Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn d...

Tài liệu Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn di sản quan họ tại tỉnh bắc ninh

.PDF
75
651
111

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HUY HOÀNG CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TỪ THỰC TIỄN DI SẢN QUAN HỌ TẠI TỈNH BẮC NINH Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ AN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Luận văn “Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn di sản Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh” là kết quả quá trình nghiên cứu của tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Trần Thị An – người hướng dẫn khoa học. Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Những số liệu, thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn, tác giả. Tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Tác giả luận văn Lê Huy Hoàng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ..........................................................................................7 1.1. Một số khái niệm ........................................................................................ 7 1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta ...................................................................................................................... 10 1.3. Những nhân tố tác động đến chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh ................................................................... 19 Chương 2: Thực trạng chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản Quan họ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh............................................................25 2.1. Giới thiệu về tỉnh Bắc Ninh và di sản dân ca Quan họ ............................ 25 2.2. Các chính sách của tỉnh Bắc Ninh về bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca Quan họ giai đoạn trước năm 2009 ..................................................... 29 2.3. Các giải pháp của tỉnh Bắc Ninh để thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca Quan họ giai đoạn 2009 đến 2015 ........................... 35 2.4. Đánh giá về các chính sách và việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh ....................................... 43 Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh...............................................51 3.1. Sự cần thiết, mục tiêu hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh ......................................................... 51 3.2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca Quan họ ................................................................................................ 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64 PHỤ LỤC .......................................................................................................68 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT HĐND Hội đồng nhân dân Nxb Nhà xuất bản PGS Phó Giáo sư TS Tiến Sỹ TW Trung ương UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural Organization Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Là phương diện tồn tại và tự biểu hiện của một quốc gia, văn hóa là một phương diện quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Không những thế, cùng với tài nguyên, con người và các nguồn lực khác, văn hóa là một nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển. Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đã khẳng định vai trò của văn hóa đối với phát triển, cũng như chỉ ra những nhiệm vụ phát triển của văn hóa. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc quan tâm tới công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của các dân tộc ngày càng trở nên quan trọng. Di sản văn hóa chính là sự kết tinh trí tuệ, truyền thống của dân tộc Việt Nam. Các giá trị di sản văn hóa được hình thành tạo nên một môi trường văn hóa lành mạnh, mang ý nghĩa to lớn đối với việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Dân ca quan họ Bắc Ninh là một loại hình diễn xướng dân ca gắn bó với đời sống tinh thần của người dân Kinh Bắc, được truyền từ đời này qua đời khác, trở thành tài sản văn hóa của người Kinh Bắc. Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận dân ca quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Việc di sản dân ca quan họ Bắc Ninh được vinh danh đã khơi dậy niềm tự hào về vốn văn hóa do cha ông trao truyền, giúp cho cộng đồng và các cấp chính quyền nhận thức sâu sắc hơn giá trị của dân ca quan họ Bắc Ninh và nhiệm vụ giữ gìn di sản văn hóa nói chung. Thực hiện cam kết với UNESCO, Chính phủ Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã tích cực chỉ đạo, triển khai các biện pháp, kế hoạch cụ 1 thể để bảo tồn bền vững di sản. Trên đà phát triển của quê hương, đất nước nhiều câu lạc bộ quan họ mới đuợc thành lập, quan họ đuợc quảng bá nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều đoàn quan họ đuợc mời đi biểu diễn tại các địa phương trong cả nước. Vì thế, dân ca quan họ ngày càng được lan tỏa trong nước và trên thế giới. Mặc dù vậy, tốc độ đô thị hóa, sự phát triển của các phương tiện giao thông, nghe nhìn, công nghệ thông tin, các loại hình nghệ thuật khác đã tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại của quan họ nói riêng và di sản văn hóa phi vật thể nói chung. Tuy nhiên, việc xây dựng một chính sách tổng thể về bảo tồn, phát huy giá trị di sản dân ca quan họ Bắc Ninh vẫn còn gặp nhiều rào cản trong việc nâng cao tính phổ biến và nhận thức của cộng đồng có liên quan về tầm quan trọng của di sản. Từ thực tế trên, tôi chọn đề tài “Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn di sản Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành Chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã được quan tâm thực hiện trong đời sống và trong các công trình nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu về vấn đề này như sau: Công trình nghiên cứu về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể Trong cuốn Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hoá dân tộc (1997), trên cơ sở những quan niệm về di sản văn hóa của quốc tế và Việt Nam, tác giả Hoàng Vinh đã đưa ra một hệ thống lý luận về di sản văn hóa, đồng thời bước đầu vận dụng nghiên cứu di sản văn hóa ở nước ta. Năm 2005, công trình Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam được công bố. Tập sách đã tập hợp các bài viết của nhiều tác giả 2 tham gia đã đưa ra những vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức tổng quát của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở nuớc ta. Năm 2007, trong cuốn sách Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể do Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch phát hành, tác giả Ngô Đức Thịnh đã bàn đến vấn đề văn hoá phi vật thể, trong đó đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy, chỉ ra được các đặc trưng của văn hóa phi vật thể và việc sưu tầm, bảo tồn. Năm 2010, tác giả Lê Thị Minh Lý đã có bài viết Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Quá trình nhận thức và bài học thực tiễn đưa ra một số bài học cũng như góc nhìn khác về nhận thức và ứng xử đối với di sản văn hóa. Trong bài viết Một số khuyến nghị về công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam, Nguyễn Đức Tăng và Dương Bích Hạnh đã bàn đến một số vấn đề bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Những công trình nghiên cứu về quan họ: Năm 2006, Bộ Văn hóa Thông tin và Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội thảo “Không gian văn hóa quan họ Bắc Ninh, bảo tồn và phát huy”, Đây là một nguồn tài liệu quan trọng, xem xét, đánh giá mọi khía cạnh của dân ca quan họ một cách toàn diện nhất. Cũng trong năm 2006, trên Tạp Di sản văn hóa số 3, Nguyễn Quốc Hùng có bài viết Bảo tồn dân ca quan họ Bắc Ninh – Từ vật thể đến phi vật thể. Bài viết đã nêu lên một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản quan họ. Năm 2015, luận án tiến sỹ của Đinh Thị Thanh Huyền, Tục chơi quan họ (xứ Kinh Bắc) xưa và nay, đã đi sâu nghiên cứu tục chơi quan họ, góp quan trọng vào việc tìm hiểu giá trị di sản văn hóa độc đáo, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, hội nhập văn hóa và phát triển công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống. 3 Đề tài nghiên cứu Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn di sản Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa những nội dung, thành quả của các tài liệu liên quan trước đó để xây dựng hướng nghiên cứu phù hợp với tình hình của tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nói chung, luận văn sẽ nghiên cứu thực trạng ban hành chính sách và việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản quan họ tại tỉnh Bắc Ninh để từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di sản quan họ tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm sắp tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam. - Nghiên cứu thực trạng và công cụ chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản quan họ tại tỉnh Bắc Ninh. - Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản quan họ phù hợp với điều kiện thực tế tại tỉnh Bắc Ninh 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Dưới góc độ khoa học chính sách công, đề tài luận văn tập trung nghiên cứu việc ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4 - Phạm vi không gian: Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản quan họ tại tỉnh Bắc Ninh trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Thời gian nghiên cứu: từ năm 2009 (năm di sản dân ca dân ca quan họ Bắc Ninh được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại) đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng hai cách tiếp cận chính là phân tích chính sách công và văn hóa học. Sử dụng phương pháp phân tích chính sách công, tác giả phân tích chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Sử dụng cách tiếp cận văn hóa học, tác giả sẽ phân tích nét đặc thù của diễn xướng dân ca quan họ Bắc Ninh với tư cách là một hiện tượng văn hóa, trong đó, nghệ nhân, khán giả, nhà quản lý có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách văn hóa. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phân tích - tổng hợp tài liệu văn bản: Luận văn sẽ thu thập và phân tích các Văn kiện Đại hội, Nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa, về di sản văn hóa, về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nói chung và thực tế di sản quan họ tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng; - Phân tích tài liệu thứ cấp: Luận văn sẽ thu thập và phân tích các báo cáo thống kê có liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh; các công trình nghiên cứu, sưu tầm trong nước về di sản văn hóa phi vật thể, di sản quan họ liên quan đến đề tài trong thời gian qua. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận - Đề tài vận dụng các lý thuyết về chính sách công để đánh giá một chính sách cụ thể: chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong điều kiện thực tiễn tại địa phương. - Đề tài cung cấp những kết quả nghiên cứu, tư liệu liên quan đến chính sách công, từ đó đề xuất giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách đã ban hành. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ thực tiễn nghiên cứu chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản quan họ tại tỉnh Bắc Ninh, luận văn chỉ ra những bất cập trong việc xây dựng và thực thi chính sách. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ bổ sung các luận cứ khoa học và thực tiễn cho tỉnh Bắc Ninh trong cho công tác hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách bảo tồn, phát huy giá trị dân ca quan họ. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Chương 2: Thực trạng chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản Quan họ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm chính sách công Chính sách công là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong mấy thập niên gần đây. Dù có nhiều thể chế chính trị khác nhau nhưng khái niệm chính sách công được dùng tương đối thống nhất trên thế giới nhằm chỉ ý chí và quyết sách của nhà nước. Ở Việt Nam, quan niệm về Chính sách công cũng được nhiều học giả quan tâm, có thể kể một số định nghĩa như sau: “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [11]. "Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định" [15]. Tác giả Đỗ Phú Hải đã có định nghĩa về Chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và lựa chọn các giải pháp, các công cụ nhằm giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định [10]. Qua một số quan niệm trên, có thể thấy dù ở bất kỳ định nghĩa nào thì chính sách công vẫn là những chính sách do Nhà nước ban hành, Nhà nước chính là chủ thể xây dựng chính sách và các chính sách là công cụ để Nhà nước quản lý, đưa xã hội phát triển. 1.1.2. Khái niệm chính sách văn hóa Năm 2002, UNESCO đưa ra một định nghĩa về chính sách văn hóa như 7 sau: “Chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết định các thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa” [17, tr.19]. Qua định nghĩa trên ta thấy, chính sách văn hóa gồm các công cụ khác nhau như sau: Luật pháp và các phương pháp hành chính, ngân sách và hệ thống thuế, trong đó các bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật, cách thức đầu tư từ ngân sách, hệ thống thuế - đó là công cụ quan trọng nhất để điều hành sự phát triển văn hóa. Tại Việt Nam, chính sách văn hóa có thể định nghĩa như sau: “Chính sách văn hóa là một hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn của đời sống văn hóa theo những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội.” [17, tr.21]. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể là một bộ phận của chính sách văn hóa, gồm tập hợp các quyết định chính trị có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ giải quyết vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. - Di sản văn hóa phi vật thể Theo khoản 1 điều 2 mục I của Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO (2003) thì di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kĩ năng và kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ; được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng, các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ 8 qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hinh thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Là quốc gia thành viên thứ 22 tham gia Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể 2003 của UNESCO, Việt Nam cũng đã cụ thể hóa khái niệm di sản văn hóa phi vật thể trong bối cảnh Việt Nam. Khoản 1 Điều 4 Luật di sản văn hóa năm 2001 quy định: “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 thì cách hiểu về di sản văn hóa phi vật thể đã được khái quát là “sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”. Qua định nghĩa của UNESCO và quy định của Luật Di sản văn hóa có thể thấy có 4 phương diện của văn hóa phi vật thể được chú trọng: một là, định nghĩa các biểu hiện của văn hóa phi vật thể, hai là, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể (cá nhân, tập thể, cộng đồng), ba là, không gian diễn xướng của văn hóa phi vật thể, bốn là, phương thức lưu truyền của văn hóa phi vật thể (truyền miệng, truyền nghề, trình diễn, tái tạo). Có thể xác định các giá trị nổi bật của di sản văn hóa phi vật thể đó là: 9 giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật, giá trị bản sắc. Những giá trị ấy được coi là nội dung cốt lõi của việc bảo vệ di sản văn hóa. Bởi vì bảo vệ không chỉ vì sự hiện diện của một loại hình di sản trong hệ thống di sản văn hóa, mà bảo vệ để lưu giữ những giá trị mà nó đem đến cho cộng đồng. Giá trị ấy là động lực thúc đẩy mỗi quốc gia có những hành động tích cực bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể của mỗi một cộng đồng đều quan trọng đối với cộng đồng đó. Muốn di sản văn hóa phi vật thể được gìn giữ và phát huy một cách bền vững bởi chính cộng đồng và trong chính môi trường văn hóa mà di sản đang tồn tại cần xác định rằng di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với từng con nguời cụ thể. Sự tồn tại, kế thừa và duy trì di sản văn hóa phi vật thể luôn luôn đòi hỏi có con người. Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là kế thừa con người – chủ thể văn hóa, kế thừa văn hóa sống. 1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta 1.2.1. Quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta Chủ trương, quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước ta về chính sách văn hóa nói chung, chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nói riêng được thể hiện ở các loại hình văn bản sau: các văn kiện Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Hiến pháp, Luật Di sản văn hóa và một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác. 10 Trong các văn bản trên, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) được đánh giá là đã tạo nên một bước ngoặt trong nhận thức về vai trò của văn hóa, trong đó có văn hóa phi vật thể của dân tộc đối với phát triển. Nghị quyết đã khẳng định nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trong bối cảnh mới ở nước ta: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian) văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Trong các Nghị quyết tiếp theo, Đảng đã khẳng định các vị trí quan trọng của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, coi đó là nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển văn hoá. Các văn kiện đã xác định nhiệm vụ tập trung điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hoá và văn hoá phi vật thể; các loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn hoá dân gian của từng địa phương, từng vùng văn hoá, từng vùng dân tộc; nghề thủ công truyền thống, lễ hội tiêu biểu, kho tàng Hán Nôm. Đồng thời, các văn kiện cũng chỉ ra nhiệm vụ kết hợp hài hoà việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch bền vững. 1.2.2. Vấn đề của chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó có bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta đã được quan tâm, đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể được bảo tồn và phát huy giá trị không chỉ ở phạm vi trong nước mà còn được giới thiệu ra quốc tế. Trong hai thập niên vừa qua, Việt Nam đã có 11 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh 11 danh, công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Cụ thể là các di sản sau: 1) Nhã nhạc cung đình Huế, được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào tháng 11 năm 2003, đến năm 2008 đuợc công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. 2) Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào năm 2005, đến năm 2008 đuợc công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. 3) Dân ca Quan họ Bắc Ninh, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được công nhận vào ngày 30 tháng 9 năm 2009. 4) Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, được công nhận vào ngày 01 tháng 10 năm 2009. 5) Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc, Hà Nội được công nhận vào ngày 16 tháng 11 năm 2010. 6) Hát xoan là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, được công nhận vào ngày 24 tháng 11 năm 2011. 7) Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ được công nhận vào ngày 6 tháng 12 năm 2012. 8) Đờn ca tài tử Nam Bộ được công nhận vào ngày 5 tháng 12 năm 2013. 9) Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh được công nhận vào ngày 27 tháng 11 năm 2014. 10) Nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO được công nhận vào ngày 02 tháng 12 năm 2015. 11) Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được UNESCO được công nhận vào ngày 01 tháng 12 năm 2016. Từ khi được UNESCO vinh danh, các di sản văn hóa phi vật thể nói trên đã nhận được nhiều chính sách bảo tồn và phát triển ở nhiều khía cạnh: 12 tôn vinh nghệ nhân, phát triển các hình thức trao truyền, xây dựng các tổ chức mới gắn với bối cảnh đương đại...Những động thái này đã làm khởi sắc việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nói riêng, di sản văn hóa nói chung. Tuy nhiên, thực trạng chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể hiện nay vẫn còn khá nhiều bất cập, chưa theo kịp được sự phát triển của xã hội: - Trong nhiều năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin di sản văn hóa phi vật thể có hiện tượng mai một, thất truyền. Cả nước hiện có hàng nghìn di sản văn hóa phi vật thể được thống kê nhưng mới chỉ có 202 (đến tháng 01 năm 2017) di sản được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Việc sưu tầm, lưu giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của 54 dân tộc anh em chưa thực sự đồng bộ. Công cuộc tổng kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể chưa được tất cả các địa phương quan tâm đúng mức. - Chưa có chính sách thỏa đáng và ban hành kịp thời đối với các nghệ nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể. - Chưa xây dựng kế hoạch tổng thể, dài hạn về phổ biến, tuyên truyền về giá trị di sản văn hóa phi vật thể tới toàn thể người dân, xác định những thời gian cụ thể để hoàn thành mục tiêu phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể dẫn tới sự bị động của các cấp, các ngành. Thế hệ trẻ chưa được giáo dục đúng dẫn đến thiếu hiểu biết về giá trị di sản văn hóa phi vật thể với tương lai của chính mình. - Nhiều địa phương còn chưa giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, phát triển, dẫn đến việc không bảo tồn nguyên dạng, nguyên gốc di sản văn hóa phi vật thể. - Nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho văn hóa còn hạn hẹp, thiếu 13 cơ chế, chính sách phù hợp nhằm khuyến khích, huy động tối đa các nguồn lực xã hội hóa, các thành phần kinh tế tham gia vào việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. - Công tác quản lý nhà nước của chính quyền địa phương một số nơi còn hạn chế, chưa sâu sát, quyết liệt. - Tình trạng hoạt động của lễ hội còn tự phát, tràn lan, xuất hiện sự thương mại hóa rõ rệt. - Một số văn bản pháp luật về lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa còn chưa cập nhật phù hợp với tình hình thực tiễn dẫn đến những khó khăn trong công tác tổ chức thực hiện, quản lý của các địa phương. 1.2.3. Giải pháp và công cụ chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta Trong thời gian qua, các văn bản chính sách và các hoạt động thực tiễn đã đúc rút được một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Các giải pháp được sử dụng và vẫn tiếp tục thực thi gồm việc hoàn thiện thể chế chính sách, việc nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị di sản, việc tăng cường hoạt động xã hội hóa, việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và việc tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Thực tiễn công tác và các văn bản chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể cũng đã chỉ ra các công cụ chính sách cần sử dụng để thực hiện các giải pháp nêu trên. Các công cụ chính sách được chỉ ra gồm: công cụ quyền lực giám sát, công cụ tổ chức, công cụ tài chính và công cụ truyền thông. Các giải pháp và công cụ chính sách từ phương diện tổng thể là những cơ sở để luận văn khảo sát và đề xuất các giải pháp cụ thể cho việc bảo tồn và phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc Ninh. 14 1.2.4. Thể chế chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta Từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng, Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh Về việc bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện rõ sự quan tâm đối với sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng đã ghi rõ: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam…” Luật Di sản văn hóa lần đầu được ban hành tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X (năm 2001), được sửa đổi năm 2009 và các Thông tư, Nghị định đã thể hiện sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức và quyết tâm của nhà nước ta trên hành trình bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. đề cập đến vấn đề việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi thể từ trách nhiệm của nhà nước, các cơ quan nhà nước. Luật Di sản văn hóa đã xác định rõ: “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.” Từ khi được ban hành, Luật di sản văn hóa đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, phù hợp với yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Bên cạnh đó, các quyết định khác của Chính phủ cũng đã chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản phi vật thể. Cụ thể, ngày 24 tháng 2 15 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 36/2005/QĐ-TTg về việc lấy ngày 23 tháng 11 hàng năm là “Ngày Di sản văn hóa Việt Nam”. Đây là một trong những hành động thiết thực khẳng định, tôn vinh giá trị di sản văn hóa, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn xã hội trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa. Ngày 06 tháng 5 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 581/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược văn hóa đến năm 2020, trong đó, đã thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển văn hóa, trong đó xác lập những mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Ngoài ra, để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã kịp thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Luật Di sản văn hóa như Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2015 quy định xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể… 1.2.5. Chủ thể chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước thông qua các cơ quan như: Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền địa phương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Quá trình hoạch định, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta cho thấy chủ thể của chính sách này gồm có: Cấp Trung ương: Quốc hội, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Bộ, ngành có liên quan. Cấp tỉnh, thành phố: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Văn hóa và Thể thao; các Sở, ngành có liên quan. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan