Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách phát triển ngành tự động hóa của đài loan từ năm 1980 đến năm 2005 và...

Tài liệu Chính sách phát triển ngành tự động hóa của đài loan từ năm 1980 đến năm 2005 và kinh nghiệm với việt nam

.PDF
102
433
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------------------------- NGUYỄN MINH TÂM CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH TỰ ĐỘNG HOÁ CỦA ĐÀI LOAN TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 2005 VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Châu Á học Hà Nội – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------------------------- NGUYỄN MINH TÂM CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH TỰ ĐỘNG HOÁ CỦA ĐÀI LOAN TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 2005 VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Châu Á học Mã số: 60 31 50 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHÙNG THỊ HUỆ Hà Nội – 2009 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do lựa chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3 3. Phạm vi nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu 4 5. Cấu trúc của luận văn 4 NỘI DUNG Chương 1: Lịch sử phát triển ngành tự động hoá của Đài Loan 6 1.1 Khái niệm về tự động hoá 6 1.1.1 Định nghĩa tự động hoá 6 1.1.2 Đặc điểm của tự động hoá 8 1.2 Tình hình kinh tế Đài Loan trước khi thực hiện chính sách phát triển tự động hoá 10 1.3 Quá trình phát triển ngành tự động hoá của Đài Loan 12 1.3.1 Khái lược sự phát triển của kỹ thuật tự động hoá 12 1.3.2 Các giai đoạn phát triển tự động hoá của Đài Loan 14 1.3.2.1 Giai đoạn 1 (1982 – 1990): “kế hoạch 8 năm tự động hoá sản 14 xuất” 1.3.2.2 Giai đoạn 2 (1990 – 2000) “kế hoạch 10 năm tự động hoá sản 19 xuất 1.3.2.3 Giai đoạn 3 (2000- 2005) “tự động hoá và điện tử hoá nền sản 23 xuất” Chương 2. Chính sách phát triển tự động hoá của Đài Loan 29 2.1 Các chính sách ưu đãi phát triển tự động hoá của chính quyền Đài 29 Loan 2.1.1 Ưu đãi về thuế 29 2.1.2 Ưu đãi tài chính 34 2.1.3 Phát triển kỹ thuật, chuyển giao công nghệ 36 2.1.3.1 Nội dung và kế hoạch thực hiện 37 2.1.4 Chính sách đổi mới thiết bị sản xuất 41 2.1.5 Chính sách đào tạo nhân lực 45 2.2 Nhận xét về tỷ lệ hiểu biết, áp dụng chính sách ưu đãi của các doanh 49 nghiệp Đài Loan 2.2.1 Nhu cầu hỗ trợ từ phía chính quyền của các doanh nghiệp Đài 50 Loan ngày càng lớn 2.2.2 Tỷ lệ hiểu biết, áp dụng chính sách ưu đãi của các doanh nghiệp 54 Đài Loan 2.3 Kết quả thực hiện chính sách thúc đẩy tự động hoá của Đài Loan 59 2.3.1 Ngành công nghiệp kỹ thuật cao dần thay thế cho ngành tập trung 59 nhiều lao động 2.3.2 Công nghệ phát triển kéo theo phúc lợi xã hôi được nâng cao 61 Chương 3: Những kinh nghiệm tham khảo với Việt Nam 63 3.1 Một số nhận xét về chính sách tự động hoá của Đài Loan 63 3.1.1 Việc hoạch định và áp dụng chính sách của chính quyền Đài Loan 63 phù hợp với mục tiêu phát triển sản xuất 3.1.2 Biện pháp thực hiện của các cơ quan chức năng Đài Loan linh hoạt 66 hiệu quả 3.2 Những kinh nghiệm tham khảo với Việt Nam 68 3.2.1 Nhận xét về tự động hoá của Việt Nam 68 3.2.2 Hội tự động hoá Việt Nam 74 3.2.3 Các chính sách của nhà nước Việt Nam đối với ngành tự động hoá 77 3.3 Một số ý kiến rút ra từ kinh nghiệm của Đài Loan 81 3.3.1 Vai trò của nhà cầm quyền 81 3.3.2 Đào tạo nhân lực 83 3.3.3 Nghiên cứu gắn với sản xuất 85 3.3.4 Chính sách ưu đãi về thuế - kích cầu trong các doanh nghiệp áp 87 dụng tự động hoá KẾT LUẬN 90 Tài liệu tham khảo 94 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới hơn 20 năm nay, kinh tế xã hội đã có những bước tiến vững chắc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống người dân từng bước được nâng cao. Những thành tựu trong 20 năm ấy khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền trong mọi mặt đời sống kinh tế.... Tuy nhiên nếu so sánh vấn đề trong tầm khu vực hoặc quốc tế thì chúng ta rõ ràng là vẫn còn rất nhiều yếu kém. Đặc biệt, do tâm lý ưa dùng hàng ngoại của người dân vẫn còn rất nặng nề, thiết bị sản xuất ít đổi mới, không có tính linh hoạt, ai ai cũng rất thích thú ngưỡng mộ khi nghe đến tự động hoá nhưng bản chất của tự động hoá như thế nào thì không phải ai cũng hiểu thấu đáo. Đài Loan một hòn đảo nhỏ, tài nguyên không nhiều và cũng trải qua những giai đoạn khó khăn khủng hoảng, nhưng họ lại có một nền sản xuất phát triển với nhiều sản phẩm đứng đầu thị phần thế giới. Một câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao nền sản xuất của Đài Loan lại có thể phát triển được như vậy, chúng ta có thể học được những gì từ sự phát triển của Đài Loan? Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định vai trò định hướng và thực thi chính sách hiện đại hoá của chính quyền Đài Loan trong suốt 60 năm qua, kể từ khi Quốc dân đảng xác lập quyền cai quản trên vùng đảo Đài Loan. Trong quá trình tìm hiểu các chính sách và biện pháp phát triển sản xuất của Đài Loan điều khiến chúng ta đặc biệt quan tâm là chính sách phát triển tự động hoá của Đài Loan với mong muốn tìm một lời giải đáp cho nền tảng của sự phát triển vượt bậc trong nền sản xuất ở đây. Đúng vậy, không phải ngẫu nhiên mà 1 hòn đảo nhỏ ấy lại có được thành tựu phát triển, nền sản xuất của họ lại có nhiều sản phẩm đứng đầu thị trường thế giới như hôm nay. Có rất nhiều lý do để lý giải điều ấy, trong đó chính sách phát triển tự động hoá, nâng cấp nền sản xuất của Đài Loan là nhân tố cực kỳ quan trọng. Cho đến nay, tự động hoá là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát triển sản xuất của bất kỳ nền kinh tế nào trên thế giới. Tại Đài Loan, việc đưa ra các chính sách tự động hoá đã giữ vai trò tích cực thúc đẩy nâng cấp khả năng cạnh tranh của toàn bộ nền sản xuất. Kể từ khi Đài Loan đẩy mạnh tự động hoá nâng cấp nền sản xuất toàn bộ nền sản xuất ở đây từ nông nghiệp đến công nghiệp và thương mại dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ, đưa Đài Loan trở thành một nền kinh tế mới phát triển trên thế giới. Việt Nam chúng ta có những điều kiện kinh tế và xã hội khá giống Đài Loan, khi mới bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá, tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm phần lớn trong nền kinh tế, sản xuất lạc hậu, tài nguyên hạn chế và 75% diện tích cả nước là đồi núi. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam ta đã hội nhập, cánh cửa WTO đã rộng mở, làm thế nào để đón nhận được những cơ hội đang chờ đón cũng như vượt qua những thách thức là vấn đề mà của tất cả các ngành nghề và các tầng lớp trong xã hội cần quan tâm. Để lành mạnh hoá nền sản xuất còn yếu kém cả về lượng và chất của ta để có thể thực sự gia nhập và phát triển trước những cạnh tranh và thách thức trên trường quốc tế thì nghiên cứu và học hỏi những kinh nghiệm của Đài Loan cũng là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Bởi vậy, nghiên cứu những chính sách phát triển nền công nghiệp tự động hoá đẩy mạnh nâng cao phát triển sản xuất của Đài Loan để tìm ra những điểm chung giữa hai nền kinh tế và rút kinh nghiệm cho quá trình phát triển nền sản xuất của Việt Nam là lý do để chúng tôi lựa chọn 2 đề tài nghiên cứu này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tự động hoá có vai trò then chốt trong sự phát triển của một nền kinh tế khi bước vào giai đoạn hội nhập phát triển. Các chính sách về tự động hoá luôn được các quốc gia trên thế quan tâm và chú trọng từ lâu, nhưng đây là đề tài mới mẻ ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, các nghiên cứu về chính sách phát triển tự động hoá của Đài Loan chúng ta chưa có nhiều. Bởi vậy, luận văn chủ yếu dựa vào các tài liệu của các nhà nghiên cứu Đài Loan và một số sách báo, mạng internet. Tại Đài Loan, các nghiên cứu về đề tài này rất phổ biến, từ cấp nhà nước đến các công trình nghiên cứu của các học giả Đài Loan. Trong đó nổi bật có tác giả Vương Kiện Toàn với “Chính sách hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, tác giả Ngô Hồng Chương với công trình “Tình hình thực hiện thúc đẩy công nghiệp hoá”. Năm 1993, học giả Ngô Vũ Hùng đưa ra nghiên cứu “Đánh giá những ảnh hưởng của công nghiệp tự động hoá đến ngành chế tạo ”. Năm 1994, tác giả Uông Minh Tường đưa ra “Nghiên cứu những hiệu quả của chính sách khuyến khích phát triển kỹ thuật của chính quyền”. Ngoài ra, chính quyền Đài Loan luôn điều tra, tập hợp các kết quả thực hiện chính sách và đưa ra những điều chỉnh. Bởi vậy, lượng tài liệu nghiên cứu về đề tài này của Đài Loan là rất lớn. Dựa trên những nền tảng đó, đề tài đã đi sâu tìm hiểu nghiên cứu và phân tích vấn đề đưa ra những đánh giá ban đầu, gợi mở cho Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 Tự động hoá với nền tảng ban đầu là ngành cơ khí, trong quá trình phát triển đã không ngừng vận động, trở thành một ngành tích hợp nhiều công nghệ, kỹ thuật của những ngành sản xuất khác nhau và ảnh hưởng đến tất cả những ngành sản xuất khác. Bởi vậy, chính sách về tự động hoá của Đài Loan là chính sách “động”, chính quyền Đài Loan đã dựa vào các điều kiện lịch sử cụ thể, từng giai đoạn phát triển để đưa ra những chính sách phù hợp. Bởi vậy, luận văn sẽ nghiên cứu chính sách tự động hoá của Đài Loan dựa trên cụ thể từng chính sách ưu đãi phát triển tự động hoá của chính quyền Đài Loan xuyên suốt qua các thời kỳ kể từ khi chính quyền Đài Loan chính thức đưa ra các chính sách chuyên biệt nhằm phát triển tự động hoá năm 1980 đến khi Đài Loan kết thúc kế hoạch lần thứ ba tự động hoá và điện tử hoá nền sản xuất năm 2005. 4. Phương pháp nghiên cứu Do đối tượng nghiên cứu là “chính sách phát triển tự động hoá của Đài Loan” nên trong quá trình nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp và so sánh dữ liệu, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic. Bên cạnh đó, dựa trên số liệu đã được cung cấp luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá để nêu bật vị trí và thành tựu của các chính sách khuyến khích phát triển tự động hoá, nâng cao nền sản xuất của chính quyền Đài Loan. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được phân thành ba chương. Chương 1: Lịch sử phát triển ngành tự động hoá của Đài Loan giới thiệu 4 về sự phát triển của tự động hoá Đài Loan qua các thời kỳ bằng các kế hoạch phát triển tự động hoá của chính quyền Đài Loan và thành tựu kế hoạch đạt được. Về cơ bản, từ năm 1982 đến năm 2005, ngành tự động hoá của Đài Loan đã phát triển qua 3 thời kỳ, kế hoạch lần thứ nhất từ 1982 đến 1990 kế hoạch 8 năm phát triển tự động hoá, tiếp đến là kế hoạch 10 năm (từ 1990 đến đầu năm 2000) và kế hoạch 5 năm 6 tháng tự động hoá và điện tử hoá nền sản xuất từ 2000 đến 2005. Cho đến nay, tự động hoá Đài Loan đã thực sự phát triển đưa nền sản xuất của hòn đảo này trở nên lớn mạnh, có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới và đặc biệt là có nhiều sản phẩm đứng đầu tại phần thế giới, như máy tính xách tay, chất bán dẫn… Chương 2: Chính sách phát triển tự động hoá của Đài Loan luận văn đi sâu vào giới thiệu và phân tích các chính sách nhằm khuyến khích phát triển tự động hoá của Đài Loan bao gồm: ưu đãi về thuế, ưu đãi cho vay, hỗ trợ tài chính, khuyến khích phát triển kỹ thuật, đổi mới thiết bị và đào tạo nhân lực. Chương 3: Những kinh nghiệm tham khảo với Việt Nam luận văn đưa ra những nhận xét về biện pháp tuyên truyền nhằm thúc đẩy thực hiện chính sách tự động hoá của chính quyền Đài Loan và những thành tựu sau khi áp dụng chính sách phát triển tự động hoá nâng cao nền sản xuất của Đài Loan. Tiếp đến, luận văn giới thiệu về tình hình phát triển của tự động hoá Việt Nam cũng như các chính sách của nhà nước ta, trong đó rút ra một số kinh nghiệm áp dụng chính sách của doanh nghiệp và chính quyền Đài Loan. 5 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH TỰ ĐỘNG HOÁ CỦA ĐÀI LOAN 1.1 Khái niệm tự động hoá 1.1.1 Định nghĩa tự động hoá Trên thế giới, định nghĩa về tự động hoá thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong từng thời kỳ, mỗi định nghĩa đánh dấu một bước phát triển mới, một công nghệ mới ra đời của ngành này. Cũng như vậy, chính sách về tự động hoá của các quốc gia cũng luôn thay đổi để có những điều chỉnh và tác động kịp thời cho phù hợp với sự phát triển của nó. Về cơ bản, chính sách tự động hoá là chính sách “động”, chỉ có thể thông qua việc tìm hiểu ý nghĩa và đặc thù của tự động hoá, chúng ta mới có thể nắm vững được chính sách phát triển lĩnh vực này. Kể từ cách mạng công nghiệp thế kỷ thứ XVIII, máy móc có thể thay thế con người trong việc sản xuất hàng loạt sản phẩm, góp phần làm giảm giá thành sản xuất, nâng cao năng suất lao động và trình độ của lực lượng sản xuất. Những năm 1920, công ty Ford của Mỹ sau khi sử dụng dây chuyền sản xuất tự động hoá, giá thành sản phẩm giảm đến 62%, năng suất tăng lên đến 10 lần, bởi vậy kỹ thuật tự động hoá đã trở thành một đề tài thu hút nhiều công trình nghiên cứu. Khái niệm “tự động hoá” xuất hiện sớm nhất vào những năm 40 của thế kỷ trước, người đầu tiên sử dụng là Phó tổng giám đốc hãng ô tô Fofd D.S Harder. Lúc đầu người ta gọi đó là “triết học của chế tạo”. Sau đó, John Diebold (1962) tiến thêm một bước coi tự động hoá là một cách tổ chức hoặc 6 phương thức quản lý sản xuất tận dụng một cách hợp lý, khoa học tư liệu sản xuất bao gồm máy móc, nguyên liệu và cả con người [22:16]. Trong thời kỳ đầu phát triển, các định nghĩa thường thiên về diễn giải ý nghĩa của tự động hoá. Những năm 1970, tự động hoá đã phát triển với những máy móc thiết bị điều khiển, sản xuất hàng loạt sản phẩm nhằm tiết kiệm chi phí và nhân công lao động. Thời kỳ này, các chuyên gia đã bắt đầu dùng các khái niệm “kỹ thuật” để định nghĩa tự động hoá, làm cho định nghĩa được cụ thể và khách quan hơn. Simon (1977) đã coi tự động hoá là tổ hợp “người và các thiết bị điện tử” thành một hệ thống người máy phức tạp. Những năm 1980, định nghĩa về tự động hóa được chi tiết và rõ ràng hơn như Goover đã nói: “tự động hoá là công nghệ sử dụng máy móc phức tạp có sự hỗ trợ của máy vi tính điện tử để sử dụng trong việc quản lý các thao tác sản xuất”. Đồng thời, tự động hoá là một hệ thống tổ hợp, một phương pháp sản xuất tận dụng thích hợp các nguồn lực sản xuất như Mar Shall định nghĩa “tự động hóa là sử dụng máy móc và các linh kiện điện tử để tự động quản lý sản xuất, nhằm thay thế các thao tác của con người trong kiểm nghiệm và đánh giá”. Như vậy, phạm vi của tự động hoá đã mở rộng bao gồm cả quá trình sản xuất và khâu quản lý hành chính. Như vây, tự động hoá theo nghĩa hẹp là một kỹ thuật tích hợp thao tác, thiết bị, quy trình chế tạo cũng như kỹ thuật của nhiều ngành khác nhau. Theo nghĩa rộng, nó được hiểu như sau: Thứ nhất, đó là một hệ thống các thao tác sản xuất liên tục, hoàn chỉnh, là sử dụng kỹ thuật điện tử và các thiết bị khác để quản lý và điều chỉnh sản lượng và chất lượng của sản phẩm. 7 Thứ hai, tự động hoá là kết hợp phần mềm ứng dụng vi tính, máy cảm trắc, quản lý, kỹ thuật thông tin để thay thế và tiết kiệm nhân lực, nhằm tăng sức sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. 1.1.2. Đặc điểm của tự động hoá Tự động hoá là một ngành tích hợp kỹ thuật, công nghệ của nhiều ngành nghề khác nhau, bởi vậy kỹ thuật và đặc trưng của tự động hoá cũng luôn phát triển qua các giai đoạn. Cho đến nay, có thể tổng kết các đặc trưng của tự động hoá như sau: Thứ nhất, tự động hoá là kỹ thuật, công nghệ tích hợp của tất cả các kỹ thuật liên quan đến quá trình điển khiển và công nghệ mang tính trí tuệ, người ta không ngừng thu hút, tổng hợp những kỹ thuật hiện đại để đổi mới, đưa vào điều khiển và hỗ trợ cho quá trình sản xuất từ khâu thiết kế đến khâu chế tạo và phân phối sản phẩm, để tạo nên phương pháp sản xuất có tính kỹ thuật cao, không ngừng đổi mới. Thứ hai, tự động hoá là một phương pháp của quá trình điều khiển có tính mục đích và tính chuyên nghiệp cao. Vốn đầu tư tự động hóa rất cao, nên thời gian thu hồi vốn là yếu tố quan trọng quyết định để doanh nghiệp có tiến hành tự động hóa hay không. Kinh nghiệm trong quá trình quản lý sản xuất là do doanh nghiệp tự tích lũy cho riêng mình, các doanh nghiệp khác nhau có xu hướng phát triển tự động hoá khác nhau. Bởi vậy, tự động hoá có tính chuyên môn cao, đồng thời chính tự động hoá tạo nên sự khác biệt của từng doanh nghiệp, giúp nâng cao tính cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp sản xuất. 8 Thứ ba, công nghệ tự động hóa đã trở thành trọng tâm phát triển kinh tế của các quốc gia, các thiết bị tự động hóa rất đa dạng về cả chất và lượng. Bởi vậy việc thu thập thông tin, nghiên cứu và xử lý dữ liệu đều cần phải có bước tiến dài, mới kịp thời hỗ trợ cho việc thực hiện các chính sách phát triển tự động hoá. Thứ tư, kỹ thuật tự động hoá ảnh hưởng đến tất cả các ngành nghề. Kỹ thuật tiến bộ đáp ứng được sức sản xuất lớn là nguồn gốc chính của phát triển kinh tế lâu dài, đồng thời thường biểu hiện ở nền sản xuất với sản lượng và chất lượng được nâng cao. Về cơ bản, tự động hóa là sự biến đổi kỹ thuật mang tính toàn diện và ảnh hưởng của nó bao trùm lên hầu hết tất cả các ngành sản xuất. Hiệu quả mà nó đạt được cần phải qua sự sáng tạo về kỹ thuật, được áp dụng và phổ cập kỹ thuật mới có thể phát huy được hết. Đồng thời khi các doanh nghiệp quyết định tự động hóa cần phải tính đến nhiều yếu tố để cân bằng kinh tế. Bởi vậy, tự động hoá luôn được các nhà sản xuất tại các quốc gia tiên tiến tính đến khi muốn đổi mới dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh hình ảnh cũng như sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Nhưng khi đầu tư vào thiết bị tự động hoá, các doanh nghiệp cũng cần phải tính đến những vần đề như sau: thiết bị đắt, chi phí đầu tư lớn, bởi vậy phải là các doanh nghiệp có khả năng lớn về vốn mới nên thử nghiệm. Ngoài ra, kỹ thuật tự động hoá yêu cầu đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề vận hành, sử dụng máy móc thiết bị nên mỗi quốc gia để phát triển tự động hoá cần phải đồng thời quan tâm đến sự phát triển của kinh tế xã hội và tuyên truyền giáo dục và đào tạo. 9 1.2 Tình hình kinh tế Đài Loan trước khi thực hiện chính sách phát triển tự động hoá. Vấn đề nhân lực: Cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nền sản xuất Đài Loan đã bắt đầu có những thay đổi, đặc biệt trong vấn đề nhân lực. Trước hết, người lao động tham gia trực tiếp sản xuất ngày càng ít, chi phí đầu tư vào lao động ngày một tăng, vì trong lúc này nền kinh tế Đài Loan đang có sự chuyển dịch lao động lớn từ các ngành sản xuất sang ngành dịch vụ. Tiếp đến là sự gia tăng những tranh chấp giữa người lao động và chủ sử dụng, người lao động có sự so sánh về môi trường làm việc tốt xấu, phúc lợi nhiều ít, lương cao thấp, hơn nữa trình độ giáo dục của người lao động ngày càng nâng cao nên dần dần ít người chịu làm việc trong môi trường độc hại, nguy hiểm và vất vả, dẫn đến việc các ngành tập trung nhiều lao động ngày càng thiếu nhân lực. Hơn nữa, do chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao, người dân cũng càng ngày càng chú trọng vấn đề môi phản đối những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, trong lúc này thị trường lao động Đài Loan bất kể từ chất, lượng, đến cơ cấu lao động và kể cả người lao động cũng có sự thay đổi lớn, khiến cho nền kinh tế Đài Loan trước kia vốn dựa vào giá nhân công rẻ để cạnh tranh trên thị trường quốc tế nay đã mất đi ưu thế cạnh tranh. Đồng lương tăng: Đồng lương thấp là một trong những yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, theo sự phát triển của nền kinh tế và cục diện của thị trường lao động xuất hiện hiện tượng cung không đủ cầu khiến đồng lương tăng vọt, dẫn đến giá thành sản xuất cũng tăng mạnh, kéo theo giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. 10 Giá đất tăng vọt: Giảm thuế đất, thuế sử dụng đất là những ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư của các nước đang phát triển và Đài Loan cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng khi công nghiệp đã phát triển đến một trình độ nhất định, người nông dân dần dần hiểu được những nguồn lợi thu được từ việc phát triển công nghiệp không như họ tưởng thì họ từ ủng hộ chuyển sang đấu tranh, đòi tăng giá đất đền bù. Ngoài ra, với một hòn đảo nhỏ bé mà 75% diện tích là núi như Đài Loan thì giảm giá đất không phải là một ưu thế có thể duy trì lâu. Bởi vậy, giá đất tăng đã ảnh hưởng không tốt đến việc khai thác đất sử dụng khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn. Đồng Đài tệ tăng giá làm giảm sức cạnh tranh những của doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyên sản xuất các mặt hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới, đặc biệt ảnh hưởng đối với những ngành nghề tập trung nhiều lao động. Những ảnh hưởng từ các nền kinh tế bên ngoài Đài Loan Rào cản thương mại: Những năm 1980, môi trường kinh tế chung của cả thế giới có hai trào lưu chính là phát triển với tốc độ chậm và chủ nghĩa bảo hộ mới ngày càng tăng mạnh. Trong thế kỷ XX, thế giới đã trải qua hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ làm suy thoái kinh tế toàn cầu, tiếp đó là thương mại giữa các quốc gia khu vực giảm mạnh, nạn thất nghiệp ngày một nghiêm trọng, sức cạnh tranh trên trường quốc tế giảm sút đã khiến các quốc gia lần lượt áp dụng chính sách bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước. Sự trỗi dậy của các nền kinh tế mới phát triển: giai đoạn cuối Chiến tranh lạnh, đặc biệt là sau khi Chiến tranh kết thúc, các nước thuộc thế giới thứ ba đã dần dần giảm bớt chi phí đầu tư vào quân sự, quan tâm nhiều hơn 11 đến phát triển kinh tế. Bởi vậy, các nền kinh tế tại các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc ngày càng phát triển, tạo nên sự thay thế ưu thế cạnh tranh kinh tế của Đài Loan trên thị trường thế giới. Tất cả những yếu tố nêu trên là những tác động chủ quan và khách quan khiến nền kinh tế Đài Loan đang trên đà phát triển và chiếm ưu thế cạnh tranh trên thế giới đã dần mất sân chơi của mình. Đứng trước nguy cơ bị mất ưu thế cạnh tranh, mất thị trường, Đài Loan buộc phải dựa vào sự thay đổi cơ cấu của các ngành sản xuất để đưa ra những định hướng, chính sách phù hợp thích ứng với tình hình mới. Tóm lại, áp lực để thúc đẩy tự động hoá chính là từ thị trường, sự biến đổi của các ngành nghề và tình hình của cả nền kinh tế tạo nên. Cũng có thể nói đó là những chất xúc tác khiến cho chính quyền Đài Loan phải tìm hướng đi mới, duy trì và đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, cũng bởi vậy tự động hoá tại Đài Loan có những cơ hội để phát triển trong những giai đoạn tiếp theo. 1.3 Quá trình phát triển ngành tự động hoá của Đài Loan. 1.3.1 Khái lược về sự phát triển của kỹ thuật tự động hoá Về bản chất, tự động hoá là một “động thái” trong quá trình phát triển của kỹ thuật, bản thân tự động hoá đã vận động và phát triển theo thời gian và các bước tiến bộ của kỹ thuật, nên phạm vi của tự động hoá tương đối rộng, bao gồm: các thiết bị sản xuất đơn nhất của thời kỳ đầu đến các thiết bị và dây chuyền sản xuất “điều khiển kỹ thuật số điện tử” hết sức phức tạp ngày nay. Bảng 1.1 biểu hiện quá trình phát triển của kỹ thuật và các lớp kỹ thuật từ cơ khí chế tạo đơn giản đến tự động hoá. Trước những năm 1800 là thời 12 đại không sử dụng máy móc, cho đến khi Wasson phát minh ra máy hơi nước là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Đến năm 1850 mới phát triển thành lớp kỹ thuật coi cơ khí làm chủ đạo, năm 1895 từ kỹ thuật cơ điện phát triển thành lớp bán tự động hoá. Những năm từ 1895 đến 1930 do vận dụng sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật điện tử và kỹ thuật nồi hơi tạo thành một lớp tự động hoá vi tính. Năm 1930, xuất hiện rất nhiều các kỹ thuật điện tử và thuỷ lực tạo nên một lớp tự động hoá giá thành rẻ, Sau những năm 1960, ngành tự động hoá dần phát triển bao gồm những kỹ thuật sản xuất như: quản lý kỹ thuật số (NC), quản lý kỹ thuật số trực tiếp (DNC), quản lý kỹ thuật số điện tử (CNC), quản lý thích ứng (AC), công nghiệp robot (IR), hệ thống chế tạo linh hoạt (FMS), máy vi tính điều khiển chế tạo (CIM). Trong đó phân thành hai chủng loại: thứ nhất là hệ thống chế tạo, sản xuất và tác nghiệp tự động hóa, có chức năng tự động hóa quá trình sản xuất từ thiết kế, chế tạo, lắp ráp bao gồm các loại hình tự động hoá: máy tính hỗ trợ chế tạo (CAM), máy tính hỗ trợ thiết kế (CAD) ... Loại hình thứ hai là hệ thống quản lý, thử nghiệm, giám sát quá trình sản xuất làm cho quy trình quản lý sản xuất, thử nghiệm được thực hiện hiệu quả như: hệ thống hoạch định yêu cầu vật tư (MRP). Đến năm 1985, do sự phát triển của kỹ thuật quang điện nên tự động hoá phát triển theo hướng hoàn toàn tự động hóa, trở thành một lớp tự động hoá tích hợp. Bảng 1.1. Sự tiến triển của tự động hoá qua các thời kỳ 13 Tổng hợp Các lớp kỹ thuật Năm Tự động hoá phức hợp Nén khí Thuỷ lực Cơ khí Cơ điện Điện tử Quang điện Máy tính 1985 Tự động hoá vi tính Nén khí Thuỷ lực Cơ khí Cơ điện Điện tử Máy tính 1960 Tự động hoá cơ bản Thuỷ lực Cơ khí Cơ điện Điện tử 1930 Bán tự động hoá Cơ khí hoá Cơ khí Cơ điện Cơ khí 1895 1850 Trước Luỵện khoáng 1800 Cho đến nay, tự động hoá vẫn không ngừng phát triển trở thành nhiều lớp kỹ thuật phức hợp có tác động đến mọi mặt của nền sản xuất từ nông nghiệp, công nghiệp đến thương nghiệp….Có thể nói, kỹ thuật tự động hoá đã phát triển đa dạng, muôn hình vạn trạng vừa rõ nét và vừa âm thầm tác động đến từng lĩnh vực kinh tế xã hội cũng như sự phát triển chung của một quốc gia và toàn thế giới. 1.3.2. Các giai đoạn phát triển tự động hoá của Đài Loan 1.3.2.1. Giai đoạn 1 (1982 – 1990): “kế hoạch 8 năm tự động hoá sản xuất” Từ những năm 70 của thế kỷ trước, Trung tâm nguồn nhân lực thuộc bộ lao động Đài Loan đã phụ trách công tác tự động hoá, đó chính là bước khởi đầu của ngành tự động hoá tại Đài Loan. Nhưng ở giai đoạn này tự động hoá phát triển vẫn chưa thực sự mạnh mẽ do các nguyên nhân sau: thứ nhất, lương nhân công của Đài Loan lúc đó vẫn rất thấp, trong khi thiết bị tự động hoá lại đắt do đó không thu hút được các nhà đầu tư mua sắm, đổi mới thiết bị. Thứ hai, các doanh nghiệp sản xuất vẫn chưa quen với kỹ thuật mới, đồng thời bản thân các kỹ thuật tự động hoá tại Đài Loan chưa thực sự hoàn thiện 14 để có thể ứng dụng rộng rãi, gây nhiều rủi ro cho nhà đầu tư trong vận hành, bảo trì bảo dưỡng máy móc. Bởi vậy, giai đoạn này hiệu quả của tự động hoá chưa có gì đáng kể. Trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước, thế giới đã trải qua cuộc khủng hoảng dầu mỏ ảnh hưởng trực tiếp đến các nền kinh tế. Đồng thời lương công nhân tại Đài Loan ngày một nâng cao, cộng với các yếu tố xã hội khác khiến các doanh nghiệp dần dần quan tâm đến tự động hoá sản xuất. Đứng trước tình hình đó, năm 1979, Đài Loan thực hiện “Kế hoạch đào tạo, tuyên truyền kỹ thuật tự động hoá giá thành thấp” cung cấp dịch vụ kỹ thuật để cải thiện quy trình sản xuất và máy móc. Tháng 5 năm 1979, Viện hành chính Trung ương đưa ra “Dự án phát triển khoa học kỹ thuật” trong đó có bốn công nghệ trọng điểm đó là: công nghệ tự động hoá; công nghệ năng lượng; công nghệ viễn thông; công nghệ nguyên liệu. Chính sách này là sự bắt đầu thúc đẩy công nghệ tự động hoá một cách có hệ thống tại Đài Loan. Tháng 11 năm 1980, Viện trưởng Viện hành chính Đài Loan đã phát biểu ở hội công trình sư, coi tự động hoá là sự phát triển trong tương lai của Đài Loan [23, tr:28]. Đây chính là điểm mốc quan trọng trong quá trình phát triển tự động hoá của Đài Loan, tạo tiền đề cho hàng loạt những chính sách phát triển tự động hoá cũng như ngành tự động hoá của Đài Loan được quan tâm trong một giai đoạn dài liên tục, đưa Đài Loan trở thành một trong những nền kinh tế công nghệ cao phát triển trên thế giới. Tháng 12 năm 1981, kế hoạch 8 năm (1982-1990) phát triển tự động hoá, đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ tích cực công nghệ tự động, cải thiện cơ cấu các ngành sản xuất, khuyến khích và chỉ đạo đổi mới công nghệ và thiết bị, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan