì bị tội nhẹ hơn luật thường một bậc”.
Điều 553 Bộ luật Hồng Đức qui định: trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự cho can phạm nếu vì việc tư khẩn cấp mà phóng ngựa trong thành phố gây tai
nạn cho người khác thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy khi qui
định về tình thế cấp thiết, nhà làm luật đã đưa vào luật cả công việc tư.
Bộ luật Hồng Đức qui định việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những
người vì việc công, vì thi hành mệnh lệnh của nhà cầm quyền mà phóng ngựa
nhanh trong thành phố gây ra tai nạn cho người khác. Theo Điều 553 thì “...Nếu vì
việc công hay tư cần phải đi gấp mà phóng ngựa chạy, thì không phải tội” (nhược
hữu công tư yếu tốc, nhi tẩu giả bất tọa) [43, tr. 212]
1.2.2. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Ngày 2 - 9 - 1945 Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngộn độc lập khai sinh ra Nhà
14
nước Việt Nam Dân Chủ Công Hoà , nay là nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến, hệ thống pháp luật kiểu
mới trong đó có luật hình sự từng bước hình thành. Tuy vậy các văn bản pháp luật
hình sự ban hành giai đoạn này chủ yếu quy định các hành vi nhất định là tội phạm
và đe doạ áp dụng hình phạt với người thực hiện hành vi đó. Các văn bản pháp luật
hình sự có tính chất cấm chỉ. Các văn bản pháp, luật hình sự có tính chất hướng dẫn
hành động của người với nội dung có tính chất cho phép chưa được ban hành.
Ngày 9 - 11 - 1946 Nhà nựớc ta ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của chế độ
mới, trong đó quy định các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, là cơ sở pháp lý cơ
bản cho việc ban hành các quy định của luật hình sư về các tình tiết loại trừ tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Hiến pháp đã khẳng định quyền tự do đi lại, cư trú, quyền được bảo đảm về
tư hữu, quyền về nhà ở và bí mật an toàn thư tín được quy định cụ thể trong bản
Hiến pháp đầu đầu tiên của Nhà nước với chế độ mới
Để cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1946, ngày 24 - 1 - 1957 Nhà
nước ban hành Luật đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối
với nhà ở đồ vật thư tín của nhân dân. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị định
số 30-1-TTg ngày 10 - 7 - 1957 quy định chi tiết việc thi hành luật này.
Điều 22 của Nghị định 301 - TTg quy định:
Khi thi hành việc bắt giữ, giam, khám mà gặp sự kháng cự của kẻ phạm pháp
cần bảo vệ tính mạng của mình hoặc của người khác đang bị đe doạ nghiêm trọng.
Khi cần phải ngăn chặn những người phạm tội chính trị hoặc hình sự quan
trọng có hành động trốn tránh pháp luật.
Khi người: bị giam đang vượt trại giam hoặc khi can phạm quan trọng chạy
trốn trong lúc đang bị dẫn giải. khi có các điều kiện như trên luật pháp cho phép sử
dụng vũ khí nên việc bắn chết người được coi là cần thiết, không có tội
Các quy định trên đây phản ánh những đặc điểm của các tình tiết loại trừ tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Mặc dù sơ lược và chưa toàn diện nhưng
phản ánh được của các tình tiết: Phòng vệ chính đáng và bắt giữ người phạm tội.
15
- Xem thêm -