HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM NGỌC LỢI
CHÊt L¦îNG C¤NG t¸c kiÓm tra cña uû ban
kiÓm tra HuyÖn uû ë miÒn ®«ng nam bé
Giai ®o¹n hiÖn nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHU
NN
NH
DỰN ĐẢN V CHÍNH QU ỀN NH NƢỚC
H NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM NGỌC LỢI
CHÊt L¦îNG C¤NG t¸c kiÓm tra cña uû ban
kiÓm tra HuyÖn uû ë miÒn ®«ng nam bé
Giai ®o¹n hiÖn nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHU
NN
NH
DỰN ĐẢN V CHÍNH QU ỀN NH NƢỚC
M s
62 31 02 03
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS Đặng Đình Phú
2. PS . TS Lâm Qu c Tuấn
H NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phạm Ngọc Lợi
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 TỔN QUAN TÌNH HÌNH N HI N CỨU LI N QUAN ĐẾN ĐỀ T I ....... 6
1.1. Các công trình nghiên cứu ở trong nước..................................................... 6
1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài .................................................. 24
1.3. Khái quát các kết quả nghiên cứu và những vấn đề luận án sẽ tập
trung nghiên cứu ........................................................................... 32
Chƣơng 2 CHẤT LƢỢN
CÔN
TÁC KIỂM TRA CỦA UỶ BAN KIỂM TRA
HUYỆN UỶ Ở MIỀN ĐÔN
NAM BỘ HIỆN NAY - NHỮNG VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN V THỰC TIỄN .............................................................. 35
2.1. Khái quát về các huyện, đảng bộ huyện, uỷ ban kiểm tra huyện uỷ và
công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở miền Đông Nam
Bộ ............................................................................................................ 35
2.2. Chất lượng công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở miền
Đông Nam Bộ - khái niệm, các yếu tố cấu thành và tiêu chí đánh giá ... 59
Chƣơng 3 CHẤT LƢỢN CÔN TÁC KIỂM TRA CỦA UỶ BAN KIỂM TRA
HUYỆN UỶ Ở MIỀN ĐÔN NAM BỘ IAI ĐOẠN 2010 - 2015 –
THỰC TRẠN , N U
N NH N V NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ....... 67
3.1. Thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra huyện
uỷ ở miền Đông Nam Bộ giai đoạn 2010 - 2015 .................................... 67
3.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra...................................................... 100
Chƣơng 4 MỤC TI U, PHƢƠN HƢỚN V NHỮN
IẢI PHÁP N N CAO
CHẤT LƢỢN CÔN TÁC KIỂM TRA CỦA UỶ BAN KIỂM TRA
HU ỆN UỶ Ở MIỀN ĐÔN
NAM BỘ ĐẾN NĂM 2025...................... 112
4.1. Mục tiêu, phương hướng nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của
uỷ ban kiểm tra huyện ủy ở miền Đông Nam Bộ đến năm 2025 .......... 112
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của
uỷ ban kiểm tra huyện ủy ở miền Đông Nam Bộ đến năm 2025 .......... 122
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔN
TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔN
BỐ LI N QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN .............................................................................................. 151
T I LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 152
PHỤ LỤC
............................................................................................................... 162
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
- Ban chấp hành
BCH
- Ban thường vụ
BTV
- Đông Nam Bộ
ĐNB
- Giám sát
GS
- Kiểm tra
KT
- Mặt trận Tổ quốc
MTTQ
- Thi hành kỷ luật
THKL
- Uỷ ban kiểm tra
UBKT
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Diện tích và dân số miền Đông Nam Bộ
35
Bảng 2.2. Tổng hợp cơ sở đảng của các huyện ở miền Đông Nam Bộ
41
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã rất quan tâm đến công tác kiểm tra (KT), giám
sát (GS), giữ gìn kỷ luật đảng và xác định đó là một chức năng lãnh đạo, là nguyên tắc, là
một khâu có vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo
mà không KT,GS thì coi như không lãnh đạo. Công tác KT,GS đã góp phần quan trọng
vào việc thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng; đóng góp
tích cực vào việc xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng chính trị và tổ chức, làm cho
Đảng ta thực hiện tốt vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng mà nhân dân giao phó.
Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã được các ngành, các cấp từ
Trung ương đến địa phương thực hiện một cách rất kiên trì và đầy quyết tâm. Bên
cạnh những kết quả đáng khích lệ thì vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập như Văn kiện
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành (BCH) Trung ương khóa XI đã đề ra:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tùy tiện, vô nguyên tắc… [37, tr.22].
Dù trong thực tiễn, Đảng ta đã có nhiều cố gắng đề ra các giải pháp để khắc
phục những hạn chế nêu trên, nhưng vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm mà Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra như:
Chất lượng, hiệu quả công tác KT,GS và xử lý tổ chức đảng và đảng
viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai
phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử
lý, hoặc xử lý kéo dài,..[39, tr.195].
Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng phát triển rất năng động, sáng tạo trong công
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Vị trí địa lý của ĐNB rất thuận lợi cho
giao lưu kinh tế với Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Duyên hải miền
Trung và với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đây là khu vực kinh tế phát
2
triển nhất Việt Nam, đóng góp hơn 2/3 thu ngân sách hằng năm, có tỷ lệ đô thị hóa
50%. Đông Nam Bộ là vùng đông dân cư, nguồn lao động dồi dào, lành nghề và
năng động trong nền kinh tế thị trường. Tính đến tháng 12/2014, dân số vùng ĐNB
là 14.780.700 người, chiếm 16,42% dân số Việt Nam [2], là vùng có tốc độ tăng
dân số cao nhất nước, do thu hút nhiều dân nhập cư từ các vùng khác đến sinh sống.
Trong những năm qua, các đảng bộ tỉnh, thành miền ĐNB đã nỗ lực phấn
đấu khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, quốc phòng tiếp tục được củng cố, hệ thống chính trị được
chú trọng và đã đạt được nhiều kết quả toàn diện. Những kết quả đó có được là do
nhiều nguyên nhân tạo thành, trong đó, một trong những nguyên nhân được các
tỉnh, thành uỷ xác định là đã tập trung làm tốt công tác KT ở tất cả các khâu trong
quá trình lãnh đạo. Các uỷ ban kiểm tra (UBKT) huyện uỷ đã thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ KT theo Điều lệ Đảng quy định và thường xuyên tham mưu cho
cấp uỷ các kế hoạch KT tại địa phương, đơn vị. Công tác KT có tác dụng quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên; ngăn ngừa, phát hiện các khuyết điểm, sai phạm và
kịp thời xử lý những đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, nhằm giữ vững kỷ luật, kỷ
cương của Đảng. Đồng thời, giúp tổ chức đảng quản lý đảng viên thấy rõ vai trò,
trách nhiệm trong việc quản lý, giáo dục và KT đảng viên. Đây là vấn đề quan
trọng, cấp thiết của Đảng ta hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến và kết quả đạt được, công tác KT của
các UBKT huyện ủy trên địa bàn vẫn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém như: Do
tính chất chỉ đạo của huyện uỷ khá trực tiếp, sâu sát, song vẫn còn một số cấp uỷ,
ban thường vụ (BTV), thường trực huyện uỷ do bận nhiều việc nên ít quan tâm
đến công tác KT của cấp uỷ, tình trạng “khoán trắng” cho UBKT thực hiện công
tác KT vẫn còn tồn tại; biên chế cán bộ UBKT huyện uỷ lại không nhiều, cán bộ
kiểm tra chưa được đào tạo cơ bản, trình độ, năng lực có những hạn chế, trong
khi đó nội dung, công việc KT rất nặng nề mà cán bộ KT một số nơi lại lúng
túng, bị động cả về nhận thức và tổ chức thực hiện dẫn đến nhiều cuộc KTchất
lượng không cao, nhiều sai phạm chưa được phát hiện kịp thời,..; một số địa
phương chưa quan tâm đầu tư và thực hiện tốt các văn bản như quy chế phối
hợp, quy định cụ thể về phương pháp, quy trình, thủ tục,.. về công tác KT.
3
Sự bất cập và yếu kém trên của các UBKT huyện ủy, ít nhiều đã làm hạn chế
chất lượng KT đảng viên, nhất là chưa đẩy lùi được tình trạng quan liêu, tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Trong khi đó, vùng ĐNB là khu vực kinh tế rất sôi động, mâu thuẫn lợi
ích chắc chắn sẽ gia tăng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế,..Thực trạng này nếu không có giải pháp hữu hiệu thì sẽ làm suy
giảm niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, ảnh hưởng rất
lớn đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ huyện ở miền ĐNB nói
riêng và đối với uy tín của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay nói chung.
Vì vậy, với phạm vi nhất định, việc nghiên cứu đề tài “Chất lượng công tác
kiểm tra của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở miền Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay"
có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng công tác
KT của các UBKT huyện ủy ở miền ĐNB giai đoạn hiện nay, luận án đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác KT của UBKT
huyện ủy ở miền ĐNB đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ
Tổng quan các công trình khoa học trong nước và ngoài nước có liên quan đến
đề tài luận án.
Làm rõ những vấn đề lý luận về chất lượng công tác KT của UBKT huyện ủy
ở miền ĐNB giai đoạn hiện nay.
Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác KT của UBKT huyện
ủy ở miền ĐNB từ 2010 đến năm 2015, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nêu
nguyên nhân và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
công tác KT của UBKT huyện ủy ở miền ĐNB đến năm 2025.
3. Đ i tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về chất lượng công tác KT của UBKT huyện ủy ở miền ĐNB giai
đoạn hiện nay.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng công tác KT của 40 UBKT huyện
ủy ở các tỉnh, thành miền ĐNB, gồm 6 tỉnh, thành: Tây Ninh, Bình Phước, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh.
Thời gian khảo sát thực tiễn từ năm 2010 đến năm 2015. Phương hướng và
giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra của Đảng.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của đề tài là những tổng kết của Đảng ta, các báo cáo sơ kết,
tổng kết về công tác kiểm tra của các tỉnh, thành uỷ và các huyện uỷ ở miền ĐNB.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin và các phương pháp: phân tích, tổng hợp, lôgíc kết hợp với lịch sử, điều tra
xã hội học, tổng kết thực tiễn, thống kê, chuyên gia….
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án đã luận giải làm sâu sắc hơn lý luận về công tác KT, chất lượng công tác
KT của Đảng nói chung, của UBKT huyện uỷ ở miền ĐNB nói riêng.
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác KT của UBKT huyện
uỷ ở miền ĐNB đã xác định rõ những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng
công tác KT của UBKT huyện uỷ ở miền ĐNB hiện nay và trong những năm tới.
Đã đề xuất được hai nội dung, biện pháp đặc thù có tính khả thi như: Một là,
tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp KT; thực hiện nghiêm các
nguyên tắc, quy trình KT và thi hành kỷ luật trong Đảng; Hai là, kiện toàn tổ chức
bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ KT hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của của luận án góp phần tổng kết thực tiễn, cung cấp
những luận cứ khoa học cho các huyện uỷ ở miền ĐNB nghiên cứu, tham khảo để
xác định các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác KT của UBKT huyện ủy
ở miền ĐNB.
5
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Xây dựng Đảng ở các Trung
tâm bồi dưỡng chính trị huyện, trường chính trị các tỉnh, thành ở miền ĐNB.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔN
QUAN TÌNH HÌNH N HI N CỨU
LI N QUAN ĐẾN ĐỀ T I
1.1. CÁC CÔN
TRÌNH N HI N CỨU Ở TRON
NƢỚC
Trong những năm qua, vấn đề công tác KT, GS đã được các cấp ủy, UBKT
các cấp và nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên
cứu, trao đổi. Trên các sách, báo, tạp chí, đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ đã có nhiều tác giả viết về vấn đề này.
1.1.1. Sách và các đề tài khoa học
Nguyễn Thị Doan, Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật nhằm nâng cao sức
chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới [17]. Cuốn sách gồm 4
chương, theo tác giả: KT là một tất yếu khách quan; KT và giữ gìn kỷ luật của
Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Cấp uỷ các cấp phải nắm vững quan điểm KT là
một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ
công tác xây dựng đảng. Cần nhận thức thống nhất và xuyên suốt là: Việc KT chấp
hành và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng là
nhiệm vụ thường xuyên, trực tiếp và trọng tâm của UBKT các cấp.
Uỷ ban KT các cấp phải nắm vững nhiệm vụ của UBKT để thực hiện đứng
chức năng và phạm vi trách nhiệm của mình. Công tác KT của Đảng cũng như của
UBKT các cấp phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng và
nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công tác đó. Sự lãnh đạo, chỉ đạo
thường xuyên của cấp uỷ đảng đối với công tác KT và UBKT phải nghiêm chỉnh
chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo đó. Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp cơ bản
có tính nguyên tắc của công tác KT. Luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ KT có
đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu công tác KT.
Nắm vững tư tưởng chỉ đạo của công tác KT là “chủ động, chiến đấu, giáo
dục, hiệu quả”; phương châm thi hành kỷ luật (THKL) đảng là “công minh, chính
xác, kịp thời” và triển khai thực hiện tốt vào hoạt động thực tiễn.
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền thì việc tăng cường KT từ dưới
lên, mà nội dung bao hàm cả vấn đề nhân dân giám sát tổ chức và đảng viên có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong tình trạng tham nhũng không giảm, ngày càng phổ
7
biến với mức độ ngày càng nghiêm trọng như hiện nay, cần phân định rành mạch
giữa nội dung, đối tượng KT của Đảng với nội dung, đối tượng KT, điều tra của các
cơ quan bảo vệ pháp luật. Giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa khen thưởng
và THKL trong Đảng. Khi KT kết luận được tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đến
mức phải xử lý kỷ luật thì phải kỷ luật; phát hiện được những nhân tố mới tích cực,
có thành tích phải biểu dương, khen thưởng. Đây cũng là một đặc trưng của công tác
KT đảng: không chỉ phát hiện vi phạm để ngăn ngừa mà còn phát hiện nhân tố mới,
tích cực, biểu dương, khen thưởng để nhân rộng, tạo nên phong trào thi đua mới.
Qua công trình trên cho thấy, một trong những nội dung rất quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng công tác KT của UBKT các cấp là phải đặc biệt quan tâm
đến đội ngũ cán bộ KT của UBKT và cơ quan UBKT. Song song đó, trong lúc tiến
hành KT, phải luôn nắm vững tư tưởng chỉ đạo, phương châm THKL đảng, phân
định rõ giữa KT của Đảng với thanh tra của Nhà nước; đồng thời hết sức chú ý đến
việc thưởng, phạt kịp thời, đúng người, đúng việc. Đây là những vấn đề tác giả sẽ kế
thừa và tiếp tục nghiên cứu để đưa vào luận án trong phần các giải pháp.
Lê Văn Giảng, Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giám sát của Uỷ
ban Kiểm tra các cấp [42]. Tác giả đã đưa ra khái niệm, đặc trưng, vị trí, vai trò
của công tác giám sát. Qua phân tích thực trạng, tác giả đã đề ra 10 giải pháp để
nâng cao chất lượng công tác giám sát của UBKT các cấp. Tại giải pháp thứ ba,
tác giả đề nghị UBKT phải chủ động tham mưu giúp cấp uỷ ban hành các văn bản
về công tác KT,GS, kỷ luật đảng theo thẩm quyền để có cơ sở pháp lý thực hiện
nhiệm vụ tại đơn vị mình. Theo đó, UBKT các cấp tham mưu giúp cấp uỷ cấp
mình ban hành và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc quy chế phối hợp giữa UBKT với
các tổ chức đảng trong các cơ quan Mặt trận Tổ quốc các cấp trong việc trao đổi,
cung cấp thông tin về cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng để phục vụ công tác KT,GS
của UBKT các cấp có hiệu quả. Ở giải pháp thứ tư, UBKT phải xác định rõ phạm
vi, chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp, thẩm quyền, trách nhiệm
giám sát của mình. Trong giải pháp năm, UBKT phải căn cứ vào phương hướng,
nhiệm vụ của cấp trên và tình hình thực tế của địa phương để chủ động xây dựng
phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cho phù hợp và tổ chức phối
hợp thực hiện có hiệu quả. Tại giải pháp thứ bảy, UBKT phải nắm vững tâm lý
của chủ thể giám sát và đối tượng giám sát để vận dụng thực hiện tốt nhiệm vụ
theo chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
8
Đây là một trong những công trình có nhiều điểm tương đồng với luận án mà
tác giả đang nghiên cứu. Các giải pháp mà công trình này đề ra có những nội dung
làm nền tảng giúp cho tác giả nghiên cứu kỹ và chọn lọc cho phù hợp với đặc thù
phạm vi mà luận án đang nghiên cứu.
Đặng Đình Phú, Trần Duy Hưng, Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn
hiện nay [75]. Trên cơ sở khái quát có hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
những vấn đề lý luận về giám sát và xác định phạm vi, đối tượng giám sát trong
Đảng. Khẳng định giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng,
không có giám sát thì sẽ không có lãnh đạo. Mục đích giám sát trong Đảng để chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, phát hiện và
khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha, bảo đảm kiên định về
chính trị, vững vàng về đường lối, trong sạch trong nội bộ Đảng và của từng đảng
viên. Trên cơ sở thực tiễn đánh giá thực trạng, vạch rõ nguyên nhân, rút ra bài học
kinh nghiệm về công tác giám sát trong Đảng thời gian qua, trên cơ sở đó đề ra
phương hướng, những giải pháp chủ yếu tăng cường giám sát trong Đảng.
Lê Hồng Liêm, Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, trở ngại của Uỷ ban Kiểm
tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm [55]. Tác giả
đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nhiệm vụ KT tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của UBKT các cấp, đồng thời cũng đã nêu lên
được những khó khăn, trở ngại khi thực hiện nhiệm vụ KT tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên có dấu hiệu vi phạm của UBKT các cấp. Trong 7 bài học kinh
nghiệm mà các tác giả đã rút ra thì có đến 04 bài học kinh nghiệm liên quan đến
UBKT như sau: Một là, UBKT phải chủ động thực hiện nhiệm vụ KT tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. UBKT cấp trên thường
xuyên quan tâm, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ UBKT cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ KT tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm. Hai là, UBKT các cấp phải chủ động làm tốt công tác tư tưởng đối với đối
tượng KT, vừa nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình, coi trọng công tác thẩm
tra, xác minh để việc KT tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm đạt chất lượng, hiệu quả. Ba là, UBKT phải chủ động thực hiện tốt công tác
giám sát, phục vụ đắc lực cho KT khi có dấu hiệu vi phạm. Bốn là, UBKT phải
9
đổi mới phương pháp công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm
này; cán bộ KT phải cải tiến, đổi mới phong cách, lề lối làm việc theo hướng bám
sát cơ sở, nắm chắc tình hình,… Năm là, tăng cường đủ cán bộ, đảm bảo chất
lượng; chú trọng tiếp nhận cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi ở các lĩnh vực;
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu để cán bộ KT có nhận thức
đúng, đầy đủ và nắm vững nguyên tắc, phương pháp, quy trình nghiệp vụ, kỹ năng
thực hành, thực hiện nhiệm vụ KT tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm đúng quy định, đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Lê Hồng Liêm, Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham
nhũng ở nước ta hiện nay [56]. Trong phần II của chương I, tác giả trình bày về vị
trí, vai trò, tác dụng của tác KT, GS của Đảng đối với việc phòng, chống tham
nhũng và khẳng định đây là công tác có vị trí, vai trò quan trọng trong phòng,
chống tham nhũng. Đồng thời, đây cũng là “một trong những phương thức phát
hiện nhanh và hiệu quả các vụ tham nhũng. Thông qua công tác giám sát có thể
phát hiện được các dấu hiệu tham nhũng để tiến hành KT, kết luận và xử lý” [56,
tr.35]. Tại phần III, IV tác giả trình bày khá cụ thể về mối quan hệ giữa công tác
KT,GS với phòng, chống tham nhũng, đồng thời cũng đưa ra các nhân tố ảnh
hưởng đến công tác KT,GS của Đảng đối với việc phòng, chống tham nhũng.
Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng chịu sự KT,GS của
Đảng. Luật pháp, chính sách của Nhà nước là sự cụ thể hoá Cương lĩnh,
đường lối của Đảng, do đó, cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, các
quy định của các đoàn thể chính trị - xã hội cũng là vi phạm kỷ luật của
Đảng. Vì vậy, KT,GS của Đảng góp phần phòng, chống tham nhũng có
hiệu quả [56, tr.39].
Trong chương III, sau khi dự báo tình hình, đề ra mục tiêu và những yêu cầu
về đổi mới, tăng cường công tác KT,GS phòng, chống tham nhũng. Tác giả đề ra
3 nhóm giải pháp lớn, đặc biệt tại nhóm giải pháp thứ ba về tổ chức bộ máy, cán
bộ và phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tác giả đề nghị phải:
Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan UBKT và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác KT,GS, kể cả nghiệp vụ đấu tranh
phòng, chống tham nhũng. Đồng thời cũng phải: “Tăng cường KT,GS đối với
UBKT trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao để ngăn ngừa tham nhũng. Kiên
10
quyết xử lý cán bộ kiểm tra kém phẩm chất, có sai phạm, làm cho hệ thống
ngành Kiểm tra thật sự mẫu mực, trong sạch, vững mạnh” [56, tr.202].
Qua hai công trình của tác giả Lê Hồng Liêm nêu trên cho thấy: dù nội dung đi
vào những vấn đề rất cụ thể nhưng có rất nhiều điểm, nội dung thiết thực giúp cho
tác giải luận án tham khảo từ đó chắt lọc, bổ sung thêm những vấn đề chưa đề cập
vào luận án một cách hợp lý trong quá trình nghiên cứu thực tế tại miền ĐNB.
Cao Văn Thống, Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật Đảng [84]. Các tác giả đã trình bày một cách tổng quát và khá đầy đủ về công
tác KT,GS và kỷ luật của Đảng ta. Cuốn sách gồm 9 chương và sắp xếp thành bốn
phần cơ bản: phần thứ nhất trình bày về cơ sở lý luận và nguyên lý chung về công
tác KT, GS và kỷ luật đảng; phần thứ hai xoay quanh các phương pháp cơ bản
trong công tác KT, GS và kỷ luật đảng; phần thứ ba trình bày một số nội dung về
công tác KT, GS và kỷ luật đảng và phần thứ tư nêu ra một số văn bản của Đảng
về công tác KT, GS và kỷ luật đảng. Ở chương 4, phần V trình bày về chất lượng
và hiệu quả của công tác KT, GS, kỷ luật đảng. Theo các tác giả, chất lượng công
tác KT,GS, kỷ luật đảng được thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
Đầu tiên là qua chất lượng đội ngũ cán bộ KT. Họ phải có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng và năng lực tham mưu và giải
quyết vấn đề, hết lòng phục vụ Đảng và nhân dân. Hai là, hoạt động có chương
trình, kế hoạch, có nền nếp, thành chế độ. Ba là, hoạt động công tác KT,GS,
THKL đảng phải tiến hành toàn diện trên các mặt công tác KT, GS, ở tất cả các
cấp trong Đảng. Bốn là, phải đảm bảo bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị, công
tác xây dựng Đảng, đúng trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ, tình hình thực
tế của toàn Đảng, phù hợp với đặc điểm từng địa phương, đơn vị. Năm là, tiến
hành giải quyết tốt các mặt công tác KT,GS, THKL đảng do yêu cầu thực tiễn đặt
ra; tiến hành với số lượng phù hợp với các vụ việc phát sinh, tương xứng với thực
trạng khuyết điểm, vi phạm kỷ luật, tình hình tố cáo, khiếu nại kỷ luật trong Đảng.
Sáu là, thực hiện hoàn thành, toàn diện các mặt công tác KT,GS, kỷ luật đảng với
chất lượng cao. Bảy là, định kỳ có sơ, tổng kết rút kinh nghiệm. Tám là, các điều
kiện, phương tiện phục vụ cho công tác KT,GS phải đầy đủ, đồng bộ và có chất
lượng. Chín là, kết quả công tác KT,GS, THKL đảng phải có tác dụng tích cực
trong việc tạo chuyển biến tình hình, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị và
11
công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ. Đóng góp kinh nghiệm vào các mặt công
tác xây dựng Đảng.
Nội dung các tiêu chí nêu trên chính là những gợi mở rất hữu ích giúp cho tác giả
tham khảo để xây dựng hệ thống tiêu chí của luận án trong quá trình nghiên cứu.
Cao Văn Thống, Nâng cao chất lượng công tác tham mưu của Uỷ ban Kiểm
tra trong tình hình hiện nay [87]. Trong chương II, phần một số kinh nghiệm, các
tác giả khẳng định: UBKT các cấp phải nhận thức đúng vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của mình và thực hiện nhiệm vụ KT,GS, kỷ luật đảng theo quy định của
Điều lệ Đảng, thực hiện chức năng tham mưu, giúp cấp uỷ và nhiệm vụ cấp uỷ
giao. Song song đó, phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan KT,GS trong việc
giúp UBKT tham mưu giúp cấp uỷ thực hiện tốt việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện công tác KT,GS, kỷ luật đảng, vừa thực hiện đầy đủ, đồng bộ, toàn diện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBKT để công tác KT,GS của Đảng nhanh chóng
đi vào cuộc sống. Qua nghiên cứu nội dung này, tác giải có thể chắt lọc và kế thừa
một số nội dung để đưa vào giải pháp của luận án.
Đỗ Hùng Cường, Ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm về tố cáo và giải quyết tố
cáo trong Đảng [14]. Ở chương II: về thực trạng biểu hiện sai phạm về tố cáo và
giải quyết tố cáo trong Đảng, tại nội dung thứ ba trong phần khái quát thực trạng
nhận thức về tố cáo và giải quyết tố cáo, tác giả đã chỉ ra các hình thức biểu hiện
sai phạm về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Đảng. Và những biểu hiện sai phạm
về giải quyết tố cáo trong Đảng gồm: trả thù, trù dập người tố cáo; dìm bỏ đơn tố
cáo; đùn đẩy, chuyển đơn tố cáo lòng vòng; tiết lộ tên, địa chỉ, bút tích người tố
cáo; tiết lộ nội dung tố cáo, nội dung làm việc hoặc tài liệu, thông tin liên quan
đến việc tố cáo và giải quyết tố cáo cho tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm
biết; tìm cách vận động hoặc yêu cầu người tố cáo rút đơn tố cáo không đúng quy
định; sai phạm trong thẩm tra, xác minh để giải quyết tố cáo; nhận là chủ trương,
nghị quyết của tập thể để xoá tội cho người bị tố cáo; chuyển nội dung đơn tố cáo
có tên sang KT khi có dấu hiệu vi phạm; kết thúc đơn tố cáo sau khi sơ bộ nắm
tình hình và xuất hiện “lợi ích nhóm” trong giải quyết tố cáo.
Ở chương IV, phần giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm về tố cáo và giải
quyết tố cáo trong Đảng. Trong nội dung c của mục 2.1. Nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của người tố cáo, người bị tố cáo, trách nhiệm giải quyết tố cáo của tổ chức đảng
12
có thẩm quyền. Tác giả đề nghị lưu ý 5 nội dung, trong đó có 3 nội dung liên quan trực
tiếp đến UBKT các cấp: Một là, cấp uỷ, UBKT các cấp phải nhận thức tố cáo và giải
quyết tố cáo có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là trách nhiệm của
cấp uỷ, BTV vụ cấp uỷ và UBKT các cấp. Hai là, cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT giải
quyết tố cáo phải biết lắng nghe người bị tố cáo giải trình, tránh áp đặt. Ba là, nâng cao
trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng trong việc giải quyết tố cáo, cần nâng cáo trách
nhiệm tiếp đảng viên và công dân của cấp uỷ, tổ chức đảng và UBKT các cấp.
Nguyễn Anh Liên, Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng [57]. Đề tài đã làm rõ các khái
niệm, nhất là khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác KT của Đảng. Từ đó đề
xuất các giải pháp, quy trình để nâng cao chất lượng thẩm tra, xác minh trong công
tác KT của Đảng. Nội dung của các công trình này tuy bàn về một vấn đề cụ thể,
nhưng giúp tác giả luận án tham khảo, để nâng cao chất lượng luận án.
Phạm Thị Ngạn, Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công tác kiểm tra, giám
sát và kỷ luật đảng [64], đã phân tích cụ thể hệ thống kỹ năng nghiệp vụ KT, bao
gồm: các kỹ năng chung của công tác KT, kỷ luật đảng và các kỹ năng thực hiện
nhiệm vụ KT theo quy định tại Điều 32 Điều lệ Đảng. Trong các kỹ năng chung có:
Kỹ năng giao tiếp; kỹ năng vận động, thuyết phục và cảm hóa con người; kỹ năng
phối hợp nhóm; kỹ năng thu thập và xử lý thông tin; …
Tô Quang Thu, Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán
bộ kiểm tra trong giai đoạn mới [91], đã đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao kỹ
năng nghiệp vụ cho cán bộ KT, trong đó có kỹ năng thẩm tra, xác minh, qua việc đào
tạo, bồi dưỡng và tự đào tạo, bồi dưỡng (về nghiệp vụ) và việc rèn luyện trong thực
tiễn (trong quá trình giải quyết vụ việc của các đoàn kiểm tra; rèn luyện phương pháp
tư duy, phương pháp làm việc khoa học; tổng kết kinh nghiệm,…).
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công
tác kiểm tra tài sản đảng hiện nay [105]. Từ thực trạng công tác KT tài sản đảng từ
Đại hội IX đến năm 2013, đề tài đã đưa ra 06 giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả công tác KT tài chính đảng, KT tài sản đảng trong thời gian tới (2020). Trong đó
lưu ý vấn đề quan trọng nhất là phải nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp uỷ đảng, của
lãnh đạo UBKT các cấp. Đồng thời phải tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng ý
thức phục vụ Nhân dân, hạn chế tối đa những yếu tố làm nảy sinh chủ nghĩa cá nhân.
13
Đặng Đình Phú, Công tác kiểm tra, giám sát của Thành uỷ Hà Nội trong
phòng, chống tham nhũng hiện nay [74], qua khảo sát thực tế tại địa phương, đề tài
đã đề xuất 06 giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác KT,GS của
Thành ủy Hà Nội trong phòng chống tham nhũng. Đề tài nhận định: cần phải đổi
mới, kiện toàn cơ quan phòng, chống tham nhũng đủ mạnh để hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả. Để làm được điều đó cần hợp nhất cơ quan UBKT của Đảng,
Thanh tra Chính phủ và Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng cùng cấp thành
một. Đồng thời, xây dựng cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt động theo đúng các
yêu cầu đã đặt ra nhằm tăng cường vị thế, chức năng, nhiệm vụ nâng cao chất
lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác KT,GS, thanh tra phòng, chống tham nhũng.
Dù phạm vi đề tài chỉ tập trung vào công tác KT,GS trong lĩnh vực phòng, chống
tham nhũng, nhưng đây cũng là nguồn tư liệu tham khảo rất hữu dụng cho nội
dung luận án mà tác giả đang nghiên cứu.
Nguyễn Văn Hội, Nâng cao hiệu quả công tác giám sát chuyên đề của Ủy ban
Kiểm tra Trung ương [50], đề tài đề xuất 05 nhóm giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu
quả giám sát chuyên đề của UBKT Trung ương. Tác giả đề tài đã nhận định: Giám
sát chuyên đề là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, nó góp phần tích cực
vào việc phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời những khuyết điểm, vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên. Vì thực tiễn đã chỉ ra, trong quá trình hoạt động, các tổ chức
đảng và đảng viên, đặc biệt là những đảng viên có chức vụ, quyền hạn không thể
tránh khỏi những sai sót có thể xảy ra, thì việc giám sát và giám sát chuyên đề như
là một “đèn tín hiệu” cảnh báo để tổ chức đảng và đảng viên kịp thời dừng lại, phải
thay đổi, phải chỉnh sửa trước khi quá muộn. Như vậy, qua đề tài trên cho thấy:
ngoài những giải pháp về nâng cao nhận thức các cấp ủy đảng, UBKT các cấp; công
tác tác cán bộ,… thì việc tổ chức tốt, có hiệu quả công tác giám sát chuyên đề của
UBKT các cấp cũng góp phần không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng công tác KT
của UBKT các cấp trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề cần phải lưu ý trong nội
dung đề ra các giải pháp của luận án đang nghiên cứu.
Nhận xét chung: Các đề tài trên đã hệ thống, khái quát các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về từng mặt của
công tác KT,GS. Đồng thời cũng đã đánh giá được thực trạng công tác KT, kỷ luật
của Đảng, nhất là KT, kỷ luật của Đảng ở một số địa phương, ngành, rút ra những
14
kinh nghiệm và đề xuất được giải pháp nâng cao chất lượng công tác KT, kỷ luật
của Đảng có giá trị trong giai đoạn hiện nay. Dù các đề tài không đề cập trực tiếp
đến chủ đề của luận án, nhưng qua những nội dung trên đã gợi mở rất nhiều vấn đề
giúp cho tác giả tiếp tục nghiên cứu để hoàn thành nhiệm vụ của luận án đề ra.
1.1.2. Luận án, luận văn
* Các luận án tiến sĩ
Đề tài về lĩnh vực KT,GS và THKL đảng là một trong những đề tài khó và ít
được chọn để thực hiện trong quá trình nghiên cứu của các nghiên cứu sinh. Qua
nghiên cứu và tổng hợp, theo tác giả được biết cho đến nay có rất ít luận án liên
quan đến nội dung trên. Cụ thể như sau:
Trương Thị Thông, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên
trách của Đảng trong tình hình hiện nay [89]. Ở chương 1, tác giả cho rằng một
trong những yêu cầu của tình hình mới là sự phát triển của xã hội đòi hỏi đội ngũ
cán bộ KT chuyên trách phải thực sự có năng lực, có phẩm chất, có bản lĩnh vững
vàng để phân biệt rõ cái đúng - cái sai, cái tiến bộ - cái lạc hậu…
Ở chương 2, khi đánh giá nguyên nhân khách quan của những khó khăn, trở
ngại về đội ngũ cán bộ KT chuyên trách, tác giả có đề cập đến việc hệ thống luật
pháp, nhiều chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước chưa theo kịp sự phát
triển của công cuộc đổi mới, chưa đồng bộ, thống nhất, thậm chí mâu thuẫn
nhau; chuẩn mực để phân biệt đúng - sai chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Cũng
trong chương này, tác giả đã chỉ ra 7 bài học kinh nghiệm qua thực tiễn hoạt
động của UBKT các cấp và của đội ngũ cán bộ KT chuyên trách trong những
năm qua, trong đó có kinh nghiệm thứ tư: Phải nắm vững và chấp hành đúng
phương pháp, quy trình công tác KT. Tác giả phân tích: Trong quá trình KT,
không được lẫn lộn và thay phương pháp KT của Đảng với phương pháp KT của
các cơ quan Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Vận dụng phương pháp KT
phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nội dung, đối tượng KT và tình hình cụ thể
của đơn vị đó, nhưng dù linh hoạt đến đâu công tác KT cũng phải dựa vào tổ
chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của đảng viên để làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh. Tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên càng yếu, đòi hỏi công tác
thẩm tra, xác minh phải tỉ mỉ và chính xác mới bảo đảm cho những đánh giá, kết
luận, xử lý có căn cứ xác đáng, khách quan và khoa học.
- Xem thêm -