Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới ở hà tĩnh...

Tài liệu Công tác vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới ở hà tĩnh

.PDF
92
1179
128

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ PHẠM TRUNG THÀNH CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ TĨNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ PHẠM TRUNG THÀNH CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ TĨNH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hải Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoảng Hải. Các kết quả trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, tin cậy. Tác giả luận văn Phạm Trung Thành LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng gửi đến các quý thầy cô giáo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Hà Tĩnh, Khoa Chính trị học, lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc về quá trình đào tạo trong suốt 2 năm học Cao học vừa qua. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn về sự chỉ bảo tận tình và chu đáo của thầy giáo hướng dẫn - TS. Hoảng Hải; sự hỗ trợ, động viên của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến cơ quan: Thư viện Quốc gia, thư viện Trường Đại học Hà Tĩnh, các cơ quan, ban, ngành, lưu trữ tỉnh Hà Tĩnh... đã cung cấp những tài liệu quan trọng, quý báu cho tôi hoàn thành đề tài. Học viên Phạm Trung Thành MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................................... 3. Mục đích và nhiệm vụ ........................................................................................ 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................... Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÍ THỨC VÀ VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ................................... 1.1. Nhận thức mới về trí thức ............................................................................. 1.1.1. Khái niệm về trí thức .................................................................................... 1.1.2. Khái niệm về đội ngũ trí thức ...................................................................... 1.2. Hình thức vận động trí thức ......................................................................... 1.3. Cơ quan vận động trí thức ............................................................................ 1.3.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội .................... 1.3.2. Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật ....................................................... 1.3.3. Hội Phụ nữ .................................................................................................... 1.3.4. Hội Thanh niên ............................................................................................. 1.4. Vai trò của trí thức trong xây dựng nông thôn mới ................................... 1.4.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nông thôn mới ................... 1.4.1.1. Khái niệm nông thôn và nông thôn mới .................................................... 1.4.1.2. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ........................ 1.4.1.3. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới ................. 1.4.2. Những vấn đề đặt ra đối với trí thức trong xây dựng nông thôn mới ........... Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2010-2014 ........ 2.1. Một số kết quả về vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Tĩnh .................................................................................................................. 2.1.1. Vận động nhà khoa học tham gia phát triển khoa học nông nghiệp nông thôn ................................................................................................................ 2.1.2. Vận động trí thức là nhà báo tham gia tuyên truyền về nông nghiệp nông thôn ................................................................................................................ 1 1 2 4 5 5 5 5 6 6 6 8 14 17 17 19 20 21 22 22 22 23 25 29 32 33 33 34 36 2.1.3. Vận động trí thức là người dân tộc, chức sắc tôn giáo tham gia các phong trào thi đua yêu nước vùng nông thôn .................................................................... 2.1.4. Vận động trí thức làm kinh tế góp phần xóa đói giảm nghèo, hưởng ứng các cuộc vận động, trong đó có cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam ........................................................................................................ 2.1.5. Vận động trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài góp phần phát triển nông nghiệp - nông thôn ở Hà Tĩnh ....................................................................... 2.2. Một số nhận xét .............................................................................................. 2.2.1. Những ưu điểm nổi bật ................................................................................. 2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân ................................................................... 2.2.3. Một vài so sánh với kinh nghiệm vận động trí thức tham gia phát triển nông nghiệp - nông thôn của tỉnh Nghệ An ........................................................... Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2015 - 2020 ...................................................... 3.1. Yêu cầu mới về công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay ...... 3.1.1. Yêu cầu về đổi mới công tác phát triển nông thôn ....................................... 3.1.2. Yêu cầu mới về vận động trí thức trong việc phát triển nông thôn .............. 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới của Hà Tĩnh giai đoạn 2015 - 2020............................ 3.2.1. Chính sách về vận động giới trí thức trong giai đoạn mới ........................... 3.2.2. Những giải pháp cụ thể ................................................................................. 3.2.2.1. Giải pháp hoạt động truyền thông về trí thức ............................................ 3.2.2.2. Giải pháp về nội dung công tác vận động trí thức ..................................... 3.2.2.3. Giải pháp về điều kiện bảo đảm công tác vận động (tài chính, vật chất) .. Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. KẾT LUẬN ........................................................................................................... DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 39 43 45 51 51 51 54 57 58 58 58 64 69 69 70 70 72 77 79 80 83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Vì vậy, vai trò của trí thức cũng như công tác vận đông trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Để đạt được mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức [15, tr.81]. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, tỉnh Hà Tĩnh trong những năm qua đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ trí thức cũng như công tác vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng lớn mạnh cơ bản đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương, góp phần đưa Hà Tĩnh ngày càng phát triển theo guồng máy chung của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu bức thiết là phải đẩy nhanh tốc độ phát triển để sánh vai với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước thì đội ngũ trí thức Hà Tĩnh còn thiếu về cả số lượng và chất lượng. Do tỉnh vừa mới được tái lập, đội ngũ trí thức bị phân tán nhiều nên chưa phát huy được sức mạnh tiềm năng trí tuệ của đội ngũ này trong quá trình phát triển kinh tế. Hà Tĩnh vẫn còn thiếu vắng một chiến lược tổng thể để có kế hoạch chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao ở nhiều độ tuổi khác nhau nên sự phát triển của đội ngũ trí thức Hà Tĩnh thời gian qua còn mang tính tự phát. Nguy cơ thiếu lực lượng cán bộ trẻ kế cận có đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu 1 phát triển kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Kế hoạch trong công tác đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức vẫn còn bất hợp lí, chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế. Trong khi môi trường làm việc chưa đủ sức hấp dẫn thu hút trí thức ngoài tỉnh, thì tình trạng con em Hà Tĩnh sau khi tốt nghiệp đại học đều không muốn trở về quê hương mà ở lại các thành phố lớn công tác ngày càng tăng. Vì vậy, hơn lúc nào hết, điều quan trọng nhất của Hà Tĩnh hiện nay là phải chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức với những chính sách đãi ngộ xứng đáng nhằm thu hút trí thức nhân tài để tạo ra một lực lượng lao động có trình độ cao trên tất cả các hoạt động của sản xuất và đời sống, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và là động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng nông thôn mới mà trọng tâm là nhằm nâng cao đời sống của người nông dân. Vì vậy, sự chung tay của các cấp, các ngành cũng như các tổ chức chính trị - xã hội đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc thu hút, khai thác tiềm năng của đội ngũ trí thức còn hạn chế và chưa có nghiên cứu toàn diện đối với công tác vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới. Góp phần đánh giá đầy đủ các hạn chế nói trên từ đó đề xuất được giải pháp nâng cao hiệu quả vận động trí thức, nhất là trong thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập quốc tế rất cần nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về công tác này. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài "Công tác vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Tĩnh" làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trí thức là một đề tài đã và đang thu hút các nhà khoa học, lý luận, các học giả ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ trí thức với nhiều khía cạnh, quy mô khác nhau. Trong đó, có thể kể đến một số nghiên cứu như: 2 Đề tài cấp bộ: "Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong vận động giới trí thức tham gia những hoạt động của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay";“Trí thức Việt Nam thời xưa” của giáo sư Vũ Khiêu, Nxb Thuận Hóa; “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước” của Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995... Trong đó, các tác giả từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức...; đồng thời, khẳng định quan điểm của Đảng ta về vai trò của trí thức và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước. Một số bài viết, như: "Vấn đề vận động thanh niên trong giai đoạn mới", Tạp chí Mặt trận số 89; "Quân đội với công tác vận động đồng bào dõn tộc thiểu số giai đoạn hiện nay", Tạp chí Mặt trận số 104; "Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa" của Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995; "Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4/1996; "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2/2001; "Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999... Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề về bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức... Ngoài ra, còn có những nghiên cứu khác như: "Chủ trương của Đảng về vận động, tập hợp tầng lớp trí thức thời kỳ 1930-1954", Luận văn thạc sỹ lịch sử Đảng của Nguyễn Thu Hải bảo vệ năm 2010; "Trí thức Việt Nam ở nước ngoài với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Từ tiềm năng đến hiện thực", Tham luận tại Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần 2, Tp.HCM, tháng 9/2012... 3 Bên cạnh đó, còn có nhiều luận văn, luận án và công trình khoa học, bài viết được đăng trên các tạp chí liên quan ít nhiều đến vấn đề trí thức mà tác giả luận văn chưa có điều kiện để tiếp cận. Những nghiên cứu nói trên tuy mới giới thiệu một phần nhỏ nhưng đã thể hiện sự đa dạng về nội dung, thể loại đề tài song một đề tài cấp bộ về vận động giới trí thức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì chưa có. Do đó, khi nghiên cứu về chủ đề này có khó khăn là ít khai thác được những kết quả đã có nhưng có mặt thuận lợi là không bị trùng lặp, sẽ có một số cách nhìn mới, đề xuất mới về vận động giới trí thức phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Những công trình nghiên cứu trên đã đi sâu và làm rõ quan niệm về trí thức, vai trò vị trí và những định hướng để xây dựng đội ngũ trí thức trong lịch sử cũng như trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu nào đề cập đến công tác vận động đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh dưới góc độ luận văn thạc sĩ Chính trị học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của luận văn: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với vùng nông thôn và việc xây dựng nông thôn mới ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: + Làm rõ quan niệm về trí thức, hình thức vận động trí thức và vai trò của trí thức trong xây dựng nông thôn mới. + Phân tích thực trạng công tác vận động trí thức của tỉnh Hà Tĩnh; tìm ra nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu kém và những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò đội ngũ trí thức cũng như công tác vận động trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. 4 + Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác vận động trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong xây dựng nông thôn mới mà tỉnh đang thực hiện. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức của tỉnh Hà Tĩnh. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của trí thức Hà Tĩnh giai đoạn hiện từ 2010 - 2014, đặc biệt trong giai đoạn tỉnh đang tập trung thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận cơ bản của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới. Luận văn cũng kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến nội dung luận văn. - Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khi thực hiện đề tài như: phương pháp lịch sử, tổng hợp, khảo sát thực tế, phân tích, so sánh, dự báo… Các phương pháp được sử dụng ở mức độ phù hợp theo từng chương, từng chuyên đề. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là vai trò trí thức trong xây dựng nông thôn mới. - Luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác vận động trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÍ THỨC VÀ VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1. Nhận thức mới về trí thức 1.1.1. Khái niệm về trí thức Xét về nguồn gốc thì thuật ngữ “trí thức” xuất phát từ tiếng La Tinh Intelligentia nghĩa là thông minh, có trí tuệ hiểu biết. Trong tiếng Anh trí thức là một tính từ có nghĩa là: intelltual, còn danh từ gốc của nó là Intellect. Trong tiếng Đức, theo V.I.Lênin: tầng lớp trí thức bao gồm không chỉ các nhà văn hóa, những người làm nghề tự do nói chung, nó còn là những đại biểu của lao động trí óc (brain worker như người Anh nói) để phân biệt với những đại biểu của lao động chân tay. Ở nước ta, cho đến nay cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau về trí thức. Chẳng hạn, theo “Từ điển tiếng Việt” do Viện ngôn ngữ biên soạn và Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1994 định nghĩa: “Trí thức là người chuyên môn làm việc trí óc và có trí thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”. Như vậy, có thể thấy rằng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, với những cách tiếp cận khác nhau, mỗi quốc gia, mỗi nhà khoa học có những quan niệm khác nhau về trí thức. Nhưng dù tiếp cận ở góc độ nào tựu trung lại thì các định nghĩa về trí thức đó thường đề cập tới hai dấu hiệu cơ bản là: thứ nhất, trí thức là lao động trí tuệ, có chuyên môn sâu; thứ hai, trí thức là những người có học vấn cao. Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Hồ Chí Minh quan niệm: “trí thức là hiểu biết, trong thế giới có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết đấu tranh dân tộc và đấu tranh xã hội. Khoa học xã hội từ đó mà ra. Ngoài hai cái đó không 6 có trí thức nào khác". Và người trí thức là người đó phải có trình độ chuyên môn, đồng thời phải biết sử dụng nó vào đời sống xã hội, phục vụ dân sinh. Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được khái niệm trí thức như sau: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội" [15, tr.81]. Từ đó giúp chúng ta có hướng nghiên cứu mang tính định hướng cho sự phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Trí thức là một tập hợp mở và đa dạng nên đặc điểm của tầng lớp này cũng rất phong phú. Để góp phần làm rõ thêm vai trò của trí thức trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và đóng góp vào quá trình xây dựng nông thôn mới nói riêng, chúng ta cần đi sâu nghiên cứu những đặc biểm nổi bật của trí thức: Thứ nhất, trí thức nói chung rất ham học, ham đọc. Nhờ ham học, ham đọc mà người trí thức luôn luôn tiếp cận được cái mới, do đó trình độ lý luận không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, sự ham học, ham đọc, ham lý luận quá mức có thể dẫn đến tình trạng sách vở, kinh viện, xa rời thực tiễn. Thứ hai, trí thức là người luôn sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm; ít khi chịu rập khuôn theo công thức sẵn có. Chính nhờ đặc điểm này mà trí thức đóng vai trò nhân tố quan trọng thúc đẩy khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật, kinh tế - xã hội phát triển. Thứ ba, trí thức là người luôn có thói quen lật lại vấn đề. Vì vậy, trí thức thường hay có ý kiến phản biện. Nhưng ý kiến phản biện, nhất là những ý kiến quá thẳng thắn, dễ gây phản ứng tiêu cực. Vì vậy, người phản biện 7 cũng cần chọn cách nói, thời điểm nói thích hợp để tính thuyết phục của ý kiến mình được cao hơn. Thứ tư, mặc dù hay lật lại vấn đề nhưng khi đã tin điều gì một cách có căn cứ thì trí thức thường giữ vững lập trường quan điểm của mình. Thứ năm, trí thức thường có hoài bão vươn lên những đỉnh cao, những vị trí nổi bật trong xã hội. Cách chúng ta hơn 150 năm, Nguyễn Công Trứ từng viết: "Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông". Người trí thức nói chung trọng danh hơn trọng lợi. Nhưng quá trọng danh có thể dẫn đến hiếu danh. Chuyện chạy đua bằng cấp, danh hiệu, giải thưởng v.v... mà xã hội phê phán hiện nay cũng là những biểu hiện của thói hiếu danh. Thứ sáu, trí thức thường khảng khái, tự trọng. Người xưa đã khái quát phẩm hạnh này thành nguyên tắc sống: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" (nghĩa là: giàu sang không làm hư hỏng, nghèo khó không khiến đổi lòng, quyền uy không khuất phục nổi). Xã hội trọng vọng trí thức không chỉ vì trí tuệ của họ mà còn vì phẩm chất cao quý này. Thứ bảy, trí thức thường cư xử lịch thiệp. Bộc trực khi tỏ bày chính kiến về những vấn đề lớn, nhưng trong đời sống hằng ngày, người trí thức thường khiêm tốn, nhún nhường, tránh những va chạm nhỏ, tránh làm mất lòng người khác. Đây là một phẩm chất đáng quý trong ứng xử của trí thức. 1.1.2. Khái niệm về đội ngũ trí thức Khái niệm “đội ngũ” được xuất phát từ thuật ngữ quân sự, đó là tổ chức gồm nhiều người tập hợp thành một lực lượng hoàn chỉnh. Ở nước ta, từ các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII trở về trước, thuật ngữ “tầng lớp trí thức” được sử dụng phổ biến. 8 Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” do Nhà Xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2009, khái niệm đội ngũ được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, là khối đông người được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng có quy cũ. Thứ hai, là tập hợp một số đông người có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp. Như vậy, đội ngũ có thể được hiểu là tập hợp một số đông người có cùng chức năng, nhiệm vụ và nghề nghiệp, có sự thống nhất về mặt tổ chức. Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Đội ngũ trí thức là tập hợp những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, thành một lực lượng đông đảo thống nhất về mặt tổ chức, hành động để cùng nhau thực hiện mục tiêu đó là tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội một cách có hiệu quả nhất. Thông thường người ta dùng cụm từ “đội ngũ trí thức” để chỉ tập hợp những nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, chuyên gia v.v..., tức là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao, lao động bằng trí óc trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, có khả năng sáng tạo ra tri thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn, làm ra của cải, phục vụ nhu cầu con người và phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính thực hành của trí thức: “Trí thức học sách chưa phải là trí thức hoàn toàn, muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế. Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận” [33, tr.235]. Karl Marx nhắc nhở những người trí thức phải đấu tranh cho sự tiến bộ của xã hội: “Trí thức là những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội, nên họ phải là những người phê bình không nhân nhượng những gì đang hiện hữu…, không nhân nhượng với chính quyền, bất cứ chính quyền nào”. 9 Người trí thức phải dũng cảm nói lên ý kiến riêng của mình, đấu tranh cho tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội, hạnh phúc của nhân dân. Trí thức phải trung thực, độc lập, sáng tạo, tự chủ, góp sức mình cho sự nghiệp phát triển của đất nước, phải có tinh thần phê phán hiện trạng, có tinh thần dấn thân. Người trí thức cũng là người có tư cách dẫn đường cho văn hóa, cho học thuật, có trách nhiệm hướng dẫn đời sống tinh thần của xã hội. Nhân loại ngày càng có nhiều vần đề (kinh tế, văn hóa, xã hội, chủng tộc, tôn giáo, cạn kiệt tài nguyên, thay đổi khí hậu...) cần sự có mặt và góp sức của trí thức. Trong thời đại kinh tế tri thức ngày nay xuất hiện khái niệm "công nhân tri thức" (knowledge worker), đó là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao, có năng lực sáng tạo, dùng tri thức để tạo ra sản phẩm trí tuệ (như phần mềm, công nghệ mới, công nghiệp nghệ thuật…) hoặc trí tuệ hóa, đưa tri thức, công nghệ vào sản phẩm truyền thống làm tăng gấp bội giá trị của sản phẩm. Ngày nay ở các nước phát triển giá trị do tri thức tạo ra chiếm quá nửa (khoảng 55%) tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chủ yếu là do công nhân trí thức tạo ra. Công nhân trí thức khác với công nhân áo trắng ở trình độ trí thức, khả năng sáng tạo và năng lực biến tri thức thành giá trị. Ở nước ta ngày nay cũng đã có công nhân trí thức. Theo đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức, số công nhân trí thức sẽ tăng nhanh, họ là công nhân đã trí thức hóa, họ cũng là trí thức. Có thể coi công nhân tri thức là bộ phận trùng nhau của hai tập hợp: giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Đảng ta từ sớm đã có chủ trương trí thức hóa công nhân và nông dân, và công nhân hóa trí thức, điều đó hoàn toàn phù hợp xu thế phát triển của lực lượng sản xuất, nhờ đó ngày nay nước ta cũng đã có công nhân tri thức, và trong tương lai khi nước ta hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành nền kinh tế tri thức thì đội ngũ công nhân tri thức sẽ là lực lượng chủ lực, họ vừa là công nhân mà cũng là trí thức. 10 Đội ngũ trí thức có ảnh hưởng lớn đến diễn tiến chính trị và thực ra họ là những người lãnh đạo xã hội, không những thế, họ là những người tạo ra phần lớn nhất của cải xã hội. Truyền thống Việt Nam từ xưa đến nay rất coi trọng trí thức. Người xưa có câu "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách", nghĩa là: trước sự tồn vong của đất nước, trí thức có trách nhiệm rất lớn. Trong thời đại toàn cầu hóa, trí thức việt Nam được học hỏi, hợp tác giao lưu, đọ sức đua tranh với trí thức các nước; kiến thức và năng lực sẽ được đánh giá, kiểm định theo những chuẩn mực khắt khe hơn. Đây là cơ hội tốt cho trí thức nước ta được tiếp thu cách nghĩ, cách làm mới, được dịp nắm bắt những luồng tư tưởng mới, phát hiện ra nhiều phương hướng mới, nảy sinh nhiều sáng kiến mới. Đây cũng là thách thức to lớn đối với những ai không có tư duy độc lập, không có chính kiến, không có bản lĩnh, họ sẽ không thể đứng vững, thậm chí còn bị tiêm nhiẽm những thói hư tật xấu, mất phương hướng, và mất cả bản săc văn hóa dân tộc. Do lịch sử hình thành, đội ngũ trí thức nước ta có nhiều đặc điểm riêng biệt. Từ ngày lập quốc, trải qua hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước, cho đến ngày nay đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dù trải qua nhiều biến cố lịch sử, đội ngũ ấy có nhiều biến động, nhưng nhìn chung, đó là đội ngũ đã được tôi luyện, trải qua nhiều thử thách, thấm đượm tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, có bản lĩnh, ý chí, quyết tâm đưa đất nước lên tầm cao mới, sánh vai với các cường quốc. Trong chiến tranh cũng như trong xây dựng hòa bình, mọi nơi, mọi lúc đều có những trí thức đem hết tâm huyết và trí tuệ ra phục vụ đất nước, thực hiện tốt những nhiệm vụ chuyên môn, thúc đẩy phát triển khoa học, giáo dục, văn hóa…, nghiên cứu giải quyết những vấn đề đang đặt ra, tham gia vào hoạch định chính sách, chiến lược, phản biện đối với các dự án, các chủ trương 11 chính sách của Đảng và Nhà nước..., nhiều người tận tụy chịu đựng gian khổ suốt cả đời để có những công trình tác phẩm có ý nghĩa đối với xã hội. Nhìn chung về đội ngũ thì số lượng đông, phẩm chất tốt, trình độ không kém các nước xung quanh nhưng chất lượng đội ngũ trí thức nước ta hiệu quả chưa cao, tiềm năng chất xám chưa được phát huy. Đội ngũ không đồng bộ về cơ cấu ngành, cơ cấu trình độ, cũng không định hướng và tập trung để hình thành những thế mạnh của quốc gia; thiếu những người có khả năng chỉ huy các tập thể lớn, đảm nhận những chương trình, dự án lớn; còn ít những tập thể, đơn vị, tổ chức thực sự gắn bó nhau vươn lên nhanh; quá ít những công trình, tác phẩm, những nhà khoa học, nhà văn… nổi tiếng thế giới. Cũng cần thẳng thắn nhìn nhận một số hạn chế, khuyết điểm của đội ngũ trí thức hiện nay như: tinh thần tự đào tạo chưa cao, tư duy độc lập và khả năng phản biện xã hội với tinh thần xây dựng còn thấp, đôi khi còn thiếu tinh thần hợp tác. Lực lượng trí thức người Việt ở nước ngoài là một bộ phận rất quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân khác nhau trong lịch sử, hiện nay Việt Nam có khoảng gần 3 triệu Việt kiều đang sinh sống ở 90 quốc gia, trong đó có khoảng 80% làm ăn sinh sống tại các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt có khoảng 300. 000 người có trình độ từ đại học trở lên, nhiều nhà trí thức, khoa học có tên tuổi trên thế giới, nhiều doanh nhân thành đạt. Đây thực sự là nguồn tài sản quý báu của đất nước, là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam đang hướng về tổ quốc. Đây là một tiềm năng chất xám, một kho tri thức mới của các nước tiên tiến, một kênh chuyển giao tri thức về Việt Nam rất quan trọng. Đánh giá đúng vai trò của Việt kiều, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương về chính sách đại đoàn kết dân tộc, gác lại quá khứ hướng tới tương lai, mà thể hiện đầy đủ nhất trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. 12 Nhiều trí thức Việt kiều đã làm cầu nối để giúp đất nước tiếp thu công nghệ tiên tiến, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Tuy nhiên, sự đóng góp chất xám, công nghệ của Việt kiều cho đất nước vẫn còn ở mức khiêm tốn. Việt kiều góp phần làm cầu nối của đất nước với thế giới, do vậy không chỉ có các chính sách hướng nội, thu hút đầu tư Việt kiều về nước, mà cần có những chính sách, biện pháp, khuyến khích giúp cho các cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển, bám trụ bền vững tại nước sở tại, từ bên ngoài đóng góp cho đất nước. Đội ngũ trí thức còn là bộ phận tham gia trực tiếp và chủ yếu vào việc nâng cao dân trí, phát triển lực lượng sản xuất; trực tiếp nghiên cứu, đề xuất các luận cứ khoa học cho các quyết sách chính trị nói chung, các quyết sách về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và cũng là lực lượng trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là sự góp sức của đội ngũ trí thức giáo dục. Vì thế, Đảng ta luôn coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” và Đại hội lần thứ IX đã khẳng định: “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Quan điểm này lại được Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa XI) khẳng định tại Kết luận số 51-KL/TW về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ trí thức ngày càng khẳng định được vai trò to lớn của mình và được thể hiện những điểm sau: 13 Thứ nhất: Đội ngũ trí thức xây dựng những luận cứ khoa học trong việc hoạch định, phản biện và hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề phát sinh trong sự nghiệp đổi mới. Thứ hai: Trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng, quyết định trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Thứ ba: Trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần thực hiện nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ tư: Trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần duy trì và phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu nền văn hóa, văn minh nhân loại. Thứ năm: Trí thức là lực lượng hàng đầu đóng vai trò thực hiện tư vấn giám định xã hội về khoa học và công nghệ để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có thể khẳng định, đội ngũ trí thức là lực lượng cơ bản đóng vai trò then chốt trong việc nghiên cứu, đề xuất và hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện các đề tài, công trình khoa học và công nghệ, nhằm góp phần vào thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và quá trình xây dựng nông thôn mới nói riêng. 1.2. Hình thức vận động trí thức - Vận động trí thức tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vừa là một chính sách quan trọng, vừa là một nghệ thuật trong đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Sinh thời, Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng những giá trị truyền thống của dân tộc và vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Với trí tuệ và đạo đức của mình, Người đã 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan