Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước trong ...

Tài liệu Công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ( nghiên cứu thực tế ở tỉnh hà tĩnh)

.PDF
112
832
88

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ NGUYỄN ĐỨC THẠCH CÔNG ĐOÀN BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, HỘI NHẬP QUỐC TẾ (NGHIÊN CỨU THỰC TẾ Ở TỈNH HÀ TĨNH) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ NGUYỄN ĐỨC THẠCH CÔNG ĐOÀN BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, HỘI NHẬP QUỐC TẾ (NGHIÊN CỨU THỰC TẾ Ở TỈNH HÀ TĨNH) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng Hà Nội - 2014 ỜI Tôi xin cam rằng: Luận văn Thạc sĩ Chính trị học: “Công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế” (nghiên cứu thực tế ở tỉnh Hà Tĩnh) là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng. Những số liệu, tài liệu trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng và tin cậy. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khác./. Tác giả luận văn guyễn ức Thạch i ỜI Ả Ơ Tôi xin trân trọng gửi đến các quý thầy cô giáo trong Khoa Khoa học Chính trị (Trường ĐHKHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội), Đại học Hà Tĩnh lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc về quá trình đào tạo trong suốt 2 năm học Cao học vừa qua. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn về sự chỉ bảo tận tình và chu đáo của thầy giáo hướng dẫn - Thầy PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng; sự hỗ trợ, động viên của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến cơ quan: Thư viện Quốc gia, Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư viện tỉnh Hà Tĩnh, Liên đoàn Lao động tỉnh Hà Tĩnh… đã cung cấp những tài liệu quan trọng, quý báu cho tôi hoàn thành đề tài. Học viên guyễn ức Thạch ii Ụ Ụ Ở ẦU .........................................................................................................1 hƣơng 1. Ơ SỞ Ý UẬ VỀ H ẠT Ộ G BẢ VỆ QUYỀ ỢI GƢỜI Ộ G Ủ Ô G À .................................................6 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa ác- ê nin, tƣ tƣởng Hồ hí inh và ảng ta về vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức ông đoàn.....................6 1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về công đoàn và tæ chøc công đoàn .........................................................................................................6 1.1.2. T- t-ëng Hå ChÝ Minh vÒ công đoàn vµ tæ chøc công đoàn .................10 1.1.3. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ......................................................................................12 1.1.4. Vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ của Công đoàn trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước ....................................................................................15 1.2. ột số khái niệm có liên quan .................................................................. 20 1.2.1. Khái niệm c¸n bé công đoàn ........................................................................... 20 1.2.2. Khái niệm người lao động, quyền, nghĩa vụ của người lao động ..........21 1.2.3. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người lao động ..........................................21 1.2.4. Khái niệm doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước .... 22 1.2.5. Khái niệm công đoàn cơ sở ...................................................................22 1.2.6. Khái niệm Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở .....................................23 1.3. ác nhân tố ảnh hƣởng tới việc bảo vệ quyền lợi ngƣời lao động của công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc ............................23 1.3.1. Nhân tố chủ quan ...................................................................................23 1.3.2. Nhân tố khách quan ...............................................................................23 hƣơng 2. THỰ TRẠ G Ô G À BẢ VỆ QUYỀ ỢI GƢỜI Ộ G TẠI D H GHIỆP G ÀI HÀ ƢỚ Ở TỈ H HÃ TĨ H .........................................................................................25 2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của ông đoàn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ...................................................................................................25 2.1.1. Tình hình công nhân, lao động tỉnh Hà Tĩnh ........................................25 2.1.2. Đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động và các hoạt động xã hội ................................................................................................................27 iii 2.2. Thực trạng công đoàn bảo vệ quyền lợi ngƣời lao động ở các doanh nghiệp ngoài hà nƣớc trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh .........................30 2.2.1. Công đoàn thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động ..........................30 2.2.2. Công đoàn tham gia kiểm tra, giám sát thi hành các quy định của pháp luật lao động, các chính sách, chế độ liên quan đến người lao động ....36 2.2.3. Công đoàn thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể .................40 2.2.4. Công đoàn tham gia hoạt động quản lý, sử dụng lao động ..................43 2.2.5. Công đoàn tham gia đẩy mạnh công tác Bảo hộ lao động ...................48 2.2.6. Công đoàn tham gia giải quyết tranh chấp lao động và đình công ......51 2.2.7. Công đoàn tổ chức nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động ...........................................................................................................53 2.3. ánh giá thực trạng công đoàn bảo vệ quyền lợi ngƣời lao động trong các doanh nghiệp ngoài hà nƣớc trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ........57 2.3.1. Về ưu điểm .............................................................................................58 2.3.2. Về hạn chế ..............................................................................................64 2.3.3. Nguyên nhân ..........................................................................................66 hƣơng 3. PHƢƠ G HƢƠ G, GIẢI PHÁP Â G V I TRÒ Ủ Ô G À TR G VIỆ BẢ VỆ QUYỀ ỢI GƢỜI Ộ G TẠI D H GHIỆP G ÀI HÀ ƢỚ Ủ Ô G À TỈ H HÀ TĨ H ...................................................................68 3.1. Phƣơng hƣớng, mục tiêu bảo vệ quyền lợi ngƣời lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc của công đoàn tỉnh Hà Tĩnh ......................68 3.1.1. Phương hướng .......................................................................................68 3.1.2. Mục tiêu .................................................................................................69 3.2. Giải pháp bảo vệ quyền lợi ngƣời lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc của công đoàn tỉnh Hà Tĩnh ..............................................73 3.2.1. Về các quy định của pháp luật ...............................................................73 3.2.2. Về tổ chức thực hiện ..............................................................................80 3.2.3. Khuyến nghị ...........................................................................................85 KẾT UẬ .....................................................................................................89 D H Ụ TÀI IỆU TH KHẢ .....................................................91 PHỤ Ụ ........................................................................................................95 iv D H Ụ Á HỮ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm Y tế H Hợp đồng lao động BH Bảo hộ lao động TƢ TT Thỏa ước lao động tập thể Nxb Nhà xuất bản CT-XH Chính trị xã hội Công nhân lao động Liên đoàn Lao động Công nhân, viên chức, lao động V TVS -PCCN An toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ BHTN Bảo hiểm thất nghiệp KT-XH Kinh tế- xã hội XHCN Xã hội chủ nghĩa S Công đoàn cơ sở UBND Ủy ban Nhân dân v Ở ẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển nhất là doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần trong những năm qua cho thấy, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển nhanh của các doanh nghiệp ngoài nhà nước trong thời gian qua đã mang lại hiệu quả to lớn. Đặc biệt là huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển đất nước, tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại tiên tiến, xây dựng kết cấu hạ tầng, tăng tích lũy cho ngân sách nhà nước, có ý nghĩa then chốt trong giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, đào tạo phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động sâu sắc làm chuyển dịch cơ cấu giai cấp công nhân nước ta. Cơ cấu, chất lượng đội ngũ công nhân lao động ở nước ta ngày càng phát triển phong phú, đa dạng và đang thay đổi nhanh chóng. Bên cạnh sự thay đổi mang tính tích cực đã có nhiều bất cập xẩy ra: Về việc làm, đời sống công bằng xã hội, quan hệ chủ thợ v.v… nhiều chủ doanh nghiệp trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã không chấp hành, đã không làm đúng các quy định của pháp luật lao động, vi phạm quyền lợi của người lao động như việc làm, tiền lương, BHXH, BHYT, giao kết HĐLĐ, BHLĐ, ký kết TULĐTT, điều kiện làm việc cho người lao động. Vì vậy đã phát sinh nhiều mâu thuẫn trong quan hệ lao động, tình trạng tranh chấp lao động và đình công của các công nhân lao động trong các doanh nghiệp ngày càng gia tăng và có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là trong các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước. Công đoàn bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động đã được quy định trong các văn bản pháp luật của nhà nước như Hiến pháp, Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trên thực tế trong 1 những năm qua vai trò của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn mờ nhạt. Do đó, nâng cao vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp đang là vấn đề cần được quan tâm. Xuất phát từ các lý do trên, qua tìm hiểu, nghiên cứu lý luận và thực tiễn tổ chức, hoạt động công đoàn, với trách nhiệm của một cán bộ chuyên trách Công đoàn, sau khi được học tập, nghiên cứu chương trình Cao học tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi chọn đề tài “Công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế” (nghiên cứu thực tế ở tỉnh Hà Tĩnh) làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ ngành Chính trị học của mình với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đồng thời nhằm bổ sung, nâng cao kiến thức về lý luận và thực tiễn cũng như hiệu quả công tác cho bản thân, góp phần đẩy mạnh phong trào công nhân, viên chức lao động và hoạt động công đoàn của tổ chức Công đoàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bảo vệ quyền lợi ích, hợp pháp, chính đáng của người lao động là một trong những chức năng cơ bản nhất của tổ chức công đoàn. Xây dựng tổ chức công đoàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài nhà nước là vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước và các cấp công đoàn quan tâm. Thời gian qua, công tác này đã có những chuyển biến nhất định. Tuy nhiên, do đây là một vấn đề mới đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu sắc nhằm làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn. Để đáp ứng được yêu cầu đó đã có một số nghiên cứu vấn đề này như: “Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động công đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh” của Ban Tổ chức Tổng Liên đoàn, xuất bản năm 1997; đề tài “Tổ chức và hoạt động công đoàn trong công ty cổ phần” do Trường Đại học Công đoàn nghiên cứu, năm 2001; “Nâng cao hiệu quả hoạt động của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” 2 Dương Văn Sao, (2003); “Hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh”, Trường Đại học Công đoàn Việt Nam tr.169, Nxb Lao động, Hà Nội (2006); “Báo cáo kết quả khảo sát thực tế về quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Viện Công nhân và Công đoàn Việt Nam, Hà Nội (2007); “Công đoàn với chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong cơ chế thị trường ở Việt Nam”, Viện nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, (2008). Tuy vậy, các công trình, bài viết nói trên chỉ đi sâu nghiên cứu vai trò của công đoàn trong doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng, hoặc trong phạm vi hẹp hơn (giải quyết tranh chấp lao động…), hoặc chỉ tập trung vào việc tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công đoàn trong các doanh nghiệp mà không đề cập đến thực trạng hoạt động của công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng như vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước. Chính vì vậy việc nghiên cứu một cách sâu sắc, có hệ thống và đầy đủ vấn đề “Công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế” (nghiên cứu thực tế ở tỉnh Hà Tĩnh) mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. ục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích vai trò của công đoàn trong bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua; làm rõ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn trên địa bàn tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 3 3.2. Nhiệm vụ Nghiên cứu - Nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Hà Tĩnh. - Đánh giá những ưu điểm, nhược điểm trong việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền lợi người lao động của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Hà Tĩnh. - Đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước. 4. ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng về vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo về quyền lợi của người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, kết hợp việc tham khảo tổng hợp các ý kiến của một số cán bộ công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, các nhà quản lý nhằm đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả, vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: 4.2.1. Về nội dung: Vai trò của công đoàn trong doanh nghiệp ngoài nhà nước có nội hàm rất rộng, trong điều kiện thời gian và tài liệu có hạn, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước. 4.2.2. Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 4.2.3. Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2008 - 2013. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. 4 - Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, điều tra Xã hội học, phương pháp quan sát được sử dụng phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực nghiên cứu của đề tài để thực hiện được nhiệm vụ và đạt được mục đích mà luận văn đề ra. 6. óng góp và ý nghĩa của luận văn - Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề thuộc về lý lý luận của chủ nghĩa MácLênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công đoàn, vai trò của công đoàn và vận dụng những quan điểm lý luận trên vào nghiên cứu vai trò của công đoàn trong bảo vệ quyền lợi của người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Hà Tĩnh. - Phân tích thực trạng hoạt động của công đoàn trong doanh nghiệp ngoài nhà nước hiện nay. Qua đó góp phần đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động, đồng thời góp phần hoàn thiện hệ thống chính trị, phát triển đất nước, địa phương theo hướng ổn định vững chắc. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho cán bộ công đoàn các cấp hoạt động, phục vụ công tác giảng dạy tại các trường đào tạo cán bộ công đoàn các cấp và những ai quan tâm đến hoạt động công đoàn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương, cụ thể như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động bảo về quyền lợi người lao động của Công đoàn. Chương 2: Thực trạng Công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp ngoài nhà nước của công đoàn tỉnh Hà Tĩnh. 5 hƣơng 1 CƠ SỞ Ý UẬ VỀ H ẠT Ộ G BẢ GƢỜI Ộ G Ủ 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa ác - VỆ QUYỀ Ô G ỢI À ênin, tƣ tƣởng Hồ hí inh và ảng ta về vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức ông đoàn 1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về công đoàn và tæ chøc công đoàn. C.Mác và Ph.Ănghen là lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới, là những người đầu tiên phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chỉ ra đấu tranh giai cấp vừa là quy luật vừa là động lực phát triển của lịch sử xã hội loài người khi xã hội phân chia thành giai cấp. Trong học thuyết của mình, các ông đã nhiều lần đề cập đến vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn, đến tính tất yếu phải thống nhất hoạt động Công đoàn đặt dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp vô sản. Khi bàn về Công đoàn, Mác-Ănghen viết: “Các công đoàn đã trở thành trung tâm tổ chức đối với giai cấp công nhân. Nếu công đoàn cần thiết cho công cuộc đấu tranh du kích giữa tư bản và lao động thì công đoàn lại càng quan trọng hơn với tư cách là lực lượng có tổ chức để tiêu diệt bản thân chế độ lao động làm thuê và quyền lực của chủ nghĩa tư bản. Nhiệm vụ chính là giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân, các tổ chức công đoàn phải rèn luyện để hoạt động một cách tự giác với tư cách là trung tâm tổ chức giai cấp công nhân. Các công đoàn phải ủng hộ mọi phong trào xã hội và chính trị nhằm mục tiêu ấy. Tự coi mình là đại biểu của toàn bộ giai cấp công nhân và chiến đấu cho giai cấp đó, các công đoàn phải thu hút vào hàng ngũ của mình cả những công nhân chưa đứng trong tổ chức. Các công đoàn phải làm cho toàn thế giới tin rằng mình chiến đấu không phải vì những quyền lợi cá nhân hẹp hòi, mà là để giải phóng hàng triệu người bị áp bức”[1, tr. 236]. Phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa C.Mác trong điều kiện mới của lịch sử, V.I. Lênin đã hoàn thiện lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, học thuyết về Đảng và Nhà nước, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa 6 cộng sản, những vấn đề thuộc lý luận và thực tiễn hoạt động của công đoàn. Cụ thể hoá những nguyên tắc về chiến lược, chiến thuật của phong trào công nhân của Đảng cách mạng, của giai cấp công nhân và các tổ chức của nó đã được C.Mác và Ăngghen đề ra. V.I. Lênin đã phát triển và hoàn thiện học thuyết về công đoàn, chỉ rõ vị trí, vai trò, xác định chức năng nhiệm vụ, phương pháp hoạt động của công đoàn trong điều kiện chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa công đoàn với Đảng của giai cấp công nhân, công đoàn với Nhà nước chuyên chính vô sản. V.I.Lênin là người kế tục và phát triển sáng tạo học thuyết Mác trong điều kiện lịch sử Chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản, bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở những nguyên tắc về chiến lược, chiến thuật của phong trào công nhân và tổ chức của nó đã được Mác và Ănghen đề ra, Lênin đã phát triển và hoàn chỉnh học thuyết về Công đoàn. Người chỉ rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp hoạt động của Công đoàn trong điều kiện chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Công đoàn với Đảng của giai cấp công nhân, Công đoàn với Nhà nước chuyên chính vô sản. Trong diễn văn đọc tại phiên họp liên tịch của các đảng đoàn Đảng cộng sản Nga tại Đại hội VIII các Xô viết toàn Nga, ngày 30/12/1920 ở Matxcơva, Lênin đã chỉ rõ: “…công đoàn không phải là một tổ chức nhà nước, không phải là tổ chức cưỡng bức, nó là một tổ chức giáo dục, thu hút, huấn luyện, nó là một trường học, trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học chủ nghĩa cộng sản”[1, tr.249]. Công đoàn có vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội, đặc biệt đối với xây dựng và phát triển giai cấp công nhân. Lênin khẳng định: “Đối với giai cấp vô sản công nghiệp, công đoàn không phải chỉ là một tổ chức tất yếu về mặt lịch sử, mà còn là một tổ chức không thể không có được về mặt lịch sử; và trong điều kiện chuyên chính vô sản, tổ chức đó bao gồm hầu hết giai cấp vô sản công nghiệp”[1, tr.249]. Theo Lênin: “Trong hệ thống chuyên chính vô sản, Công đoàn có vị trí ở giữa Đảng và chính quyền Nhà nước…Công đoàn tạo ra mối liên hệ giữa đội tiên phong với quần chúng; công đoàn lấy công tác hàng ngày để thuyết phục quần chúng, quần chúng của giai cấp duy nhất có khả năng đưa chúng ta từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”[1, tr.250]. 7 Vấn đề vị trí của Công đoàn trong điều kiện chế độ xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lý luận quan trọng nhất trong học thuyết của Lênin về Công đoàn. Việc xác định đúng vị trí của Công đoàn gắn liền với vấn đề nhận thức sâu sắc về tính chất, vai trò của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị - xã hội, qua đó, xác định được nhiệm vụ của Công đoàn trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bài phát biểu cũng như các tác phẩm của V.I. Lênin về Công đoàn sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga như: “Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết” (1918 và 1920), “dự thảo đề cương về vai trò, nhiệm vụ của Công đoàn trong điều kiện thực hiện chính sách kinh tế mới” (1922), “thư gửi Đại hội V Công đoàn Nga” (1922)… V.I.Lênin cho rằng: “các công đoàn đã trở thành tổ chức của giai cấp lãnh đạo, thống trị nắm chính quyền của giai cấp, thực hiện nền chuyên chính của giai cấp, thực hiện cưỡng chế của Nhà nước”. Vấn đề vị trí của công đoàn trong điều kiện chế độ xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề lý luận quan trọng nhất trong học thuyết của V.I. Lênin về công đoàn. Việc xác định đúng đắn vị trí của công đoàn gắn liền với vấn đề nhận thức sâu sắc về vai trò của tổ chức công đoàn trong hệ thống chính trị xã hội, trên cơ sở đó xác định được nhiệm vụ của công đoàn trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng: Công đoàn theo vị trí của mình trong hệ thống chuyên chính vô sản đứng ở chỗ nếu như có thể nói được là: “Giữa Đảng và chính quyền Nhà nước”. Dưới chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, vị trí của công đoàn khác nhau căn bản: Sự khác nhau đó là do quan hệ sản xuất mới, do vị trí mới của giai cấp công nhân trong nền sản xuất xã hội quyết định. Dưới chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một hình thức tổ chức của giai cấp công nhân, Công đoàn đã trở thành một thành viên quan trọng trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Khi nói về vị trí của Công đoàn trong hệ thống chính trị - xã hội của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. V.I. Lênin cho rằng: “trong hệ thống chuyên chính vô sản Công đoàn có một vị trí ở giữa Đảng và chính quyền Nhà nước” và là chỗ dựa vững chắc của chính quyền và Nhà nước. Nhận thức đúng đắn về vị trí của công đoàn là một trong những nhân tố quan trọng làm cho toàn bộ hệ thống chuyên chính 8 vô sản được bền vững. Vì vậy, vị trí, vai trò của công đoàn cũng là vấn đề đấu tranh gay gắt về tư tưởng. Nhận thức đúng đắn về vị trí công đoàn phải gắn liền với nhận thức về chuyên chính vô sản. Chính vì lẽ đó mà kẻ thù của Chủ nghĩa xã hội, muốn phá hoại hệ thống chính trị xã hội thì đồng thời tìm mọi cách thay thế vị trí của công đoàn trong hệ thống chính trị xã hội đó và muốn tách công đoàn ra khỏi hệ thống chuyên chính vô sản. Trước những diễn biến phức tạp về chính trị, kinh tế xã hội, trước những đòi hỏi của công cuộc cải cách ở một số nước xã hội Chủ nghĩa trên toàn thế giới, hàng loạt những vấn đề liên quan đến lý luận, nhận thức về công đoàn, xung quanh vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của công đoàn trong chế độ xã hội Chủ nghĩa được đặt ra. Muốn thành công, việc quán triệt học thuyết Mác Lênin về công đoàn có ý nghĩa to lớn. Công đoàn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng, không có nghĩa là công đoàn không còn vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị - xã hội, không còn tính độc lập về mặt tổ chức, quan hệ giữa công đoàn và Đảng Cộng sản là quan hệ qua lại dựa trên nguyên tắc 2 mặt: Một mặt thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công đoàn, mặt khác thể hiện vai trò của công đoàn trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Về phương pháp luận, xem xét vị trí công đoàn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: Công đoàn đã trở thành “Một tổ chức của giai cấp đang cầm quyền, đang thống trị, đang chấp chính, là tổ chức của giai cấp đang thực hiện chuyên chính, giai cấp đang thực sự cưỡng bức Nhà nước”[22, tr.249] nhưng do bản chất xã hội của công đoàn nên đã xác định địa vị đặc thù của tổ chức, tức vị trí riêng của tổ chức công đoàn so với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị xã hội. Tuy là một tổ chức đang cầm quyền nhưng “Công đoàn không phải là một tổ chức Nhà nước, không phải là một tổ chức cưỡng bức, nó là một tổ chức giáo dục, thu hút, huấn luyện, nó là một trường học, trường học quản lý, trường học quản lý kinh tế…”. V.I. Lênin cũng coi vai trò của công đoàn và cả vấn đề chức năng của công đoàn “Một trong những vấn đề lý luận cơ bản nhất, vị trí công đoàn Việt Nam trong chặng đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được xác định từ Đại hội lần thứ III, IV, V và đã được phát triển ở các Đại hội tiếp theo của công đoàn Việt Nam”. 9 1.1.2. T- t-ëng Hå ChÝ Minh vÒ công đoàn vµ tæ chøc công đoàn. Từ quan điểm tư tưởng trên của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp những tinh hoa trong nghệ thuật dùng người của các nước Phương Đông và của cha ông chúng ta trong suốt bề dày lịch sử, trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng lý luận về tư tưởng và tổ chức cho Công đoàn Việt Nam. Năm 1925, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người đã nói đến sự cần thiết phải thành lập Công hội cách mạng. Người chỉ rõ vai trò, nhiệm vụ của tổ chức này: “Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân; năm là giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”[21, tr.234]. Để xúc tiến cho việc thành lập tổ chức Công đoàn ở nước ta, năm 1926, trên báo Thanh niên, Hồ Chí Minh đã nói đến hai cách tổ chức Công hội, đó là: “…chức nghiệp tổ chức và sản nghiệp tổ chức. Chức nghiệp tổ chức là: nghề nghiệp nào tổ chức theo nghề nghiệp ấy… sản nghiệp tổ chức là: không theo nghề nghiệp mà theo những người làm ở chỗ nào thì tổ chức ở chỗ ấy”. Người thường nhắc nhở: “Mục đích của Công đoàn là phải cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của giai cấp công nhân”[20, tr.52]. Trong Sắc lệnh số 29 - SL ngày 12/3/1947 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, tại Điều 151 ghi: “Công đoàn là những đoàn thể lập ra, mục đích để bảo vệ quyền lợi của công nhân về phương diện nghề nghiệp”. Khi nói về nhiệm vụ của Công đoàn, Người nói: “Công đoàn phải làm cho công nhân hiểu rõ trách nhiệm, nâng cao năng suất lao động là nguồn của cải to lớn nhất; phải làm cho họ hiểu lỗ, lãi của đơn vị, việc sử dụng công suất máy móc, việc tiêu hao nguyên liệu, vật tư… Công đoàn phải giáo dục công nhân có tinh thần kiên quyết đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc và phát triển kinh tế , đó là cái lớn; đồng thời cũng phải kiên quyết đấu tranh, phê bình người làm sai, dù ai làm sai cũng thẳng thắn phê bình, giúp đỡ nhau sửa chữa cho tốt”[21, tr.234]. Theo Người, “Công đoàn phải bảo vệ cho công nhân có quyền thật sự trong xí nghiệp về sản xuất, đời sống”[21, tr.234]. Ngày 18/7/1969, khi đến thăm và làm 10 việc với lãnh đạo Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ công đoàn cần phải mạnh dạn đưa những công nhân trẻ vào cương vị lãnh đạo, việc đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế cận là rất cần thiết… Người nói: “Phải làm cho họ vừa hồng, vừa chuyên, đó là nhiệm vụ trước mắt và cũng là chiến lược lâu dài của cán bộ lãnh đạo các cấp công đoàn”[19, tr.42]. Khi bàn về vai trò của cán bộ và tổ chức công đoàn, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tổ chức công đoàn. Sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và quá trình hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Ngay từ những năm tháng xa tổ quốc, hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Người đã quan tâm đến việc thành lập tổ chức Công đoàn Việt Nam mà tiền thân là Công hội đỏ. Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” xuất bản năm 1927, Người viết “Tổ chức công hội trước hết là đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang các sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giúp cho quốc dân giúp chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa” [20, tr.175]. Những lý luận về thành lập tổ chức công đoàn cách mạng của lãnh đạo Nguyễn Ái Quốc, được các hội viên Thanh niên cách mạng, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam truyền bá rộng rãi trong phong trào công nhân, nhiều tổ chức công hội được thành lập. Đặc biệt, từ năm 1928 Việt Nam thanh niên cách mạng phát động phong trào “vô sản hoá” thì phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam càng sôi nổi, đã thúc đẩy sự phát triển của tổ chức công hội mới lên một bước mới. Với nhận thức về vai trò quan trọng đặc biệt của công tác cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng và tổ chức công đoàn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng, đào tạo và rèn luyện được đội ngũ cán bộ công đoàn, đầy bản lĩnh chính trị, được trang bị bằng học thuyết Mác-Lênin, suốt đời nguyện hy sinh, phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân và lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa. Đội ngũ cán bộ dày dạn kinh nghiệm và bản lĩnh đó đã được tôi luyện và thử thách trong gần một thế kỷ đấu tranh khốc liệt của cuộc cách mạng. 11 1.1.3. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trong suốt chặng đường lịch sử hơn 80 năm qua, Đảng luôn giữ vững bản chất, lập trường của giai cấp công nhân, coi giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt của liên minh công - nông - trí thức, đây là vấn đề chiến lược, là điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mọi thời kỳ lịch sử. Đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ chức công hội đỏ, Ban Chấp hành lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng quyết định triệu tập Đại hội thành lập Tổng Công hội đỏ miền Bắc Việt Nam vào ngày 28/7/1929. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - Uỷ viên Ban Chấp hành lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, phụ trách công tác vận động công nhân của Đảng đã trình bày báo cáo chung trước Đại hội, trong đó nhấn mạnh đặc điểm, tình hình phong trào công nhân, công hội trong giai đoạn sau đó. Từ Đại hội này, Tổng Công hội đỏ miền Bắc Việt Nam, một tổ chức được Đảng Cộng sản thành lập đã trở thành tổ chức công đoàn cách mạng, tiêu biểu của giai cấp công nhân Việt Nam. Nó là kết quả tất yếu của phong trào công nhân vận động với sự truyền bá lý luận công đoàn cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các Đảng viên Đảng Cộng sản vào phong trào công đoàn nước ta. Công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt chặng đường hơn 85 năm qua, đã có những đóng góp to lớn vào thành công của các giai đoạn cách mạng Việt Nam, luôn tin tưởng và ủng hộ đường lối của Đảng, thể hiện sự giác ngộ về lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, một lòng đi theo Đảng. Công đoàn Việt Nam đã ngày càng phát triển về số lượng, thu hút đông đảo công nhân lao động vào tổ chức công đoàn. Cùng với việc quan tâm đến tổ chức công đoàn, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ Tịch đã nhận thức đúng về vị trí và tầm quan trọng 12 của việc xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng, coi "cán bộ là cái dây truyền của bộ máy. Nếu dây truyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt”. Từ năm 1986, Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo nước Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển theo hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chủ động tham gia hội nhập quốc tế và khu vực, giữ vững nền độc lập dân tộc, tiếp tục xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, nhất là Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân tập thể… Đối với nội dung và phương pháp hoạt động của các đoàn thể quần chúng hướng mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo nhân dân vào tham gia các hoạt động phong trào cách mạng. Xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, củng cố Liên minh công nông, chăm lo giáo dục thế hệ trẻ, tăng cường khối Đại đoàn kết toàn dân tộc”[4, tr.225, 226]. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhất là đổi mới về kinh tế. Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với một thành phần kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế. Đây là bước chuyển đổi căn bản vô cùng quan trọng đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là các thành viên trong hệ thống chính trị, trong đó có tổ chức Công đoàn mà đại diện là: “Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng là đội tiên phong của mình đã lãnh đạo cách mạng nước ta hơn nửa thế kỷ qua, ngày nay lại đang đi đầu trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới là: “Phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan