Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách kinh tế của chính phủ malaysia ( đối với sự phát triển xã hội và giải...

Tài liệu Chính sách kinh tế của chính phủ malaysia ( đối với sự phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người) [tt]

.PDF
27
895
55

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN HOÀNG THỊ GIANG CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ MALAYSIA (ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TỘC NGƯỜI) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Châu Á học HÀ NỘI 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- HOÀNG THỊ GIANG CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ MALAYSIA (ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TỘC NGƯỜI) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học Mã số: 60 31 50 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS MAI NGỌC CHỪ Hà Nội 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3. Mục tiêu của luận văn 4. Nhiệm vụ 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Bố cục của luận văn CHƯƠNG 1 Tổng quan về Malaysia và các tộc người chính ở Malaysia 1.1 Đôi nét về đất nước, con người và lịch sử Malaysia 1.1.1 Đất nước 1.1.2 Con người và lịch sử Malaysia 1.2 Các tộc người chính ở Malaysia 1.2.1 Tộc người Malay 1.2.2 Tộc người Hoa 1.2.3 Tộc người Ấn 1.2.4 Các tộc người khác CHƯƠNG 2 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với sự phát triển xã hội 2.1 Cơ sở hoạch định các chính sách kinh tế 2.2 Chính sách kinh tế mới 2.2.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu của Chính sách kinh tế mới 2.2.2 Nội dung của Chính sách kinh tế mới 2.3 Chính sách phát triển Quốc gia 2.3.1 Nguyên nhân ra đời của Chính sách phát triển Quốc gia 2.3.2 Nội dung và mục tiêu của Chính sách phát triển Quốc gia 2.4 Các chính sách kinh tế đối với sự phát triển xã hội ở Malaysia 2.4.1 Tình hình Malaysia sau khi giành độc lập 2.4.2 Malaysia sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới và Chính sách phát triển Quốc gia CHƯƠNG 3 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với việc giải quyết mâu thuẫn tộc người 3.1 Khái quát về mâu thuẫn tộc người ở Malaysia 3.2 Tình hình kinh tế của ba tộc người chính ở Malaysia 3.2.1 Kinh tế của tộc người Malay 3.2.2 Kinh tế của tộc người Hoa 3.3.3 Kinh tế của tộc người Ấn 3.3 Những mâu thuẫn giữa các tộc người về vấn đề kinh tế 3.3.1 Những mâu thuẫn từ trước khi độc lập 3.3.2 Những mâu thuẫn từ sau ngày độc lập 3.4 Một số chủ trương, đường lối, biện pháp và thành tựu giải quyết vấn đề mâu thuẫn tộc người 3.4.1 Chủ trương, đường lối, biện pháp 3.4.2 Thành tựu KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chính sách phát triển quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, vấn đề tộc người và tôn giáo luôn là những đề tài nóng hổi trong mọi thời đại. Malaysia cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, bị chia cắt thành nhiều vùng miền lãnh thổ, sau khi giành được độc lập dân tộc vẫn là một đất nước nghèo nàn với nền nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc khá sâu sắc vào tư bản nước ngoài trước khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì việc xoá đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội đi đôi với việc giải quyết mâu thuẫn tộc người, đem lại sự công bằng cũng là một vấn đề trọng tâm đầy thách thức trong chính sách của chính phủ Malaysia. Với sự khác nhau về ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo, đặc biệt là sự chênh lệch về trình độ, địa vị kinh tế giữa người bản địa và những người nhập cư (Hoa, Ấn) mà ở Malaysia đã xảy ra cuộc xung đột sắc tộc đỉnh điểm vào năm 1969. Có thể nói, kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất trong sự phát triển xã hội. Và vì vậy sự khác biệt về mặt kinh tế cũng là một nguyên nhân, nếu không nói là nguyên nhân quan trọng nhất, làm cho những mâu thuẫn sắc tộc trở nên gay gắt và nóng bỏng hơn bao giờ hết. Mâu thuẫn lớn thì gây ra nội chiến, mâu thuẫn nhỏ hơn thì gây ra sự tranh chấp phân quyền về kinh tế, chính trị... Dù diễn ra dưới bất kỳ hình thức nào, mức độ nào thì mâu thuẫn sắc tộc cũng để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Việc giải quyết vấn đề này quả thực không hề đơn giản bởi không thể có một hay một số giải pháp chung để giải quyết hữu hiệu mọi xung đột sắc tộc ở những quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, đứng trước tình trạng đó, với nhiều khó khăn và thách thức, song Malaysia đã nhận thức được cái gốc của vấn đề đối với dân tộc mình và đưa ra những chính sách kinh tế hợp lý. Với sự ra đời của Chính sách kinh tế 1 mới – NEP năm 1971 và Chính sách phát triển quốc gia – NDP năm 1991, Malaysia đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Malaysia được coi là một trong số ít nước giải quyết rất thành công bài toán gắn kết thành tựu phát triển kinh tế với việc giải quyết ổn thoả các mâu thuẫn sắc tộc, đem lại sự công bằng, hoà hợp dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước. Như vậy, việc phát triển xã hội và giải quyết những mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn về kinh tế dẫn đến những mâu thuẫn về sắc tộc đang tồn tại trong mỗi quốc gia là một vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp. Do đó, việc nghiên cứu Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với các nước đang tồn tại những mâu thuẫn hay có nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn. Nó sẽ là bài học tham khảo cho các nước đa dân tộc, đa tôn giáo trên con đường phát triển kinh tế xã hội. Đối với Việt Nam, những thành công của Malaysia trong quá trình phát triển kinh tế, giải quyết những bất bình đẳng trong mâu thuẫn tộc người sẽ là những bài học quý báu để chúng ta có thể tham khảo trong quá trình Đổi mới và xây dựng đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh của nền kinh tế khu vực hoá, toàn cầu hoá, quan hệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng được mở rộng thì việc vừa phát triển kinh tế vừa giải quyết mâu thuẫn tộc người không chỉ nhằm vào mục tiêu đảm bảo và phát huy tình đoàn kết, thống nhất giữa các dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước mà còn góp phần đảm bảo an ninh khu vực và quốc tế nói chung, ASEAN nói riêng. Vì lẽ đó, Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia (đối với sự phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người) đã được chọn làm đề tài cho luận văn này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trước hết, có thể kể đến những công trình về thông sử Malaysia của các học giả nước ngoài, chẳng hạn: “Malaysia” (của Jonh 2 Gullick), “Malaysia” (Johannes, Harald Stephen và Annabelle Morgan), “A History of Malaysia” (Barbarra Watson và A. Leonard), v.v. Những công trình bàn về những vấn đề kinh tế - xã hội như: “Managing the Malaysia Economy: Challenges & Prospect” (Ramon V. Navaratman), “Malaysia in Stransition: Politics and Society” (Abdul R. Baginda), “Social Transformation, the State and the Middle Classes” (Abdul R. Embong), “The Malay – Their Problems and Future” (S. Husin Ali), “ Malaysia - The Making of a Nation” (Cheah boon Kheng), “Whither Malaysia ‘s New Economic Policy” (K.S. Jomo), v.v. Ở Việt Nam, trong những thập niên gần đây đã xuất hiện khá nhiều công trình nghiên cứu về Malaysia nói chung và kinh tế Malaysia nói riêng. Những công trình tiêu biểu có thể kể đến là: “Malaysia – Lịch sử, văn hóa và những vấn đề hiện đại”, “Malaysia trên đường phát triển” (Phạm Đức Thành), “Kinh tế Malaysia” (Đào Lê Minh và Trần Lan Hương), v.v. Ngoài ra, việc nghiên cứu về Malaysia còn được thể hiện trong những cuốn sách bàn về ASEAN và Đông Nam Á. Thuộc lĩnh vực này có thể nhắc đến: “Đặc điểm con đường phát triển kinh tế - xã hội của các nước ASEAN” (Phạm Đức Thành chủ biên), “Một số vấn đề về sự phát triển của các nước ASEAN” (Vũ Dương Ninh), “ASEAN – những vấn đề và xu hướng” (Phạm Nguyên Long chủ biên), “Đông Nam Á trên đường phát triển” (Phạm Nguyên Long chủ biên), “Các con đường phát triển của ASEAN” (Phạm Nguyên Long chủ biên), “Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Đông Nam Á” (Phạm Thị Vinh chủ biên), “Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái Lan” (Lê Thị Thanh Hương chủ biên), v.v. Việc nghiên cứu về Malaysia còn được đăng tải trong các bài viết trên các tạp chí khoa học. Liên quan đến đề tài mà chúng tôi quan tâm, có thể kể đến: “Nhà nước và hoạt động kinh tế ở Malaixia” (Nguyễn Văn Hà, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2/2001), “Nhân tố chính sách trong phát triển kinh tế của Malaixia” (Nguyễn Hồ, Những vấn đề 3 kinh tế thế giới, số 2/1995), “Tính cách dân tộc Malaixia trong sự phát triển đất nước” (Đức Ninh, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2/1996), “Con đường phát triển kinh tế của Malaixia và những kinh nghiệm” (Tất Tố, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6/1994), “Một vài đặc điểm về sự phát triển kinh tế – xã hội của Malaixia” (Nguyễn Khắc Thân, Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, số 2/1999, “Chiến lược phát triển kinh tế tri thức của Malaixia” (Hoàng Giáp, Hoài Anh, Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, số 5/2001), “Một vài kinh nghiệm của Malaysia trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và tôn giáo”, (Lý Tương Vân, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2009), v.v. Gần đây một số đề tài luận văn, khóa luận của học viên cao học và sinh viên cũng đã bắt đầu đề cập đến những vấn đề kinh tế - xã hội của Malaysia. Như vậy, cho đến nay, ở nước ngoài cũng như Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Malaysia và kinh tế Malaysia. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào mang tính hệ thống và toàn diện về chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia với vấn đề phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người. Do đó, thông qua luận văn này, người viết muốn được đóng góp công sức nhỏ bé của mình góp phần đưa ra một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về những thành công mà Malaysia đã đạt được trong thời gian qua. 3. Mục tiêu của luận văn Thông qua những điều được trình bày trong luận văn, người viết muốn làm sáng tỏ con đường phát triển kinh tế - xã hội của Malaysia thông qua việc thực thi các chính sách kinh tế hướng đến việc vừa tăng trưởng kinh tế bền vững vừa ổn định trật tự xã hội trong hoàn cảnh của một quốc gia đa tộc người, đa ngôn ngữ và đa tôn giáo điển hình. 4. Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu nêu trên, những nhiệm vụ chính dưới đây cần được đặt ra để giải quyết: 4 - Chỉ ra được tính chất phức tạp của Malaysia với tư cách là một quốc gia mang tính melting pot điển hình, - Nêu bật được những thành tựu của Malaysia trong việc thực thi các chính sách kinh tế vì mục tiêu tăng trưởng bền vững, - Làm sáng tỏ những thành tựu của Malaysia trong việc thực thi các chính sách kinh tế vì mục tiêu giải quyết các mâu thuẫn tộc người, - Bước đầu chỉ ra những bài học mà các quốc gia đa tộc người có thể tham khảo (cả những bài học thành công và bài học chưa thành công). 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu khu vực học với cách tiếp cận liên ngành. Ngoài ra, các phương pháp truyền thống của khoa học xã hội & nhân văn như tổng hợp, phân tích tư liệu, so sánh, đối chiếu cũng được vận dụng triệt để trong quá trình làm việc. 6. Bố cục của luận văn Luận văn được trình bày theo một trật tự kết cấu như sau: Mở đầu Chương 1: Tổng quan về Malaysia và các tộc người chính ở Malaysia Chương 2: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với việc phát triển xã hội Chương 3: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với việc giải quyết mâu thuẫn tộc người Kết luận Tài liệu tham khảo 5 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ MALAYSIA VÀ CÁC TỘC NGƯỜI CHÍNH Ở MALAYSIA 1.1 Đôi nét về đất nước, con người và lịch sử Malaysia 1.1.1 Đất nước Liên bang Malaysia là một quốc gia không lớn lắm, nằm ở trung tâm Đông Nam Á, có diện tích là 329.758 km2. Vị trí địa lý của Malaysia vô cùng quan trọng, không chỉ nằm trên tuyến đường biển nối liền các trung tâm kinh tế Âu – Á mà còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành quốc gia đa dân tộc, là nơi gặp gỡ và giao lưu của nhiều nền văn minh cổ đại, nhất là nền văn minh Ấn Độ; là nơi dừng chân của các thương gia Ấn Độ, Trung Quốc, các đế quốc ở Trung Cận Đông và đế quốc La Mã ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên. Về địa hình, lãnh thổ Malaysia thuộc loại hình không bằng phẳng. Ở vùng bán đảo, núi thường không cao (khoảng 1000-2000m) và đồng bằng duyên hải cũng không rộng. Malaysia có nhiều sông ngòi. Khí hậu Malaysia chịu ảnh hưởng của gió mùa nóng, ẩm quanh năm, với độ ẩm không khí khá cao. Malaysia có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, bị chi phối bởi gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 4 và gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9. Khí hậu nhiệt đới đã đem lại cho Malaysia một thế giới động thực vật vô cùng phong phú. Mặt khác, có thể nói, thiên nhiên cũng ưu đãi cho đất nước này nhiều tài nguyên quý giá. 1.1.2 Con người và lịch sử Malaysia Malaysia là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và nhiều nền văn hóa. Thành phần dân tộc của Malaysia tương đối phức tạp. Về cơ bản, Malaysia gồm ba cộng đồng dân tộc chính: cộng đồng người Malay (gồm bản thân người Malay và các tộc người bản địa khác), cộng đồng người Hoa và cộng đồng người Ấn. Giữa các tộc người này có sự khác biệt trong sinh hoạt cũng như trong hoạt động kinh tế. 6 Người Malay đa số làm nghề nông, sống tập trung ở các bang nông nghiệp lạc hậu về kinh tế như Kedah, Kalantan, Trenganu, Perlis cũng như ở Sarawak và Sabah, nằm dải theo thung lũng các con sông và vùng duyên hải ở phía bắc và đông bắc bán đảo Melaka, trong khi người Hoa lại tập trung ở các thành phố lớn, các trung tâm khai thác thiếc. Họ có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc gia. Còn người Ấn ở Malaysia thì sinh sống cả ở vùng nông thôn lẫn thành thị, nơi có nhiều đồn điền cao su. Họ chủ yếu là công nhân, phu đồn điền, nông dân....Vai trò của họ không lớn so với người Malay và người Hoa. Về tôn giáo, ở Malaysia có nhiều tôn giáo khác nhau. Nếu như hầu hết người Malay theo Islam thì đa phần người Hoa theo Phật giáo hay Đạo giáo, người Ấn theo Hindu giáo, một số khác theo Phật giáo và đạo Sikh. Sau này, Thiên chúa giáo cũng có mặt ở đây và nó có ảnh hưởng chủ yếu ở một bộ phận người Châu Âu, người dân địa phương ở Sarawak và Sabah cũng như ở một bộ phận người Hoa và người Ấn. Ở Malaysia, Islam được coi là quốc giáo và tiếng Melayu (Bahasa Melayu) được coi là ngôn ngữ chính thức của quốc gia. Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, các ngôn ngữ khác như tiếng Hoa, tiếng Tamil, tiếng Anh cũng được sử dụng khá phổ biến. Mặc dù là liên bang nhưng Malaysia không theo chế độ cộng hòa mà theo mô hình quân chủ lập hiến, nghĩa là nước có vua cai trị nhưng quyền lực tối cao không nằm trong tay vua mà là Hiến pháp. Ở Malaysia, Tổ chức tộc người Malay thống nhất (gọi tắt là UMNO) là đảng phái chính trị mạnh nhất, có uy tín nhất và là hạt nhân chính trong mặt trận quốc gia (một liên minh chính trị giữa UMNO, Hiệp hội người Hoa Malaysia và Đại hội người Ấn) đang cầm quyền tại quốc gia này hơn một thập kỷ qua. Về lịch sử, trước khi thực dân phương Tây xâm chiếm và cai trị, tại đất nước này đã từng tồn tại và chứng kiến sự thịnh vượng của các tiểu vương quốc Islam. Đến cuối thế kỷ XIX, toàn bộ Malaysia 7 ngày nay đã trở thành thuộc địa của Anh. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, Malaysia bị Nhật chiếm đóng. Chiến tranh kết thúc, tháng 9 năm 1945, dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, quân đội Anh đã chiếm lại Malaya. Năm 1957, Liên bang Malaya trở thành quốc gia độc lập, là thành viên của Khối thịnh vượng chung thuộc Anh (British Commonwealth of Nation). Năm 1963, Liên Bang Malaysia ra đời, bao gồm Liên bang Malaya, Singapore, Sabah và Sarawak với thủ đô là Kuala Lumpur (thuộc bang Selangor). Đến năm 1965, Singapore tách khỏi Liên bang, trở thành quốc gia độc lập. Hiện nay Liên bang Malaysia bao gồm 13 bang (Johor, Kedah, Kelantan, Melaka, Negeri Sembilan, Pahang, Perlis, Perak, Pulau Pinang, Sabah, Sarawak, Selangor, Trengganu) và phần lãnh thổ Liên bang (Kuala Lumpur và Labuan). 1.2 Các tộc người chính ở Malaysia 1.2.1 Tộc người Malay Đây là tộc người lớn nhất, chiếm 57% dân số, được mệnh danh là “ đứa con của đất” – bumiputera. Người Malay ở đây là những người theo Islam, nói tiếng Malay, tuân thủ các truyền thống Malay và có tổ tiên là người Malay. Hiện nay, họ là lực lượng chính nắm chính quyền tại Malaysia. 1.2.2 Tộc người Hoa Đây là nhóm người đứng thứ hai về số lượng ở Malaysia, tuy chỉ chiếm khoảng 26% dân số cả nước nhưng hàng năm đóng góp tới ½ GDP của quốc gia. Có nhiều ý kiến về nguồn gốc của người Hoa tại Malaysia. Tuy nhiên, giả thiết thuyết phục nhất là người Hoa ở Malaysia có hai loại. Đó là người Hoa lục địa và người Hoa Baba. Về cơ bản, người Hoa là những người có tính cộng đồng cao, chăm chỉ, hiếu học, chịu thương chịu khó, cần kiệm, biết chịu đựng gian khổ. Họ là lực lượng chính trong công nghiệp khai thác mỏ và 8 cũng rất giỏi giang trong kinh doanh. Họ sống tập trung chủ yếu ở thành thị, các thành phố ven biển và làm thương mại. Hiện nay họ đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của Malaysia. Về kinh tế, ngày nay, người Hoa được biết đến với khả năng kinh doanh và đóng một vai trò chủ đạo trong cộng đồng thương mại. Tôn giáo chính của người Hoa là Đạo Phật và Đạo Lão, có một số ít người Hoa theo đạo Thiên Chúa. Không hiếm người Hoa ở Malaysia biết nói tiếng Malay, tiếng Anh và một hoặc hai phương ngữ Trung Quốc. 1.2.3 Tộc người Ấn Đây là nhóm tộc người đông thứ ba, chiếm khoảng 8% dân số ở Malaysia. Họ sinh sống cả ở cùng nông thôn lẫn thành thị, nhưng vùng tập trung chính là ở vùng bờ biển phía tây bán đảo Malacca. Phần lớn họ theo Hindu giáo. Một số ít người Ấn cũng có tài trong kinh doanh, nhưng đa số tham gia vào các công việc hoặc nghề nghiệp cần đến sức khỏe như cảnh sát, lái xe, lao động ở đồn điền hay ở một số dịch vụ khác. Người Ấn ở Malaysia, khác với người Hoa, không tạo ra được sự thống nhất cao mang tính dân tộc. Giữa họ luôn có sự phân biệt nhau về đẳng cấp, học vấn, tôn giáo, kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, v.v. Có lẽ chính “điểm yếu” này của người Ấn cũng là một trong những nguyên nhân làm cho họ không có được địa vị cao về chính trị và kinh tế ở Malaysia. Nói chung, người Ấn không có vai trò lớn trong đời sống kinh tế và chính trị ở Malaysia. Họ sống yên phận, đôi khi, họ cũng đứng lên đòi quyền lợi nhưng chỉ là các cuộc biểu tình nhỏ và không gây được tiếng vang lớn. 1.2.4 Một số tộc người khác Ngoài ba tộc người chính nêu trên, Malaysia còn có các tộc người bản địa nhỏ hơn (ngoài người Malay) và những người nước ngoài đến từ khắp nơi trên thế giới. Tuy họ chỉ chiếm một phần không 9 đáng kể, chỉ là thiểu số trong cộng đồng Malaysia nhưng họ cũng góp phần tạo nên sự đa dân tộc, đa văn hóa và đa tôn giáo của đất nước này. TIỂU KẾT Malaysia là một Meiting pot điển hình của Đông Nam Á. Đây là quốc gia được ví như là “Châu Á thu nhỏ” với ý nghĩa: đó là một đất nước tươi đẹp, đa dạng về điều kiện tự nhiên và hệ sinh thái, đa dạng về tộc người, văn hóa và tôn giáo. Sau khi giành độc lập vào năm 1957, cũng như các quốc gia Đông Nam Á khác, Malaysia là một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu. Tình hình kinh tế như trên cộng với những khác biệt về mặt kinh tế, tôn giáo và ngôn ngữ giữa cộng đồng bản địa Malay với các cộng đồng nhập cư (Hoa, Ấn) đã buộc chính phủ Malaysia phải xem xét, đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp để vừa phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng cao và bền vững vừa giải quyết được các mâu thuẫn xã hội, đưa đất nước đi vào ổn định và phát triển phồn vinh. 10 Chương 2: CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ MALAYSIA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 2.1 Sau khi trình bày các cơ sở của việc hoạch định chính sách, lụân văn hướng vào Chính sách kinh tế mới và Chính sách phát triển quốc gia. 2.2 Chính sách kinh tế mới 2.2.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu của Chính sách kinh tế mới Đích chiến lược của NEP là đạt được sự thống nhất quốc gia và thực hiện xây dựng đất nước giàu mạnh thông qua hai mục tiêu chính: Mục tiêu thứ nhất: xóa đói giảm nghèo bằng cách nâng cao thu nhập và tăng cơ hội có công ăn việc làm cho tất cả mọi công dân, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo. Mục tiêu thứ hai: Cơ cấu lại xã hội Malaysia nhằm xóa bỏ tình trạng mất cân bằng kinh tế để giảm và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn sự phân biệt sắc tộc. Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ phải tập trung vào 3 hướng chính: Một là, phân phối lại lực lượng lao động vào các khu vực kinh tế tương ứng với cơ cấu sắc tộc. Hai là, phân bố lại tỷ lệ lao động theo nghề nghiệp phù hợp với cơ cấu các cộng đồng sắc tộc. Ba là, cơ cấu lại tỷ lệ vốn cổ phần và tạo ra một Cộng đồng công nghiệp và thương mại (BCIC) cho nhóm người bản địa. Ngoài ra, bên cạnh các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu… Chính sách kinh tế mới (NEP) còn hướng đến sự hòa nhập lớn hơn giữa các bang và các vùng của đất nước. Điều này nhằm làm giảm những mất cân đối giữa các vùng và đem lại một sự phân phối công bằng hơn. 11 2.2.2 Nội dung của chính sách kinh tế mới Để đạt được những mục tiêu trên, chính phủ Malaysia đã tiến hành hàng loạt các biện pháp thông qua cơ chế hoạt động của NEP như sau: - Xóa đói giảm nghèo. Chính phủ đã đưa ra các biện pháp cần thực hiện: +“…làm dịu đi áp lực dân số hiện tại trong các khu vực đông đúc nhất của nông nghiệp bằng cách khuyến khích các nông dân và ngư dân nghèo tích cực trong các ngành sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, các cơ hội được mở rộng cho các thanh niên ở nông thôn để có được chuyên môn mà được mở rộng cho các ngành nông nghiệp và công nghiệp hiện đại; +“…điều khoản về những dịch vụ tốt hơn và hiệu quả hơn trong các lĩnh vực nhà cửa, giao thông, cung cấp nước, điện, giáo dục , y tế, dinh dưỡng và kế hoạch hóa gia đình; +“…sáng tạo, tăng thêm các cơ hội việc làm phong phú...xúc tiến và phân tán phát triển công nghiệp, nhấn mạnh nhu cầu chuyển vốn hơn vào các ngành lao động phổ thông và có quy mô nhỏ.” [61, 87] Bên cạnh đó, các biện pháp khác cũng đang được thực hiện để tăng các nguồn thu nhập thực sự bằng cách cung cấp nhà cửa ở mức giá thấp và các dịch vụ công cộng khác. - Tái tổ chức lại xã hội để giảm sự mất cân đối trong nền kinh tế : +“ tăng phần trăm số lượng người Malay và người bản xứ lên trong các công việc khai khoáng hầm mỏ, sản xuất chế tạo và xây dựng; +“ tăng tỷ lệ số người Malay và những người bản xứ khác trong việc sở hữu của cải sản xuất, bao gồm: đất đai, tài sản cố định và vốn cổ phần. Mục tiêu là đến năm 1990, họ sẽ làm chủ ít nhất 30% vốn cổ phần và 40% là của những người phi Malay; 12 +“ khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp của người Malay và người bản xứ để họ sẽ trở thành một cộng đồng công nghiệp và thương mại đa dạng, mạnh mẽ vào năm 1990”; [61, 88-89] + Đồng thời khuyến khích và hỗ trợ đầu tư tư nhân ở cả trong nước và nước ngoài. NEP xác định: đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn và kỹ thuật để phát triển lực lượng sản xuất, hiện đại hóa và đa dạng hóa nền kinh tế. 2.3 Chính sách phát triển Quốc gia 2.3.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu Để thích ứng với điều kiện mới trong nước và quốc tế, đưa đất nước tiếp tục phát triển nhanh và vững chắc theo hướng đã định, Chính phủ Malaysia đã đưa ra các mục tiêu của NDP như sau:  Thực hiện sự cân bằng giữa tăng trưởng và công bằng xã hội;  Đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các khu vực trọng yếu của nền kinh tế nhằm tăng những khả năng bổ sung lẫn nhau giữa chúng để tối ưu hóa tăng trưởng;  Giảm bớt và tiến tới loại bỏ những bất bình đẳng và mất cân đối về kinh tế nhằm tăng cường sự chia sẻ công bằng và thỏa đáng hơn cho mọi người dân Malaysia;  Thúc đẩy và tăng cường sự hòa hợp dân tộc bằng cách giảm sự phát triển chênh lệch giữa các bang và giữa khu vực nông thôn với khu vực thành thị;  Tăng cường ý thức dân tộc lành mạnh trong sự phát triển kinh tế xã hội;  Phát triển nguồn nhân lực với lực lượng lao động có tay nghề cao, có kỷ luật lao động tốt, coi đây là yêu cầu căn bản trong việc đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phân phối; 13  Tăng cường sử dụng khoa học kỹ thuật trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền công nghiệp hiện đại;  Bảo vệ môi trường và hệ sinh thái để đảm bảo sự tồn tại lâu dài chiến lược phát triển của đất nước. Điểm qua những nội dung trên, về cơ bản, NDP vẫn theo đuổi các mục tiêu chính mà NEP đề ra năm 1971 nhưng có sự điều chỉnh theo các hướng sau đây: Một là, tập trung cải thiện mức sống cho những người có thu nhập thấp hay sát với mức nghèo trong cả nước; Hai là, tập trung phát triển những ngành nghề có công nghệ và chất xám cao, tiếp tục thúc đẩy hơn nữa Cộng đồng công nghiệp và thương mại Bumiputra ( BCIC) phát triển; Ba là, nhấn mạnh đến phát triển thành phần kinh tế tư nhân để đạt được tái cấu trúc. Bốn là, tăng cường hơn nữa phát triển nguồn nhân lực để đạt được mục tiêu tăng trưởng và tái phân phối. 2.3.2 Nội dung của Chính sách phát triển Quốc gia Dựa trên đường lối và mục tiêu của Chính sách kinh tế mới, Chính sách phát triển Quốc gia sẽ tiếp tục nỗ lực nhằm điều chỉnh những mất cân đối để xây dựng nên một Bangsa Malaysia thống nhất, thịnh vượng và phát triển. - Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo: - Thứ hai, phát triển Cộng đồng thương mại và công nghiệp bản địa (BCIC). - Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân, kết hợp với khu vực nhà nước sẽ tạo một cơ cấu thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững. - Cuối cùng, phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố hết sức quan trọng để thực hiện hóa mục tiêu đã đề ra. Như vậy, tiếp nối mục tiêu của NEP, NDP đã đưa ra những mục tiêu cụ thể hơn, tiếp tục nỗ 14 lực nhằm điều chỉnh những mất cân đối kinh tế để tạo ra một xã hội công bằng, thống nhất, hòa bình và thịnh vượng. 2.4 Các chính sách kinh tế đối với sự phát triển xã hội ở Malaysia 2.4.1 Tình hình Malaysia sau khi giành độc lập 2.4.2 Malaysia sau khi thực hiện NEP và NDP a) Thập kỷ 70 được đánh giá là thập kỷ tăng trưởng kinh tế cao. Trong vòng 10 năm (1971 – 1980), GNP tăng gấp 2,15 lần, tốc độ tăng trưởng GDP mỗi năm trung bình ở mức 7,5% [43,73]. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Malaysia trong suốt thập kỷ 80 là sự thay đổi cơ cấu kinh tế dẫn đến sự phát triển cân đối hơn giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Sang năm 1990, tất cả các ngành của nền kinh tế đều đạt tốc độ tăng trưởng khá cao: ngành dịch vụ đạt tốc độ tăng 10,5% so với 8,6% của năm 1989; ngành chế tạo đạt tốc độ tăng 15,7% so với 14,2% của năm 1989; ngành xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất 19% so với 11,6% của năm 1989…Cũng trong năm 1990, các nguồn lực trong nước, đặc biệt là đầu tư và tiêu dùng tư nhân tăng mạnh đã giúp nền kinh tế khắc phục được những yếu kém của ngành xuất khẩu. Không chỉ dừng ở đây, bước sang kế hoạch triển vọng lần hai, với những mục tiêu và biện pháp cụ thể, nền kinh tế Malaysia có sự chuyển biến mạnh mẽ và rõ nét. Nền kinh tế Malaysia tiếp tục tăng trưởng cao với tốc độ bình quân giai đoạn 1991 – 1995 là 8,4%. Bảng 2.5 Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP Ngành 1985 1990 1995 Nông nghiệp 20,76 18,01 13,49 Công nghiệp 36,67 42,17 47,37 Dịch vụ 42,57 39,82 39,14 Nguồn: Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, Tổng cục thống kê, Hà Nội, 1998. 15 Bảng 2.6: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaysia Năm Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 1990 1995 158.765 379.800 Xuất khẩu 79.646 185.403 Nhập khẩu 79.119 194.496 Nguồn: Tổng cục thống kê, Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN Nhà xuất bản thống kê, 1998. b) Kinh tế phát triển là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển. Điều đó được thể hiện rất rõ trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống cũng như về phân phối thu nhập đối với tất cả người dân ở Malaysia sau khi thực hiện các chính sách kinh tế. Xét về chất lượng cuộc sống, các nhu cầu cơ bản của cuộc sống đã được giải quyết: ở khu vực nông thôn, nhà nước đã trợ cấp tài chính để nông dân cải tiến việc cung cấp điện nước. Đến cuối năm 1989, 64% hộ nông dân được cung cấp nước sạch và 77% được cung cấp điện. Tỷ lệ bác sĩ/ số dân tăng từ 1/ 4302 (1970) lên 1/ 2656 (1993). Tuổi thọ bình quân của người Malaysia là 72 tuổi vào năm 1990 so với 63 tuổi của năm 1970. Thu nhập bình quân đầu người năm 1990 là 2.031 USD, đến năm 1995 tăng lên 3.980 USD [26,115]. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế cao còn kéo theo việc giảm đáng kể những mất cân đối về thu nhập giữa các tộc người, giữa thành thị và nông thôn. Những hộ gia đình có thu nhập bình quân hàng tháng thấp nhất ở bán đảo Malacca đã tăng từ 76 đôla năm 1970 lên 421 đôla năm 1990. Hơn nữa, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội ở Malaysia là những thành tựu đạt được trong việc xóa đói giảm nghèo. Có thể nói, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan