Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các yếu tố ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục...

Tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục

.PDF
91
432
60

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THU TRÂM CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUỸ THỜI GIAN RỖI CỦA NỮ VIÊN CHỨC TRONG NGÀNH GIÁO DỤC (TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI PHÂN HIỆU HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM VÀ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II) LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC HÀ NỘI – 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THU TRÂM CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUỸ THỜI GIAN RỖI CỦA NỮ VIÊN CHỨC TRONG NGÀNH GIÁO DỤC (TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI PHÂN HIỆU HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM VÀ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II) Chuyên ngành : Xã hội học Mã số : 60.31.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ VĂN CÔNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy Cô của Học viện Khoa học xã hội, lãnh đạo của đơn vị và đồng nghiệp cùng với bạn bè,… đã luôn quan tâm, động viên, chia sẻ và hỗ trợ kịp thời cho tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê Văn Công đã hết sức tận tâm, sâu sát, thường xuyên chỉ dẫn tận tình để tôi hoàn tất các nội dung của luận văn đúng yêu cầu. Với sự hướng dẫn nhiệt tình và trách nhiệm của Thầy đã giúp tôi bổ sung thêm vốn kiến thức thiết thực qua việc thực hành trong từng giai đoạn của đề tài, đây là những hành trang quý giá để tôi có thể vận dụng cho công việc của mình tốt hơn trong thời gian tới. Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả Quý Thầy Cô Khoa xã hội học đã luôn theo dõi, chia sẻ thông tin kịp thời liên quan quan đến việc thực hiện đề tài và sẵn sàng hỗ trợ cho khi chúng tôi cần giúp đỡ. Xin được gửi lời cảm ơn đến toàn thể nữ viên chức của 2 đơn vị: Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và Học viện Chính trị khu vực II đã sẳn sàng tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong việc thu thập thông tin để hoàn thành nghiên cứu của mình. Tuy đã cố gắng rất nhiều nhưng do khả năng của bản thân còn nhiều hạn chế nên đề tài khó tránh khỏi được những sai sót, vì vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Quý Thầy Cô, đồng nghiệp, bạn bè,…để báo cáo được hoàn thiện tốt hơn. Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 2017 Học viên Phạm Thị Thu Trâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ....................................14 1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 14 1.2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................ 22 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN THỜI GIAN RỖI CỦA NỮ VIÊN CHỨC .......................................................................23 2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 22 2.2. Các thông tin nhân khẩu học và mối tương quan với thực trạng thời gian rỗi của nữ viên chức. ........................................................................... 23_Toc475775376 2.3. Hoạt động giải trí trong thời gian rỗi ............................................................ 34 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian rỗi của nữ viên chức.... 35_Toc475775394 2.5. Bản chất, nguyên nhân ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi .................. 50 Chƣơng 3: NHỮNG CÁCH THỨC MÀ NỮ VIÊN CHỨC LINH HOẠT SỬ DỤNG ĐỂ TẠO THỜI GIAN RỖI CHO BẢN THÂN .......................................52 3.1. Cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để tạo thời gian rỗi........... 52 3.2. Các mong muốn của nữ viên chức liên quan đến quỹ thời gian rỗi ................ 60 KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP .................................................................................69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................1 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Độ tuổi nữ viên chức theo nhóm ..............................................................23 Bảng 2.2. So sánh chéo về thời gian rỗi theo độ tuổi của nữ viên chức ...................23 Bảng 2.3. Phân bố về trình độ học vấn của nữ viên chức .........................................25 Bảng 2.4: So sánh chéo về thời gian rỗi trên ngày theo trình độ học vấn ................25 Bảng 2.5 Tình trạng hôn nhân của nữ viên chức ......................................................26 Bảng 2.6. So sánh chéo về thời gian rỗi theo trình trạng hôn nhân gia đình ............26 Bảng 2.7. Phần trăm về thu nhập bình quân theo nhóm của nữ viên chức ...............27 Bảng 2.8. So sách chéo thời gian rỗi theo thu nhập của nữ viên chức .....................28 Bảng 2.9. Về tình trạng cư trú của gia đình nữ viên chức ........................................29 Bảng 2.10. So sánh chéo thời gian rỗi và tình trạng cư trú của nữ viên chức ..........29 Bảng 2.11. Công việc nữ viên chức thường làm sau giờ làm việc cơ quan ..............30 Bảng 2.12. Mức độ ưu tiên cho các hoạt động hàng ngày sau giờ làm ở cơ quan....31 Bảng 2.13. Các hoạt động thường làm trong ngày nghỉ ...........................................32 Bảng 2.14. Các hoạt động giải trí trong thời gian rỗi của nữ viên chức ...................34 Bảng 2.15. Bảng đánh giá mức độ về thời gian rỗi hiện nay ....................................35 Bảng 2.16. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian rỗi của nữ viên chức .....................36 Bảng 2.17. Nguyên nhân chính ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi ..............50 Bảng 3.1. Cách giải quyết công việc chuyên môn hàng ngày ..................................52 Bảng 3.2. Cách giải quyết trong công việc nhà để tăng thời gian rỗi .......................54 Bảng 3.3. Các cách thức khác để tăng thời gian rỗi ..................................................58 Bảng 3.4. Mong muốn của nữ viên chức đối với người thân trong gia đình ............60 Bảng 3.5. Mong muốn đối với người chồng và các thành viên sống trong gia đình 62 Bảng 3.6. Mong muốn của nữ viên chức đối với cơ quan - nơi làm việc .................64 Bảng 3.7. Mong muốn trong việc hỗ trợ dịch vụ chăm sóc trẻ .................................66 Bảng 3.8. Mong muốn nữ viên chức đối với các chính sách nhà nước ....................67 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vai trò, vị trí của mình trong sự phát triển chung của đất nước. Đây thực sự là cơ hội nhưng đồng thời cũng là một thách thức đối với họ. Cơ hội được thể hiện ở chỗ phụ nữ được tham gia trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã như: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng,..Thách thức mà phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng còn phải đối mặt đó là họ phải thực hiện vai trò “kép”, ngoài ra họ còn phải thực hiện thiên chức mà thiên nhiên tạo hóa đã đem đến cho phụ nữ. Trong thực tế, để tham gia vào thị trường lao động trong thời kỳ mới với cơ chế cạnh tranh hiện nay đòi hỏi người phụ nữ phải thực sự có năng lực, có trình độ chuyên môn ngày càng cao. Phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ mới, bên cạnh các công việc tại cơ quan mà họ đảm trách, họ còn phải thực hiện thiên chức của người mẹ và người vợ: đó chính là sinh con và nuôi dưỡng, chăm sóc con trong những năm tháng đầu đời, đồng thời đóng vai trò người vợ trong gia đình. Không những vậy, nữ viên chức còn phải gánh vác các công việc nhà, tổ chức cuộc sống gia đình, chăm sóc các thành viên trong gia đình trong lúc bình thường cũng như trong lúc đau ốm, bệnh tật, thực hiện chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái cho đến lúc trưởng thành, … Đây là những công việc chiếm rất nhiều thời gian, tâm trí và sức lực của người phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng trong điều kiện xã hội hiện nay. Bên cạnh đó, các công việc mang tính cộng đồng mà phụ nữ phải tham gia như trong các mối quan hệ họ hàng, dòng họ, làng xóm, bạn bè…. Với những nhóm công việc nêu trên đã góp phần làm cho quỹ thời gian của người phụ nữ càng thêm thu hẹp. Đối với nữ viên chức trong ngành giáo dục, do đặc thù của ngành trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, việc này đòi hỏi ngày càng nhiều về chuyên môn để thực hiện công việc. Do vậy, nữ viên chức trong ngành giáo dục cần có nhiều thời gian đầu tư để nâng cao chất lượng trong hoạt động của mình bằng nhiều phương cách 1 khác nhau như: Học tập nâng cao trình độ cho nghề nghiệp của bản thân, cập nhật thông tin, kiến thức có liên quan phục vụ cho công việc, và tham gia nghiên cứu khoa học…Ngoài ra, trong xu thế phát triển không ngừng và hội nhập hiện nay, đòi hỏi đội ngũ viên chức phải đạt chuẩn cao hơn. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu công việc, tiếp tục phát triển chuyên môn nghề nghiệp và thích ứng với yêu cầu thực tế của xã hội, nữ viên chức phải liên tục tự hoàn thiện bản thân và nhanh chóng thích nghi với sự đổi mới, nhằm đáp ứng tốt hơn nữa các yêu cầu về tiêu chuẩn do hệ thống giáo dục đặt ra trong thời kỳ mới. Chính vì thế mà thời gian cho bản thân không còn nhiều. Trong thực tế, bên cạnh công việc chuyên môn mà nữ viên chức trong ngành giáo dục phải đảm nhận, họ đồng thời còn phải thực hiện thiên chức của người phụ nữ. Ngoài ra, họ còn phải đảm đương các công việc gia đình, cộng đồng và các hoạt động xã hội khác... Với những công việc mang tính thường xuyên đã nêu trên đã dẫn đến tình trạng quá tải của nữ viên chức, trong khi quỹ thời gian trong ngày của họ là một hằng số không đổi và có hạn theo quy luật tự nhiên. Do vậy, để có thể hoàn thành được tất cả các công việc và vai trò nêu trên thì thời gian rỗi của nữ viên chức nhất định sẽ bị thu hẹp rất nhiều. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức dành cho việc tái phục hồi thể lực, tinh thần để chuẩn bị cho một ngày mới làm việc, học tập, trao dồi kiến thức…hiệu quả và có chất lượng. Chính vì thế, tôi chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục” tại Phân hiệu Học viện Phụ Nữ Việt Nam và Học viện Chính trị khu vực II. Đề tài tìm hiểu những yếu tố tác động, chi phối đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức và cách thức nữ viên chức linh hoạt thích ứng nhằm tạo ra thời gian rỗi cho bản thân. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu sẽ đề xuất giải pháp để cải thiện quỹ thời gian rỗi cho nữ viên chức trong ngành giáo dục. 2. Tình hình nghiên cứu Có nhiều sách, nghiên cứu, bài viết của các tác giả trong và ngoài nước đề cập đến nội dung sử dụng thời gian của các nhóm xã hội trong các hoạt động hàng ngày, cũng như thời gian cho việc giải trí để lấy lại sự cân bằng về thể chất và tinh 2 thần sau một ngày làm việc, đặc biệt là những nghiên cứu, bài viết về sự khác biệt giữa nam và nữ trong việc sử dụng quỹ thời gian hàng ngày, trong đó có thời gian rỗi …Phần tổng quan về các nghiên cứu có liên quan sẽ được đề cập sau đây. 2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài Chris Rojek (2005), đã đưa những khái niệm then chốt về loại hình thời gian rỗi. Ông đưa ra một khung khái niệm rõ ràng nhằm mô tả hoạt động định hình hành vi giải trí thông qua cuộc sống thực tế, bao hàm quan niệm thực tế về thời gian rỗi như ý nghĩa của sự tự do, việc lựa chọn, quyền tự quyết và nhấn mạnh về đặc điểm của nó trong những tình huống cụ thể. Đồng thời ông cũng giải thích vai trò của các yếu tố: giai cấp, giới, dân tộc và địa vị trong mô hình thời gian rỗi. Tác giả kết luận thời gian rỗi có mối quan hệ mật thiết với nguồn lực kinh tế, văn hóa và đó là hai yếu tố chi phối sự lựa chọn và thực hiện các hoạt động giải trí của con người [49]. Iwasaki và những người khác (2005), đã xem xét việc sử dụng thời gian rỗi của phụ nữ và nam giới trong lĩnh vực quản lý, các tác giả đã chỉ ra rõ có sự khác biệt về giới trong sử dụng thời gian rỗi và các cách khác nhau mà nữ giới và nam giới đối phó với những căng thẳng trong cuộc sống. Họ đưa ra kết luận hoạt động giải trí là một biện pháp quan trọng nhằm giải tỏa căng thẳng cho cả hai giới nam và nữ. Mặc dù, những căng thẳng mà cả nam và nữ đang phải đối mặt từ thực tế cuộc sống có nhiều điểm chung song cơ chế sử dụng thời gian rỗi và hình thức giải trí ở mỗi giới lại khác nhau [51]. Francois Houtart & Geneviève Lemercinier, (2001) đưa ra khái niệm thời gian tự do đối với dân nông thôn [52, tr.311- 330], các tác giả đã phân biệt rõ thời gian “lao động nghề nghiệp” với thời gian được gọi là “tự do”, đồng thời họ cho thấy một phần của thời gian “tự do” là những hoạt động nhằm tái sản xuất sức lao động. Tác giả nhận định rằng: khả năng, thái độ và giá trị bộc lộ ra qua việc lựa chọn các hoạt động trong thời gian tự do của từng nhóm người trong xã hội có sự khác biệt. Đồng thời, họ nhận định rằng nó phụ thuộc vào trình độ của cá nhân bên cạnh những điều kiện khách quan của môi trường sống. Nghiên cứu chỉ ra rằng 3 những người dân nông thôn trình độ văn hóa đạt trung học có cách sử dụng thời gian rỗi một cách trí tuệ hơn. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Chu Khác (1988), bàn về vấn đề quỹ thời gian trong sinh hoạt gia đình hàng ngày trong bài viết tác giả đã nêu quan điểm về thời gian rỗi, cơ cấu quỹ thời gian. Đồng thời ông nêu tầm quan trọng của những thành tựu của khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng như thế nào hoạt động trong thời gian rỗi. Nghiên cứu đã chỉ ra sự chênh lệch trong việc sử dụng thời gian giữa nam và nữ, phân tích cơ cấu quỹ thời gian theo giới trong các hoạt động hàng ngày. Qua đó tác giả cho thấy có sự khác biệt trong việc sử dụng thời gian rỗi theo giới của các nhóm trong cơ cấu phân tầng xã hội. Tác giả nhận định cần thiết tăng thêm quỹ thời gian rỗi của nữ giới nhằm giúp phục hồi thể lực, phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách; tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện thực hiện quỹ thời gian của nữ giới, trong đó có việc tăng dần thời gian rỗi[7]. Tương tự như trên, tác giả Hà Thị Minh Khương (2007), nhận định rằng: có khoảng cách chênh lệch và khác biệt giữa nam nữ trong việc sử dụng thời gian rỗi ở hầu hết các hoạt động giải trí. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng hoạt động trong thời gian rỗi không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân mỗi giới mà còn bị tác động bởi nhiều yếu tố như địa vị kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa và điều kiện sống mỗi cá nhân [8, tr.20-34]. Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh, (2008), trong nghiên cứu về chủ đề thời gian rỗi, tác giả nhận định rằng: có sự khác biệt giữa nam và nữ trong việc sử dụng thời gian rỗi, thể hiện ở hầu hết các hoạt động hàng ngày. Phụ nữ ở nông thôn và Dân tộc thiểu số ít có điều kiện để tham gia các hoạt động giải trí trong thời gian rỗi hơn so với phụ nữ ở thành thị và là người Kinh. Phụ nữ ít tham gia các hoạt động giải trí trong thời gian rỗi hơn nam giới ở tất cả các nhóm[1, tr.328-350]. Bùi Thế Cường, Trần Đan Tâm, Lê Thanh Sang, (2009), khi nghiên cứu về sử dụng thời gian rỗi trong phân tích theo giới, nghiên cứu chỉ ra rằng: mức hưởng thụ và vui chơi giải trí của nam giới nhiều hơn nữ [6, tr.11-17]. Đó là những kết 4 luận được rút ra khi nghiên cứu sử dụng thời gian rỗi được thể hiện trong 3 nhóm hoạt động như: sử dụng phương tiện truyền thông (tivi, radio, báo chí, băng đĩa); giao tiếp kiểu giải trí (uống cà phê và nhậu); giao tiếp tinh thần (thăm gia đình, họ hàng, lối xóm, bạn bè). Hồ Ngọc Châm, (2015), tác giả đã chỉ ra rằng: do phụ nữ dành nhiều thời gian cho công việc không được trả công trong gia đình so với nam giới. Qua nhận định của tác giả về điều này, cho thấy rằng, việc đảm trách hầu hết các công việc gia đình của phụ nữ là một trong các nhân tố làm ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của họ[4, tr.81-90]. Đỗ Thị Thuỷ, (2009), tác giả nhận định rằng phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học có những khó khăn như: yếu tố thiếu thời gian do phải thực hiện thiên chức của người phụ nữ và thực hiện công việc gia đình, chăm sóc con cái, người lớn tuổi trong gia đình…do đó dẫn đến sự quá tải về sức lực, thiếu thời gian nghỉ ngơi, [43]. Lưu Song Hà, (2014), cho thấy rằng: người phụ nữ gánh nặng hai vai trò trên cả hai vai. Qua kết quả nghiên cứu, khảo sát, tác giả đi đến kết luận rằng: mặc dù đã có sự chia sẻ trong việc thực hiện các công việc gia đình, tuy nhiên, người thực hiện chính vẫn là người vợ. Điều này chỉ ra rằng: những công việc nội trợ-những việc mang tính thường xuyên và chiếm nhiều thời gian nghỉ ngơi, đó là một gánh nặng của phụ nữ [32]. Bùi Thị Mai Đông, (2015), cho rằng: do phụ nữ là người gánh vác chính trong thực hiện hầu hết các công việc nội trợ và dành nhiều thời gian cho công việc gia đình, do vậy họ phải tính toán đến việc thực hiện nhiều công việc trong cùng một thời gian như đi chợ, nấu ăn, giặt đồ, dọn dẹp nhà cửa, trông con, dạy cho con học, chăm sóc người già, người ốm…Điều này khiến họ luôn thiếu thời gian và mệt mỏi. Đồng thời, tác giả đã đưa ra định hướng nhằm hỗ trợ phụ nữ phát huy vai trò đó là việc các thành viên trong gia đình và xã hội cần tạo điều kiện để phụ nữ có thời gian học tập, tham gia các hoạt động xã hội, có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe [29]. 5 Trần Thị Minh Đức, (2015) trong nghiên cứu về định kiến và áp lực đối với nữ trí thức, tác giả đi đến kết luận rằng: Nữ trí thức đối mặt với nhiều áp lực, trong đó áp lực trách nhiệm gia đình, trong khi sự chia sẻ của nam giới chưa nhiều trong lãnh vực này [30]. Tạp chí cổng thông tin của Chính phủ Việt Nam, (2012) viết về vai trò, vị trí của phụ nữ ngày càng được khẳng định, chỉ ra rằng: trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vị thế của mình trong công cuộc phát triển đất nước. Trong quá trình hội nhập và phát triển, sự phân công lao động “truyền thống” theo giới tại Việt Nam bị phá vỡ, gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ được giảm nhẹ, vì thế phụ nữ có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động xã hội khác. Bài viết đã nhấn mạnh đến khía cạnh về thời gian nghỉ ngơi mà phụ nữ cần phải có nhằm góp phần cải thiện và thực hiện tốt vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội [28]. Kim Anh, Diệu Nguyên, (2016), trong bài viết “Cổ vũ phụ nữ phát triển bản thân”, tác giả đi đến nhận định rằng, để phụ nữ có thể phát triển, vươn lên kịp với sự tiến bộ của xã hội, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân thì họ cần được chia sẻ đảm đương trong các công việc nhà, chăm sóc con cái ở những năm tháng đầu đời, từ đó người vợ có được quỹ thời gian riêng cần thiết cho bản thân trong việc thư giản, đem lại sự cân bằng về thể lực, tinh thần [24]. Lê Việt Nga, (2006), trong nghiên cứu về chủ đề: “Tác động của dịch vụ giúp việc tới gia đình”, tác giả cho rằng khi sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình làm tăng thời gian rỗi của phụ nữ. Qua đó tác giả cho thấy, việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình là một trong các giải pháp nhằm cải thiện quỹ thời gian nhàn rỗi của phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng. Điều này đã giúp nữ giới có nhiều thời gian rỗi để nghỉ ngơi, giải trí, tái phục hồi sức khỏe [9, tr 63-64]. Nguyễn Đình Tấn, (2007), nói về vai trò của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả khẳng định nữ trí thức đã có những đóng góp rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước và thực hiện chức năng thiên phú là duy trì nòi giống (tái sinh sản sức lao động xã hội). Mặc dầu vậy, nữ trí thức còn 6 gặp phải rất nhiều khó khăn, đó là họ vừa thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan như nam giới đồng thời họ phải vừa gánh vác, lo toan các công việc nội trợ trong gia đình như đi chợ, nấu ăn, chăm sóc nuôi dạy con,…các công việc tưởng chừng như vặt vãnh nhưng lại tiêu tốn nhiều thời gian, sức lực. Tác giả chỉ rõ, trong thực tế nữ trí thức hiện đang đảm nhiệm vai trò “kép” đó là trách nhiệm trong công việc chuyên môn tại cơ quan và công việc gia đình. Qua đó, ông đưa ra cảnh báo về tình trạng “quá tải” trong công việc hiện nay của nữ trí thức. Đồng thời nhận định rằng nếu kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng “stress” đối với các nữ viên chức do xung đột vai trò. Do vậy, việc cân đối quỹ thời gian thông qua việc giảm bớt đầu việc, xử lý công việc một cách khoa học là cần thiết, từ đó nữ viên chức có thể giải quyết được bài toán xung đột vai trò của mình. Nhìn chung những khó khăn mà phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng là cách phân bố quỹ thời gian trong việc thực hiện các vai trò xã hội. Trong đó việc tìm kiếm quỹ thời gian rỗi cần thiết cho bản thân phụ nữ là điều không dễ dàng. Do vậy, tác giả khẳng định để giải quyết vấn đề trên không chỉ là nhiệm vụ riêng của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, nhưng cũng là nhiệm vụ của các thành viên trong mỗi gia đình. Việc này cần phải xem xét một cách có hệ thống, nghiêm túc, và sớm có những giải pháp thích hợp để tạo điều kiện cho nữ trí thức làm việc và vươn lên bình đẳng giới [12, tr. 5-11]. Huỳnh Thị Tam Thanh, (2016), đã chỉ ra những khó khăn, áp lực của “phụ nữ tham chính” và đảm nhiệm công việc nhà, họ đóng vai trò “kép”. Bên cạnh đó tác giả cũng đã chỉ ra các giải pháp giải quyết những khó khăn nêu trên như: chị em phụ nữ, một mặt phải tự điều chỉnh mình, mặt khác, phải tìm kiếm sự chia sẻ trong gia đình và đồng nghiệp. Nhưng quan trọng nhất là cần có những giải pháp mang tính chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ, và giải quyết tận gốc các khó khăn để chị em thực hiện tốt cả hai vai trò mà không phải chịu nhiều áp lực. Không những thế, tác giả còn nhấn mạnh đến vai trò cá nhân của các nữ công chức trong việc linh hoạt sắp xếp thời gian để luyện tập thể lực để giữ gìn, bảo vệ sức khỏe; cần có những mối quan hệ thân thiện bên ngoài công việc, bên ngoài (nhóm bạn...), có những khoảng thời gian dành riêng cho mình để thư giãn nhằm giảm bớt áp lực về tâm lý 7 là cần thiết. Qua đây chúng ta thấy, hai giải pháp nêu trên là cần thiết và phải thực hiện song hành nhằm giải quyết các vấn đề về nhu cầu quỹ thời gian rỗi đối với nữ tham chính là cần phải có, việc này sẽ giúp nữ tham chính giải tỏa căng thẳng, lấy lại sự cân bằng, có tinh thần thoải mái và sức lực để tiếp tục thực hiện vai trò “kép” của mình hiệu quả hơn [39]. Lê Thị Quý, (2009), khi bàn về vấn đề công bằng và bình đẳng giới đối với nữ trí thức, tác giả đã chỉ ra những bất cặp mà nữ trí thức đang gặp phải trong quá trình thực hiện vai trò ngoài xã hội và trong gia đình, đặc biệt là nữ trí thức trẻ có con nhỏ gặp khó khăn ngày càng nhiều, do thiếu thời gian dành cho việc nghỉ ngơi và lấy lại cân bằng. Tác giả nhấn mạnh rằng việc giúp nữ trí thức trẻ có được thời gian nghỉ ngơi để lấy lại cân bằng phải đồng thời được lồng ghép vào các chương trình “nâng cao năng lực của nữ trí thức” là việc chung của nhà nước, gia đình và cá nhân: nhà nước phải có chính sách cụ thể, và ở bên trong gia đình thì các thành viên phải tích cực tạo điều kiện để nữ trí thức phát triển toàn diện. Đây là biện pháp mà tác giả muốn đưa ra nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho nữ trí thức phát triển trong cả 2 vai trò: gia đình và sự nghiệp, trong đó có cả yếu tố cải thiện thời gian cho việc nghỉ ngơi - một nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong cuộc sống của con người nói chung và nữ trí thức nói riêng [38]. Chủ đề “Thời gian rỗi” đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cặp, phân tích và đi đến các nhận định như: quan niệm về thời gian rỗi; thời gian rỗi có mối quan hệ mật thiết với nguồn lực kinh tế, văn hóa. Các nghiên cứu còn chỉ ra sự khác biệt về giới trong sử dụng thời gian rỗi và nêu lên sự cần thiết phải tăng thêm quỹ thời gian rỗi của nữ giới và có tác giả khẳng định rằng hoạt động trong thời gian rỗi không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân mỗi giới mà còn bị tác động bởi nhiều yếu tố như địa vị kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa và điều kiện sống mỗi cá nhân; trình độ học vấn cũng có ảnh hưởng đến cách sử dụng thời gian rỗi. Một số tác giả còn đi đến kết luận rằng công việc gia đình của phụ nữ là một trong các nhân tố làm ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của họ và khẳng định sự cần thiết phải có thời gian nghỉ ngơi cho phụ nữ để họ lấy lại sự cân bằng về thể lực và tinh thần. Bên cạnh đó, 8 các tác giả còn đưa ra các biện pháp để góp phần làm tăng thời gian rỗi cho phụ nữ như: sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình để giảm bớt đầu việc. Ngoài ra, cần xử lý công việc một cách khoa học để tăng hiệu quả, giảm chi phí thời gian, đồng thời cần tìm kiếm sự chia sẻ trong gia đình và đồng nghiệp trong việc giải quyết thực hiện công việc cơ quan và gia đình,…Đã có nhiều tác giả đề cặp đến các nội dung có liên quan đến thời gian rỗi, tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về thời gian rỗi của nữ viên chức. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục” để đi sâu nghiên cứu thực trạng thời gian rỗi của nữ viên chức; các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian rỗi của nữ viên chức và các cách thức nào mà họ sử dụng để tạo thời gian rỗi cho bản thân cũng như những mong muốn của nữ viên chức đối với gia đình, cơ quan, cộng đồng,…có liên quan đến việc tạo điều kiện để nữ viên chức có thể cải thiện nâng dần quỹ thời gian rỗi, góp phần vào việc nâng cao đời sống tinh thần của nữ viên chức trong ngành giáo dục. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng và những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức. Đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức, góp phần nâng cao chất lượng sống của nữ viên chức nói chung và nữ viên chức trong ngành giáo dục nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức; Thứ hai, tìm ra những yếu tố ảnh hưởng tới việc sử dụng quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức; Thứ ba, xác định cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để tạo thời gian rỗi cho mình nhằm phục hồi thể lực, cân bằng về tinh thần của bản thân; 9 Thứ tư, đề xuất giải pháp nhằm giúp tổ chức hiệu quả hơn các hoạt động hỗ trợ nữ viên chức xét trên phương diện quản lý nhà nước, thực hiện chính sách đối với phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. 3.3. Câu hỏi nghiên cứu 1) Thực trạng của việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục hiện nay như thế nào? 2) Các yếu tố nào chi phối ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức? 3) Những khó khăn (rào cản) nào mà nữ viên chức gặp phải trong việc sử dụng quỹ thời gian rỗi? 4) Những cách thức nào mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để tạo thời gian rỗi cho mình nhằm phục hồi thể lực, cân bằng về tinh thần của bản thân? 5) Các mong muốn của nữ viên chức về các vấn đề mà họ gặp phải liên quan đến việc sử dụng quỹ thời gian rỗi? 6) Giải pháp nào cho vấn đề nêu trên từ góc nhìn của nhà xã hội học căn cứ trên các số liệu và thông tin thu thập từ các câu hỏi nêu trên? 3. 4. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết 1: Văn hóa- xã hội là yếu tố chi phối ảnh hưởng lớn nhất đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức. Giả thuyết 2: Nữ viên chức đã lập gia đình và có con thường gặp khó khăn nhiều và hạn chế hơn trong việc sử dụng quỹ thời gian rỗi. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức tại Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và Học viện chính trị khu vực II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Khách thể nghiên cứu Nghiên cứu khảo sát ý kiến của 92 nữ viên chức trong độ tuổi từ 22 đến dưới 55, đang làm việc tại Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và Học viện chính trị khu vực II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 10 4.3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tại 02 đơn vị: Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và Học viện chính trị khu vực II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp chọn mẫu Để thông tin được thu thập mang tính đại diện thì số liệu mẫu đã được chọn đảm bảo có những thống kê xã hội học tin cậy. Do đó việc chọn mẫu nghiên cứu được tiến hành như sau: + Chọn địa điểm khảo sát: Luận văn chọn tại Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và Học viện chính trị khu vực II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. + Dung lượng mẫu: Trong đề tài nghiên cứu này, dung lượng mẫu được chọn là 92 trường hợp (62%) trong tổng số nữ viên chức của 2 đơn vị nghiên cứu là 148 người. Trong đó mẫu là 86 phỏng vấn sâu có bảng hỏi, và 6 trường hợp thảo luận nhóm ở 2 đơn vị. Theo Aquino thì trong nghiên cứu kết hợp thu thập thông tin định tính và định lượng khi tổng mẫu nghiên cứu nhỏ hơn 300 mẫu đại diện trên 30% là được. + Cách thức chọn mẫu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện dựa trên danh sách nữ viên chức của 2 đơn vị. Đối với mẫu phỏng vấn sâu có bảng hỏi là 86 người, và thảo luận nhóm 6 trường hợp. 5.2. Phương pháp thu thập thông tin + Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: luận văn sử dụng các nguồn thông tin thứ cấp định tính từ các nghiên cứu trong và nước ngoài về về các thông tin liên quan đến việc sử dụng thời gian rỗi của phụ nữ. Các mong muốn của họ liên quan đến quỹ thời gian rỗi. Cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để vượt qua khó khăn tạo thời gian rỗi cho mình từ các sách nghiên cứu, và tài liệu trên internet. + Thông qua nguồn tư liệu sẵn có: Luận văn tiến hành thu thập, tham khảo và phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu có liên quan, chắt lọc thông tin để phản ánh vấn đề một cách chính xác, toàn diện hơn. Các tư liệu này được tổng hợp thành từng nhóm ý chính phục vụ cho đề tài. 11 + Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp: Song song với các công cụ thu thập và phân tích thông tin định lượng điều tra có bảng hỏi, luận văn sử dụng công cụ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, tiến hành điều tra trên 86 trường hợp để thu thập thông tin. Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu có bảng hỏi, tiến hành điều tra trên 86 trường hợp để thu thập thông tin định lượng và định tính. Ngoài ra nghiên cứu còn thực hiện phương pháp thảo luận nhóm 6 trường hợp để bổ sung và làm rõ các thông tin cho nghiên cứu. 5.3. Phương pháp xử lý thông tin Bên cạnh các số liệu định lượng thì các thông tin định tính như các chia sẻ ngắn, các câu chuyện và các phản hồi tại phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm là các thông tin bổ ích để làm rõ hơn các số liệu thống kê. Ngoài ra các tư liệu thu thập được từ sách, báo, tạp chí hội thảo, báo cáo chuyên đề được tổng hợp theo chủ đề, đề mục cụ thể nhằm làm rõ các thông tin liên quan đến thực trạng của việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức; các mong muốn của nữ viên chức liên quan đến quỹ thời gian rỗi; cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để vượt qua khó khăn tạo thời gian rỗi cho mình và đề xuất, kiến nghị…Số liệu của các công trình nghiên cứu khác phù hợp với mục đích sử dụng của nghiên cứu sẽ được tổng hợp và đánh giá theo yêu cầu của luận văn, nhằm tìm kiếm những thông tin có khả năng tham khảo và phục vụ cho luận văn. + Các thông tin định lượng có bảng hỏi sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS. + Đối với các thông tin định tính từ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm sẽ được ghi âm, tiến hành gỡ băng và phân tích thông tin lồng ghép để làm rõ các số liệu định lượng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu này góp phần vào việc làm phong phú và sáng tỏ thêm lý thuyết về thời gian rỗi; lý thuyết về nhu cầu của con người, trong đó có nhu cầu về thời 12 gian rỗi và quan điểm bình đẳng giới thông qua việc sử dụng thời gian rỗi hàng ngày, cũng như các mối quan hệ tác động giữa các yếu tố làm ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi. Đồng thời những thông tin thu thập được từ luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng trong việc nâng cao chất lượng sống của phụ nữ ở một xã hội đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thông qua nghiên cứu thực tế, đề tài sẽ xác định được đâu là những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục, những yếu tố nào tác động ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của họ. Đề tài cũng đóng góp một phần nhỏ trong việc khẳng định sự cần thiết của thời gian rỗi trong nhu cầu của con người nói chung và phụ nữ trong ngành giáo dục nói riêng. Mặt khác, nghiên cứu sẽ góp phần chỉ ra những tồn tại và đề xuất giải pháp để hỗ trợ cho nữ viên chức nhằm cải thiện, nâng cao quỹ thời gian rỗi cần thiết để nữ viên chức nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động, thư giản tinh thần, sau khoảng thời gian làm việc chuyên môn, công việc gia đình… 7. Cơ cấu của luận văn Phần mở đầu Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn Chƣơng 2: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức Chƣơng 3: Những cách thức mà nữ viên chức linh hoạt, thích ứng để tạo thời gian rỗi cho bản thân. Kết luận và giải pháp 13 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm Thời gian rỗi là khoảng thời gian mà trong đó con người không bị thúc bách bởi nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động tự nguyện theo sở thích của chủ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người [5, tr. 27]. Thời gian rỗi của nữ viên chức là khoảng thời gian mà họ hoàn toàn được tự do thực hiện các hoạt động theo nhu cầu sở thích của bản thân mà không bị chi phối bởi công việc cơ quan, công việc gia đình và các công việc khác. Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [13, tr. 68]. Vai trò “kép” của người phụ nữ hiện nay là vừa đảm đương tốt công việc gia đình, vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xã hội. Vai trò kép được hiểu là việc thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ (công việc) của nữ viên chức: Thứ nhất là nhiệm vụ tại cơ quan, đây các hoạt động của nữ viên chức trong công việc mà họ phải đảm nhận ngoài xã hội. Thứ hai là nhiệm vụ trong gia đình đây chính là các công việc ở nhà mà nữ viên chức phải thực hiện (chăm lo cho chồng con, nội trợ, việc nhà …). Đó là 2 loại công việc mà người nữ viên chức phải làm thường xuyên hàng ngày trong cuộc sống của họ[32]. Chính sách là tổng thể các quan điểm, giải pháp và công cụ mà chủ thể quản lý (Nhà nước) sử dụng để tác động lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể. Những mục tiêu này không nằm ngoài định hướng của mục tiêu tổng quát. [13, tr. 7]. Chính sách xã hội bao gồm tập hợp các chính sách cụ thể, là sự thể chế hóa, cụ thể hóa các giải pháp của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề xã hội liên quan đến từng nhóm người hay toàn bộ dân cư, trên cơ sở phù hợp với quan điểm, đường 14 lối của Đảng, nhằm hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người[13, tr. 12]. Thích nghi: Theo bảng phân loại DSM-IV (sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu tâm thần- IV 1997, Hiệp hội tâm thần Mỹ), khả năng thích nghi đề cập đến mức độ đáp ứng những đòi hỏi chung của cuộc sống và mức độ đáp ứng những tiêu chuẩn độc lập cá nhân- những tiêu chuẩn mà những người cùng tuổi đạt được trong cùng hoàn cảnh văn hóa, xã hội và môi trường cộng đồng. Có thể nói rằng hành vi thích nghi gồm có một số các kỹ năng ứng xử, khi kết hợp lại, tạo điều kiện cho mỗi con người hội nhập được với cộng đồng [42, tr.5]. 1.1.2. Tiếp cận lý thuyết trong nghiên cứu 1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới Để xác lập cơ sở lý luận và phương pháp luận cho đề tài, chúng tôi xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên gắn liền cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh cho bình đẳng, tự do và phát triển của phụ nữ Việt Nam. Ngay từ trong luận cương của Đảng từ khi thành lập Đảng có ghi: “Nam nữ bình quyền” [16, tr. 1]. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc thực hiện sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ, cần phải có những quy định được thực hiện trên các lĩnh vực cụ thể. Trong bài viết “Phải thật sự tôn trọng quyền của phụ nữ”, Bác nói rằng “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”. Tư tưởng nêu trên được Đảng và Nhà Nước ta cụ thể hóa trong hiến pháp một văn bản pháp quy có hiệu lực pháp lý cao nhất, tại điều 24 Hiến pháp 1960 nói: “Phụ nữ nước Việt nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Luật Hôn nhân gia đình, điều 1 nói: Nhà nước đảm bảo…nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ…” [17, tr. 225]. Không những quan tâm đến việc thực hiện bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà khi đề cặp đến mối quan hệ nam nữ trong gia đình, Bác nói 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan