Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyển dịch cơ cấu lao động ở tp. hồ chí minh trong quá trình đô thị hoá...

Tài liệu Chuyển dịch cơ cấu lao động ở tp. hồ chí minh trong quá trình đô thị hoá

.PDF
196
510
93

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chuyển dịch cơ cấu lao động (CCLĐ) trong nền kinh tế nói chung cũng như trong từng nhóm ngành, trong các thành phần kinh tế và không gian lãnh thổ luôn là chủ đề được quan tâm nghiên cứu bởi các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội nói riêng, trong đó có các nhà địa lí học. Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, chuyển dịch CCLĐ được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam nhằm phục vụ đắc lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT). Chuyển dịch CCLĐ vừa là kết quả, vừa là nhân tố thúc đẩy chuyển dịch CCKT, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và góp phần cân đối lại cung – cầu trên thị trường lao động. Quá trình đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra cùng với quá trình CNH - HĐH đất nước. Đô thị hóa có tác động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực đời sống của khu vực đô thị, làm mở rộng quy mô các đô thị, thay đổi cơ cấu đất đai trong đô thị, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch CCKT, đồng thời tác động đến số lượng và chất lượng lao động, làm dịch chuyển lao động giữa các ngành kinh tế, giữa các khu vực kinh tế trong đô thị. Đô thị hóa đã trở thành động lực cho phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. TP. HCM là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, thành phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại đặc biệt, có số dân đứng đầu 63 tỉnh, thành phố (năm 2013 là 7.939,8 nghìn người, chiếm 8,7% dân số cả nước), nguồn lao động dồi dào, trong đó lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là trên 4,0 triệu người (chiếm 7,7% lực lượng lao động cả nước). Thành phố đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại (khu vực nông nghiệp chỉ chiếm 1,0% trong GDP), năng suất lao động, GDP/LĐ tăng nhanh, năm 2013 đạt 212,9 triệu đồng/người (gấp 3,1 lần mức trung bình của cả nước là 68,7 triệu đồng/người), tỉ lệ đô thị hóa cao thứ hai cả nước sau TP. Đà Nẵng (82,4% so với 32,4% của cả nước và 87,3% của TP. Đà Nẵng năm 2013). Quá trình đô thị hóa nhanh cùng với nền kinh tế phát triển mạnh, TP. HCM đã thu hút một lực lượng lao động rất lớn tập trung vào các ngành nghề khác nhau, làm 2 cho lao động tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, CCLĐ cũng có sự chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH. Nhưng hiện nay, TP. HCM vẫn chưa sử dụng một cách hiệu quả nguồn lao động, chất lượng lao động còn hạn chế, tỉ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo có tăng trưởng nhưng chậm và không ổn định (28,3% năm 2005, 27,0% năm 2010 và 31,8% năm 2013, đứng thứ ba cả nước sau Hà Nội và Đà Nẵng). CCLĐ theo ngành chuyển dịch còn chậm, tỉ trọng lao động trong các ngành thâm dụng lao động còn cao; CCLĐ theo không gian cũng đang có nhiều biến động, không chỉ do chuyển dịch CCKT mà còn bị ảnh hưởng bởi thay đổi hành chính và quy hoạch đô thị... Có thể nói lao động và chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM trong quá trình đô thị hóa và trực tiếp là CNH – HĐH có những đặc trưng khác biệt. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hóa” làm luận án Tiến sĩ chuyên ngành Địa lí học. Luận án nhằm nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM nhanh hay chậm, có phù hợp với quá trình chuyển dịch CCKT và định hướng phát triển của thành phố hay không? Trên cơ sở đó rút ra những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình chuyển dịch để có những định hướng và giải pháp giải quyết những vấn đề chưa hoàn thiện, còn tồn tại về CCLĐ và chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM trong quá trình đô thị hóa, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của thành phố trong thời gian tới. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Vận dụng cơ sở lí luận và thực tiễn về cơ cấu lao động, chuyển dịch CCLĐ và quá trình đô thị hóa ở Việt Nam để làm sáng tỏ thực trạng chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM trong quá trình đô thị hóa giai đoạn 1999 – 2013. Trên cơ sở đó đề xuất một số định hướng, dự báo về chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM đến năm 2025 và đưa ra một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động đạt hiệu quả cao trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan chọn lọc những vấn đề lí luận và thực tiễn về chuyển dịch CCLĐ và đô thị hóa để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu. 3 - Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ trong quá trình đô thị hóa ở TP. HCM giai đoạn 1999 – 2013. - Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM trong quá trình đô thị hóa giai đoạn 1999 - 2013. - Dự báo sự chuyển dịch CCLĐ và đề xuất một số giải pháp nhằm chuyển dịch CCLĐ trong quá trình đô thị hóa ở TP. HCM đến năm 2025. 3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 3.1. Về nội dung - Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM theo những nội dung chính: theo nhóm ngành và ngành kinh tế, trong đó tập trung vào một số ngành tiêu biểu; theo thành phần kinh tế; theo lãnh thổ; theo trình độ CMKT và theo tuổi, giới tính. - Các định hướng và giải pháp chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong quá trình đô thị hóa có tính đến mối liên kết, hợp tác trong sử dụng lao động với VKTTĐPN trong tương lai. - Trong luận án, nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ đang làm việc trong các ngành kinh tế (hay lực lượng lao động), các số liệu được công bố chính thức, không nghiên cứu lao động tự do, lao động xuất, nhập cư không chính thức và lao động là người nước ngoài. 3.2. Về không gian - Nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ trên toàn bộ lãnh thổ hành chính hiện tại của TP. HCM gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành. - Do có những thay đổi ranh giới hành chính trong quá trình ĐTH cũng như để làm rõ hơn những đặc trưng khác biệt theo tổ chức không gian đô thị ở TP. HCM, đề tài chia thành ba khu vực đô thị hóa: Khu vực nội đô (gồm 12 quận nội thành cũ Q.1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình); Khu vực vùng ven (gồm 7 quận mới Q.2, 7, 9, 12, Thủ Đức, Bình Tân, Tân Phú); Khu vực ngoại thành (gồm 5 huyện Nhà Bè, Cần Giờ, Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh). - Đề tài có chú ý tới việc liên kết trong sử dụng lao động với các tỉnh lân cận (Bình Dương, Đồng Nai…) và có tính đến tổ chức không gian đô thị Vùng TP. 4 HCM và Vùng KTTĐPN trong tương lai, được thể hiện ở phần định hướng và giải pháp của chương 3. 3.3. Về thời gian - Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong giai đoạn 1999 – 2013 gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ nhất trong giai đoạn này. - Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCLĐ của TP. HCM đến năm 2025. - Trong quá trình nghiên cứu, tác giả thống nhất các mốc năm nghiên cứu để thuận tiện cho việc so sánh và đánh giá gồm 1999, 2000, 2005, 2009 và 2013. Tuy nhiên, do một số nội dung nghiên cứu số liệu có những thay đổi, điều chỉnh cách tính và thu thập nên có sử dụng một số mốc năm khác nhau để nghiên cứu. - Khi nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ theo lãnh thổ, để đảm bảo tính tương thích và đồng nhất về mặt số liệu tác giả sử dụng kết quả tổng hợp từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở TP. HCM năm 1999 và 2009 để nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ của từng quận, huyện và ba khu vực đô thị hóa của thành phố. 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề lao động, CDCCLĐ trong quá trình ĐTH đã được nhiều nhà khoa học và nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu thể hiện qua các công trình khoa học như luận án, sách chuyên khảo, bài viết trên báo, tạp chí, các kỷ yếu hội thảo khoa học… 4.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan Michael Spence, Patricia Clarke, Annez và Robert M. Buckley đồng chủ biên (2010), Đô thị hóa và tăng trưởng [97]. Nội dung thể hiện mối quan hệ giữa quá trình ĐTH và tăng trưởng kinh tế. Theo nhóm tác giả, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững thì các ngành chế tạo và dịch vụ ở khu vực thành thị luôn dẫn đầu, phát triển sản xuất nông nghiệp ở nông thôn với việc áp dụng KHKT đã góp phần giải phóng sức lao động và bộ phận lao động đó sẽ di cư vào đô thị tham gia các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp trong đô thị. Ngoài ra, NSLĐ trong các ngành chế tạo và dịch vụ luôn cao hơn từ ba đến năm lần so với khu vực truyền thống, và vì vậy, để nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn, giải pháp 5 quan trọng là chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp có NSLĐ cao hơn. Nhiêu Hội Lâm (2004), tác giả cuốn Kinh tế học đô thị [38] phân tích 6 nội dung thuộc kinh tế đô thị, trong đó nội dung CCKT đô thị và khu vực kinh tế đô thị đã cung cấp nhiều luận điểm có giá trị. Ông phân chia cơ cấu ngành của đô thị thành ba khu vực sản xuất có quan hệ tỉ lệ cơ cấu và quy luật biến động của nó: tỉ trọng ngành sản xuất thứ nhất giảm khi bước vào thời kì CNH, tỉ trọng ngành sản xuất thứ hai tăng lên nhanh chóng nhưng khi đạt đến giới hạn cuối cùng (không vượt quá 50%) thì bắt đầu giảm thấp, tỉ trọng ngành sản suất thứ ba bắt đầu tăng lên nhanh chóng và chiếm tỉ trọng lớn nhất. Để minh chứng cho những luận cứ của mình, ông đưa nhiều ví dụ về sự phát triển kinh tế trong quá trình ĐTH của các nước phát triển như Anh, Pháp, Mĩ và các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản… trong thời gian qua làm cơ sở thực tiễn. Nolwen Heraff, Jean - Yves Martin biên tập (2001), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới. Cuốn sách là tập hợp bài viết của nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu khái quát về tình hình lao động, việc làm và nguồn nhân lực của nước ta trong giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến năm 2000. Trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, Việt Nam có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào nhưng hạn chế về chất lượng, số lao động chưa qua đào tạo nghề chiếm tỉ lệ khá cao đã ảnh hưởng rất lớn đến phát triển KT - XH nước ta. Ian Coxhead, Diệp Phan cùng các cộng sự (2009), Báo cáo thị trường lao động, việc làm và đô thị hóa ở Việt Nam đến năm 2020: học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế [98]. Thông qua việc nghiên cứu và phân tích quá trình phát triển, lao động và đô thị hóa trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa của các nước NICs, một số nước Đông Nam Á (Malaysia, Thái Lan, Indonesia), Trung Quốc và Ấn Độ đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc sử dụng nguồn lao động trong quá trình đô thị hóa. Đồng thời báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị về chính sách lao động và đô thị hóa cho nước ta từ nay đến năm 2020. Ngân hàng Thế giới với báo cáo hỗ trợ kĩ thuật “Đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam” (2011) [41]. Báo cáo đã phân tích quá trình phát triển của hệ thống đô thị tại 6 Việt Nam thông qua những thay đổi về mặt hành chính, không gian đô thị, kinh tế, dân số và phúc lợi, diễn ra trong toàn bộ hệ thống đô thị của nước ta. Báo cáo cho thấy, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình ĐTH, có sự chuyển đổi kinh tế ngày càng tăng, hướng tới sản xuất công nghiệp tạo ra nhiều việc làm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam do hai hệ thống đô thị Hà Nội và TP. HCM dẫn dắt nhờ tốc độ tăng trưởng cao và sự tập trung hoạt động công nghiệp trong vùng nội đô cũng như các vùng lân cận. Các báo cáo “Điều tra lao động - việc làm Việt Nam” của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê công bố hằng năm cung cấp hệ thống số liệu, dữ liệu và các đánh giá về thực trạng lao động - việc làm hằng năm trên quy mô quốc gia cũng như trong từng tỉnh, thành của cả nước. Đó là nguồn tài liệu, số liệu vô cùng quý giá và bổ ích giúp cho tác giả tham khảo và phục vụ cho luận án của mình khi cần so sánh, đánh giá các vấn đề liên quan đến lao động việc làm của TP. HCM với cả nước và các địa phương khác. Phạm Quý Thọ (2006), Chuyển dịch CCLĐ trong xu hướng hội nhập quốc tế [60]. Tác giả đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lí luận chủ yếu về chuyển dịch CCLĐ như mối quan hệ giữa chuyển dịch CCKT với CCLĐ, bản chất và xu hướng chuyển dịch CCLĐ, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích và đánh giá thực trạng CDCCLĐ của nước ta theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế, vùng lãnh thổ cũng như những thay đổi quan trọng về chất lượng lao động. Đưa ra các phương hướng, quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ ở nước ta trong thời gian tới. Lê Xuân Bá (2006), Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam [2]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cùng cộng sự đã làm rõ các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu như lao động, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; đưa ra những mô hình lý thuyết về mối liên kết giữa hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp (dựa trên lí thuyết hai khu vực của Lewis); phân tích các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Nhóm tác giả tập trung phân tích thực trạng chuyển dịch CCLĐ ở 7 nông thôn Việt Nam từ đầu những năm 1990 trở lại đây, đánh giá những mặt tích cực và tiêu cực, mặt được và chưa được trong quá trình chuyển dịch CCLĐ. Phí Thị Hằng (2014), Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở Thái Bình trong giai đoạn hiện nay [27]. Luận án tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCLĐ theo ngành của Thái Bình trong giai đoạn từ 2001 đến 2012. Về mặt lí luận, tác giả đã làm rõ cơ sở lí thuyết về chuyển dịch CCLĐ theo ngành ở địa bàn cấp tỉnh, đưa ra nội dung và các xu hướng chuyển dịch, đặc biệt tác giả đã đưa ra bộ chỉ tiêu đánh giá quá trình chuyển dịch CCLĐ theo ngành xét về số lượng và chất lượng. Luận án đi sâu vào phân tích sự chuyển dịch lao động trong nội bộ các ngành kinh tế của tỉnh dựa trên các tiêu chí đánh giá xét về quy mô và chất lượng; rút ra những vấn đề còn tồn tại trong quá trình chuyển dịch và nguyên nhân của nó. Để từ đó làm cơ sở đề xuất định hướng và giải pháp thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ theo ngành của tỉnh Thái Bình đến năm 2020. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (2009), Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa [61]. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Hải Dương – một tỉnh trọng điểm của ĐB sông Hồng – nhóm tác giả đã phân tích tác động của đô thị hóa đến vấn đề lao động, việc làm trong nông nghiệp. Quá trình CNH – HĐH cùng với quá trình đô thị hóa làm xuất hiện các KCN, cụm công nghiệp mọc lên khắp nơi, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Người nông dân mất đất, mất tư liệu sản xuất dẫn đến không có việc làm, phải chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp khác. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp lúc này là vấn đề bức thiết. Nhóm tác giả đã đưa ra những giải pháp trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa như giải pháp về quy hoạch, về mở rộng cầu lao động, nâng cao chất lượng lao động,… Nguyễn Thị Hải Vân (2013), Đô thị hóa và việc làm lao động ngoại thành Hà Nội [82]. Trên cơ sở lí luận về tác động của đô thị hóa tới lao động, việc làm ở nông thôn và từ kinh nghiệm thực tiễn của hai thành phố lớn là TP. HCM và thành phố Đà Nẵng trong điều tiết tác động của đô thị hóa tới lao động, việc làm ở nông thôn, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng của thành phố Hà Nội. Ba yếu tố được tác giả 8 làm rõ gồm: tác động đến xu hướng lao động, việc làm ở nông thôn; tác động đến cơ cấu và chất lượng lao động nông thôn ngoại thành; tác động đến việc làm và sinh kế nông thôn ngoại thành. Qua phân tích cho thấy quá trình ĐTH đã làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, làm biến đổi cơ cấu ngành nghề và một bộ phận người dân không có việc làm mới. Người nông dân mất đất phải tự tìm việc làm tự phát, không ổn định và khó khăn khi chuyển qua các ngành nghề mới do không có trình độ CMKT hoặc trình độ tay nghề yếu, họ di cư vào đô thị gây ra nhiều “hệ lụy” nghiêm trọng cho cả khu vực thành thị và nông thôn lên các vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường. Hà Thị Hằng (2013), “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay”[28]. Luận án đã làm rõ những yêu cầu của nguồn nhân lực cho CNH – HĐH gắn với phát triển nền kinh tế tri thức đó là nguồn nhân lực phải đảm bảo đủ về số lượng, có chất lượng cao thể hiện ở thể lực, trí lực, trình độ học vấn, trình độ CMKT và có cơ cấu hợp lí. Tác giả đưa ra bốn xu hướng chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là: (1) xu hướng chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực có trình độ CMKT theo cơ cấu nền kinh tế; (2) xu hướng chuyển dịch theo ngành kinh tế; (3) xu hướng chuyển dịch theo vùng kinh tế và (4) xu hướng chuyển dịch theo thành phần kinh tế. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu cơ sở lí luận về ĐTH và ĐTH ảnh hưởng đến chuyển dịch CCLĐ như Kinh tế đô thị và vùng của tác giả Trần Văn Tấn (chủ biên); Một số vấn đề KT – XH nảy sinh trong quá trình CNH, ĐTH ở Việt Nam do Võ Văn Đức, Đinh Ngọc Giang đồng chủ biên; Dân số và tiến trình đô thị hóa – động thái phát triển và triển vọng của Trần Cao Sơn; tác giả Trương Quang Thao với cuốn Đô thị học – những khái niệm mở đầu; Đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam, báo cáo hỗ trợ kĩ thuật của Ngân hàng Thế giới; Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam của Tổng cục Thống kê; … Các công trình nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về lao động, chuyển dịch CCLĐ như Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động – cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam; Đinh Đăng Định, Một số vấn đề về lao động, việc làm và đời sống 9 người lao động ở Việt Nam hiện nay; Phát huy nguồn lực con người để CNH HĐH: kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam của Vũ Bá Thể (2005); Nguyễn Văn Phúc, Mai Thị Thu (2012), Khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam; Lê Văn Toan với Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hóa; Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (2009), Giáo trình kinh tế nguồn nhân lực; Dân số học đô thị của Trần Hùng; Vũ Thị Kim Cúc với luận án Tiến sĩ Nghiên cứu chuyển dịch CCKT nông nghiệp TP. Hải Phòng (2012)… Các đề tài nghiên cứu và tác phẩm của các tác giả đã khái quát nội dung lí luận về nguồn lao động, chuyển dịch CCLĐ và sử dụng lao động trong quá trình CNH – ĐTH ở nước ta và một số địa phương. 4.2. Các công trình nghiên cứu về lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (2004), Nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động ở TP. HCM [20]. Luận án đã tổng hợp chọn lọc những vấn đề lí luận và thực tiễn về nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích quy mô, cơ cấu, chất lượng nguồn lao động và việc sử dụng nguồn lao động theo các ngành cũng như thành phần kinh tế, tác giả cho thấy TP. HCM có quy mô nguồn lao động lớn nhất cả nước, chiếm 7,7% tổng nguồn lao động cả nước; lao động tập trung chủ yếu ở khu vực công nghiệp và dịch vụ; chất lượng lao động ngày càng được nâng cao, tuy nhiên lao động kĩ thuật cao chủ yếu tập trung ở khu vực kinh tế nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài; tỉ lệ thất nghiệp còn cao; luận án đưa ra các giải pháp nhằm ổn định nguồn lao động và sử dụng lao động một cách có hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế của TP. HCM. Trần Hồi Sinh (chủ nhiệm đề tài) (2006), Chuyển dịch cơ cấu lao động 5 huyện ngoại thành TP. HCM trong quá trình đô thị hoá – thực trạng và giải pháp [48]. Đề tài tập trung nghiên cứu ba vấn đề lớn như sau: làm rõ về mặt lí luận và nội dung cơ cấu lực lượng lao động và chuyển dịch CCLĐ ở 5 huyện ngoại thành; phân tích hiện trạng CCLĐ và chuyển dịch CCLĐ ở 5 huyện ngoại thành, so sánh mối quan hệ giữa chuyển dịch CCKT và CCLĐ để đánh giá những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình chuyển dịch; đề xuất các chính sách, giải pháp để đẩy nhanh 10 việc chuyển dịch CCLĐ 5 huyện ngoại thành theo các mục tiêu phát triển KT - XH của thành phố theo hướng nâng cao chất lượng lao động. Nguyễn Thị Cành (2001), Điều tra nguồn nhân lực trên địa bàn TP. HCM [6]. Dựa trên các kết quả tổng hợp từ hai cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1989 và 1999, công trình nghiên cứu của nhóm tác giả đã xử lí và chọn lọc các số liệu phân tích thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn TP. HCM giai đoạn 1989 – 1999. Công trình đã cung cấp cơ sở hệ thống số liệu quan trọng có liên quan đến thực trạng cung và cầu nguồn nhân lực của thành phố, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM trong giai đoạn tiếp theo. Nguyễn Trần Dương (2006), Hiện trạng cung – cầu nguồn lao động kỹ thuật TP. HCM và định hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai đoạn tới 2010 [21]. Tác giả cùng nhóm cộng sự đã tiến hành khảo sát tại 70 cơ sở sản xuất dịch vụ, 40 cơ sở đào tạo thuộc các thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, liên doanh, 100% vốn nước ngoài) cùng cơ sở dữ liệu điều tra của các công trình có liên quan. Dựa trên kết quả đó, công trình đi sâu phân tích hiện trạng cung – cầu nguồn lao động kĩ thuật TP. HCM, VKTTĐPN và Việt Nam. Qua phân tích cho thấy thị trường lao động TP. HCM phát triển theo quy luật kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập với khu vực và quốc tế. Nguồn lao động và cơ cấu việc làm có sự biến động, số lao động không ổn định việc làm, mất việc làm hằng năm lớn, số lao động có trình độ CMKT còn thiếu. Từ những đặc điểm và quan niệm mới về cung – cầu lao động kĩ thuật trong điều kiện CNH – HĐH, cách mạng KHCN, đưa ra những dự báo về nhu cầu lao động kĩ thuật, các yếu tố ảnh hưởng đến cung – cầu lao động kĩ thuật cũng như xu hướng vận động của cơ cấu lực lượng lao động trên địa bàn TP. HCM. Cao Minh Nghĩa (chủ nhiệm đề tài – 2007), Phân tích các mối quan hệ giữa biến động dân số và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn TP. HCM [42]. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng biến động nguồn lao động, sự thay đổi của cơ cấu lao động về số lượng (ngành kinh tế, thành phần kinh tế) và theo chất lượng (trình độ học vấn, trình độ CMKT), nhóm tác giả đã rút ra một số kết luận về lao động TP. HCM như sau: (1) cơ cấu dân số trẻ, dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỉ trọng lớn; (2) cơ cấu lao động có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, phù hợp với quá 11 trình CNH – HĐH; (3) chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao, tạo thuận lợi để phát triển công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của TP. HCM. Đề tài cũng đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh mối quan hệ giữa dân số, lao động với tăng trưởng kinh tế như giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, giải pháp phát triển các ngành kinh tế, giải pháp giải quyết việc làm và nâng cao năng suất lao động… Trần Hữu Quang (2010), Cư dân đô thị và không gian đô thị trong tiến trình ĐTH ở TP. HCM: thực trạng và dự báo [46]. Đề tài nghiên cứu về mối quan hệ giữa cư dân đô thị với không gian đô thị trong tiến trình ĐTH ở TP. HCM hiện nay với những nội dung chính sau: những đặc điểm của cơ cấu dân số, lao động và gia đình của cư dân đô thị TP. HCM, sự phân bố cư dân trên địa bàn đô thị TP. HCM, không gian cư trú và động thái chuyển dịch nơi cư trú trong những thập niên qua. Nguyễn Long Giao (2013), Phát triển nguồn nhân lực ở TP. HCM trong quá trình CNH – HĐH, luận án đã trình bày, làm rõ hơn mặt lí luận về phát triển nguồn nhân lực; phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở TP. HCM trong thời kì CNH – HĐH. Trên cơ sở đó luận án trình bày phương hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở TP. HCM trong quá trình CNH – HĐH. Một số bài viết trong kỉ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia “20 năm đô thị hóa Nam Bộ - Lí luận và thực tiễn” [77] như “Đô thị hóa và sử dụng đất: phân tích quá trình chuyển đổi đất đai tại TP. HCM giai đoạn 2004 – 2014” của Phạm Thái Sơn; “Tác động của quá trình đô thị hóa đối với lao động nhập cư và biến động việc làm ở TP. HCM” của tác giả Hoàng Văn Khải; Nguyễn Thị Mĩ Linh với bài viết “Vai trò quản lí nhà nước trong kiểm soát quá trình phân bố dân cư tại TP. HCM”… Thông qua bài viết, các tác giả đã phần nào khái quát lại tiến trình đô thị hóa ở TP. HCM trong quá trình phát triển, đánh giá những tác động của quá trình đô thị hóa đến một số vấn đề như phát triển không gian đô thị, sử dụng đất đai, lao động nhập cư, chuyển dịch CCLĐ… Đây là những tài liệu tham khảo hữu ích cung cấp thêm cho tác giả luận án trong quá trình hoàn thiện luận án của mình. 12 Một số công trình nghiên cứu, bài báo, luận án có liên quan đến lao động, chuyển dịch CCKT và CCLĐ ở TP. HCM như Lương Minh Cừ, Đào Duy Huân, Phạm Đức Hải (2013), Chuyển dịch CCKT, mô hình tăng trưởng kinh tế TP HCM và Việt Nam theo hướng cạnh tranh đến năm 2020; Phạm Thị Xuân Thọ (2001) với luận án Di dân ở TP. HCM và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; Thị trường lao động TP. HCM trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và kết quả điều tra doanh nghiệp về nhu cầu lao động của nhóm tác giả do Nguyễn Thị Cành chủ biên (2001); Bạch Văn Bảy (chủ nhiệm đề tài - 1996) với Di dân, nguồn nhân lực, việc làm và đô thị hoá ở TP. HCM; Lê Thị Ngọc Dung (chủ nhiệm đề tài 2014) Lao động trong khu vực phi chính thức TP. HCM nhìn từ góc độ lịch sử, văn hóa – Thực trạng và giải pháp; Đặng Ngọc Tùng với luận án Giải pháp phát triển lực lượng lao động ngành công nghiệp của TP. HCM theo hướng CNH – HĐH; Chính sách tác động tới sự phát triển thị trường sức lao động trên địa bàn TP. HCM trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế (2006) của Đinh Thị Kim Chi; … Một số công trình nghiên cứu về lao động và CCLĐ khu vực vùng ven và ngoại thành TP. HCM trong quá trình ĐTH như Lê Văn Năm (chủ biên) với đề tài Nông dân ngoại thành TP. HCM trong tiến trình ĐTH; Viện Kinh tế TP. HCM hội thảo Nghiên cứu cơ chế chính sách thúc đẩy CDCCLĐ và nâng cao mức sống dân cư ở khu vực nông thôn ngoại thành TP. HCM (2006); Dư Phước Tân (chủ nhiệm đề tài) Các vấn đề KT - XH đặt ra đối với vùng ven trong quá trình ĐTH (2005). Nhìn chung, vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ trong quá trình ĐTH được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu cả về mặt lí luận và thực tiễn trên nhiều khía cạnh khác nhau. Như vấn đề lao động và việc làm trong nền kinh tế thị trường; chuyển dịch CCLĐ ở nông thôn hay khu vực ngoại thành; chuyển dịch CCLĐ theo ngành kinh tế; chiến lược phát triển nguồn lao động, nguồn nhân lực chất lượng cao trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế… Tuy nhiên, còn ít tác giả nghiên cứu kĩ cơ cấu và chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong quá trình đô thị hoá, cũng như đưa ra những giải pháp cho việc sử dụng lao động và chuyển dịch CCLĐ hợp lí, phù hợp với quá trình đô thị hoá ở TP. HCM trong thời kì mới. 13 5. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Quan điểm nghiên cứu 5.1.1. Quan điểm hệ thống Trong quá trình nghiên cứu chuyển dịch CCLĐ tại TP. HCM, quan điểm hệ thống được xem là quan điểm quan trọng. Nguồn lao động là một trong những nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH. Sự phát triển về số lượng và chất lượng LĐ cũng như việc sử dụng LĐ phụ thuộc vào một CCKT hợp lí và một thể chế xã hội nhất định. Vì vậy phải coi các vấn đề lao động như một hệ thống con trong hệ thống KT - XH hoàn chỉnh, luôn vận động và phát triển không ngừng. Trong hệ thống kinh tế - xã hội TP. HCM bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn như hệ thống các ngành kinh tế, hệ thống dân cư, xã hội, đô thị… Trong đó, con người là chủ thể có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Bởi vậy, nghiên cứu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động TP. HCM phải xem xét nó trong một hệ thống hoàn chỉnh, thống nhất và không tách rời với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Đồng thời TP. HCM còn là một bộ phận của hệ thống lớn hơn thuộc vùng Đông Nam Bộ, VKTTĐPN và cả nước. Vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu lao động của TP. HCM có ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh thành lân cận và với đất nước. 5.1.2. Quan điểm lãnh thổ Nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của TP. HCM phải được đặt trong bối cảnh công nghiệp hóa - đô thị hoá và phát triển kinh tế - xã hội của TP. HCM với những đặc thù của lãnh thổ về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, lịch sử phát triển, định hướng phát triển… Trên cơ sở đó đưa ra những tiêu chí đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động và những nhận định, giải pháp phù hợp với quá trình phát triển của thành phố. Ngoài ra, việc nghiên cứu vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ của thành phố không thể tách rời vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ của các tỉnh lân cận, vùng Đông Nam Bộ, VKTTĐPN và cả nước. Vì nguồn lao động TP. HCM là một bộ phận trong nguồn lao động của Vùng và cả nước. Từ việc xem xét với các bộ phận lãnh thổ khác, sẽ xác định được những đặc trưng riêng phải giải quyết trong điều kiện cụ thể của thành phố. 14 5.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh Sự phát triển của dân số, kinh tế - xã hội trong quá khứ và hiện tại ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động trong hiện tại cũng như tương lai. Việc nghiên cứu vấn đề lao động trong mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian. Vận dụng quan điểm lịch sử - viễn cảnh trong việc nghiên cứu, luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCLĐ trong từng giai đoạn lịch sử nhất định phù hợp với chính sách, định hướng phát triển của thành phố qua các kì Đại hội Đảng bộ và gắn với quá trình ĐTH. Trong đó, luận án cũng đặc biệt chú ý đến các thời điểm lịch sử quan trọng và những biến động KT-XH có tác động đến phát triển kinh tế của TP. HCM như hình thành các KCN – KCX, quá trình gia nhập WTO… Từ thực trạng của hiện tại để hướng đến tương lai, đưa ra những định hướng và dự báo thay đổi CCLĐ trong tương lai gắn liền với quá trình CNH - ĐTH. 5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững Phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động phải đi đôi với sử dụng hợp lý, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Vì vậy, chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM phải được xem xét trong mối quan hệ với chuyển dịch CCKT, trong mối quan hệ với sự thay đổi NSLĐ để đảm bảo sự phát triển bền vững trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường, đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống người lao động trong quá trình nghiên cứu. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu Trên cơ sở thu thập, tổng hợp tài liệu từ các nguồn tài liệu thứ cấp giúp tác giả tổng quan được các vấn đề lí luận để tạo nên cơ sở lí thuyết cho luận án. Các tài liệu về kinh tế và lao động của thành phố giúp tác giả phân tích sâu hơn về thực trạng chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM và rút ra những vấn đề chung trong quá trình chuyển dịch. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cố gắng đối chiếu các tài liệu thuộc các nguồn khác nhau; sắp xếp, so sánh và hệ thống hóa để tìm ra các số liệu hợp lí, logic phù hợp với nội dung nghiên cứu của luận án. 15 5.2.2. Phương pháp thực địa Phương pháp thực địa là phương pháp truyền thống và cơ bản trong nghiên cứu địa lí. Để có những số liệu bổ sung và có những luận cứ đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội và chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM, ngoài số liệu thống kê thu thập được tác giả còn tiến hành thực địa tại một số địa bàn quận, huyện như Quận 9, Thủ Đức, Bình Tân, huyện Bình Chánh, Hóc Môn. Đây là những địa bàn đang diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh, CCLĐ chuyển dịch nhanh chóng để đối chiếu, so sánh với những kết quả mà tác giả phân tích thông qua cơ sở dữ liệu đã thu thập được. Kết quả thu thập là cơ sở đánh giá tổng hợp ban đầu, thẩm định lại những nhận định, dự báo trong quá trình nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ đề tài. 5.2.3. Phương pháp thống kê Các tài liệu thống kê đảm bảo giá trị pháp lí và tính khoa học được triệt để khai thác phục vụ cho việc nghiên cứu của luận án. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã thu thập, tổng hợp, xử lí trên cơ sở dữ liệu và kết quả của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam và TP. HCM năm 1999 và 2009, các số liệu thống kê kinh tế - xã hội của Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê TP. HCM, các số liệu lao động của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP. HCM, Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP. HCM thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP. HCM cũng như từ các cơ quan quản lí của thành phố. Tác giả cũng sử dụng các nguồn số liệu của các tổ chức, ban ngành, viện nghiên cứu, số liệu thống kê về kinh tế - dân cư - lao động của các vùng và các địa phương khác để phân tích, so sánh khi cần làm sáng tỏ vị trí của thành phố so với cả nước hoặc các tỉnh thành lân cận. 5.2.4. Phương pháp bản đồ - GIS Đây là phương pháp đặc trưng của nghiên cứu địa lí. Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả dựa trên cơ sở dữ liệu đã có thành lập nhiều biểu đồ, đồ thị và bảng số liệu minh chứng để thể hiện thực trạng, các mối liên hệ, tác động qua lại giữa phát triển kinh tế với vấn đề lao động và chuyển dịch CCLĐ của thành phố. Dựa trên phần mềm MapInfo, tác giả thành lập một số bản đồ thể hiện sự thay đổi về phân bố lao động theo không gian và thời gian của TP. HCM trong quá trình ĐTH. 16 5.2.5. Phương pháp dự báo Đây là giai đoạn khái quát hóa, hệ thống hóa thông tin ở mức cao nhằm xác định một vấn đề trong tương lai. Phương pháp dự báo mang tính chất phức tạp và tính xác suất, tính chính xác của dự báo còn phụ thuộc vào mối quan hệ với sự biến động kinh tế - xã hội của thành phố. Dựa trên cơ sở quy mô phát triển kinh tế GDP và mức tăng năng suất lao động để đưa ra dự báo sự chuyển dịch cơ cấu lao động của TP. HCM và một số nhận định về quá trình đô thị hóa của thành phố. 6. Đóng góp mới của luận án - Đúc kết có chọn lọc trên cơ sở tổng quan và kế thừa cơ sở lí luận và thực tiễn về lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động và đô thị hóa. Lựa chọn được các tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động để vận dụng vào trường hợp TP. HCM. - Phân tích và làm rõ được các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình đô thị hóa ở địa bàn nghiên cứu giai đoạn 1999 - 2013. - Phân tích được thực trạng CDCCLĐ ở TP. HCM trong quá trình ĐTH giai đoạn 1999 – 2013 theo nội dung chủ yếu là CDCCLĐ theo nhóm ngành và ngành kinh tế, theo thành phần kinh tế, theo trình độ CMKT, theo tuổi, giới tính và chuyển dịch phân theo lãnh thổ với ba khu vực đô thị là nội đô, vùng ven và ngoại thành. Trên cơ sở đó đã đánh giá những kết quả cũng như hạn chế của sự chuyển dịch. - Đề xuất được các nhóm giải pháp thúc đẩy chuyển dịch CCLĐ ở TP. HCM trong tương lai trên cơ sở mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá từ những kết quả nghiên cứu trong quá trình đô thị hóa đến năm 2025. 7. Cấu trúc luận án Luận án “Chuyển dịch cơ cấu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hóa” ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu lao động và đô thị hóa. - Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM trong quá trình đô thị hóa. - Chương 3: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM trong quá trình đô thị hóa đến năm 2025. 17 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG VÀ ĐÔ THỊ HÓA 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Một số khái niệm về lao động, cơ cấu lao động và chuyển dịch CCLĐ 1.1.1.1. Lao động  Lao động Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã hội. Theo C.Mác thì “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”[82, tr.22]. Để sản xuất ra của cải vật chất xã hội con người phải dùng sức lao động của mình kết hợp với công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hoá và xã hội. Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích của con người, thông qua hoạt động lao động con người sử dụng công cụ lao động tác động đến đối tượng lao động nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất, tinh thần phục vụ cho nhu cầu của bản thân và xã hội.  Nguồn lao động Nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần phục vụ cho nhu cầu của xã hội, có ảnh hưởng đến việc sử dụng các nguồn lực khác. Trong dân số, không phải tất cả mọi người đều có thể tham gia sản xuất mà chỉ một bộ phận dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định. Có nhiều khái niệm về nguồn lao động như sau: Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân [39, tr.143]. 18 Nguồn LĐ là toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi LĐ có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc [80, tr.95]. Trong luận án, nguồn lao động được hiểu là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động (ở nước ta quy định nam từ 15 – 60 tuổi và nữ từ 15 – 55 tuổi) có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Về mặt số lượng: nguồn lao động bao gồm: - Những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm. - Những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ Luật lao động). Về mặt chất lượng: nguồn lao động được đánh giá dựa trên trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, tay nghề, sức khỏe, ý thức, kinh nghiệm của người lao động. Cần phân biệt rõ giữa nguồn lao động và dân số trong độ tuổi lao động. Nguồn lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động (dân số từ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong tuổi lao động có khả năng lao động). Dân số trong độ tuổi lao động bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động theo quy định (nam 15 – 60 tuổi, nữ 15 – 55 tuổi) có khả năng lao động và không có khả năng lao động (tàn tật, mất sức lao động bẩm sinh hoặc mất sức lao động do chiến tranh, tai nạn, nghề nghiệp…). Nguồn lao động được chia thành hai bộ phận: dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. - Dân số hoạt động kinh tế (hay là lực lượng lao động) Dân số hoạt động kinh tế (hay còn gọi là lực lượng lao động) bao gồm những người đang làm việc và cả những người không có việc làm (thất nghiệp) nhưng đang tích cực tìm việc làm trong một ngành nào đó của nền kinh tế trong một khoảng thời gian xác định [80, tr.96]. 19 Trong Báo cáo điều tra lao động – việc làm 2013 của Tổng cục Thống kê thì “Lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người đang làm việc và thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên”[74]. Trong Niên giám thống kê Việt Nam 2013, Tổng cục Thống kê đưa ra khái niệm “Lực lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế hiện tại) bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm (đang làm việc) và những người thất nghiệp trong khoảng thời gian xác định”[70]. Trong luận án này, dân số hoạt động kinh tế (hay lực lượng lao động) bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người không có việc làm (đang thất nghiệp) nhưng có nhu cầu làm việc và đang tích cực tìm kiếm việc làm. - Dân số không hoạt động kinh tế Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người trong độ tuổi lao động không tham gia hoạt động kinh tế. Những người này không hoạt động kinh tế vì đang đi học (học sinh, sinh viên); đang làm công việc nội trợ cho bản thân và gia đình, không có thu nhập; không có khả năng lao động (ốm đau, tàn tật…) và những người không có nhu cầu làm việc (được hưởng lợi tức, thu nhập mà không phải làm việc…) [20], [80]. Bảng 1.1: Nguồn lao động và dân số hoạt động kinh tế Trong độ tuổi lao động Không có khả năng lao động Không có nhu cầu việc làm Nội trợ Đi học Dân số không hoạt động kinh tế Thất nghiệp Ngoài độ tuổi lao động Đang làm việc Trên Lao Trên Dưới tuổi lao động tuổi lao tuổi lao động trẻ em động động đang không không làm làm làm việc việc việc Dân số hoạt động kinh tế Nguồn lao động Nguồn: [80, tr.114] Như vậy, quy mô nguồn lao động luôn lớn hơn lực lượng lao động, nguồn lao động là cung tiềm năng về lao động còn lực lượng lao động là cung thực tế về lao động. Nhìn chung, lực lượng lao động có sự khác nhau về cơ cấu tuổi, giới tính, 20 thành thị và nông thôn, giữa các nước và khu vực với trình độ phát triển KT – XH khác nhau. Điều này phụ thuộc vào cơ cấu tuổi của dân số, đặc điểm KT – XH và khả năng tạo việc làm cho những người trong độ tuổi lao động. Đây là bộ phận tích cực và năng động nhất của dân số và là lực lượng quyết định cho sự phát triển của một quốc gia.  Việc làm Trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2012), tại điều 9 chương II đã định nghĩa việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm [95]. Theo Tổng cục Thống kê trong Báo cáo điều tra lao động – việc làm 2013 thì “Việc làm là mọi hoạt động lao động từ 1 giờ trở lên tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm”[74]. Như vậy, việc làm là tất cả các hoạt động của người lao động trong những ngành nghề nhất định, không bị pháp luật ngăn cấm, nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế trong thời điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc [20, tr.17]. Như vậy, thất nghiệp là những người có khả năng LĐ, có nhu cầu LĐ nhưng hiện tại không có việc làm, đang tích cực tìm việc hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc.  Năng suất lao động Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao động để sản xuất ra nó. Năng suất lao động được đo bằng tổng sản phẩm trong nước tính bình quân cho một lao động trong một thời kì nhất định, thường là một năm [87, tr.46]. Năng suất lao động phản ánh yếu tố chất lượng người lao động, đến cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Năng suất lao động trong ngành chế tạo và các dịch vụ cao cấp thường cao hơn rất nhiều so với ngành nông nghiệp. Có hai cách để tăng năng suất lao động: Một là, tăng hiệu quả của các ngành kinh tế bằng cách áp dụng công nghệ mới, nâng cấp máy móc và đầu tư vào đào tạo kỹ năng và đào tạo nghề. Tuy nhiên, năng suất lao động có thể tăng nhiều nhất bằng cách thứ hai, chuyển
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan