Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn trung tâm bảo trợ và ...

Tài liệu Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn trung tâm bảo trợ và công tác xã hội tỉnh ninh bình

.PDF
94
434
91

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM ĐỨC HẠNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TỈNH NINH BÌNH Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. BÙI THỊ MAI ĐÔNG HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài “Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình” đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, đúng với thực tiễn nghiên cứu. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ Phạm Đức Hạnh DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BVCSGD CNH-HĐH CTXH LĐTB&XH LHQ NVCTXH NVXH TC TTBTXH TTBT&CTXH UBND UBDSGĐ&TE Bảo vệ chăm sóc giáo dục Công nghiệp hóa - hiện đại hóa Công tác xã hội Lao động thương binh và xã hội Liên hợp quốc Nhân viên công tác xã hội Nhân viên xã hội Thân chủ Trung tâm Bảo trợ xã hội Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội Ủy ban nhân dân Ủy ban dân số gia đình và trẻ em MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRẺ EM MỒ CÔI VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI ............................................................. 9 1.1. Một số lý thuyết về trẻ em và trẻ em mồ côi.............................................................. 9 1.2. Khái quát công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồi côi ....................................... 15 1.3. Một số lý thuyết ứng dụng trong công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi ... 26 1.4. Luật pháp, chính sách và các mô hình dịch vụ hỗ trợ trẻ em môi côi ..................... 31 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồi côi ............ 35 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TỈNH NINH BÌNH ............................................................................................... 38 2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu ........................................................ 38 2.2. Thực trạng công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồi côi từ thực tiễn trung tâm bảo trợ và công tác xã hội tỉnh Ninh Bình ............................................................... 45 2.3. Những kết quả đạt được của hoạt động công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi tại Trung tâm ....................................................................................................... 54 2.4. Một số hạn chế và nguyên nhân ............................................................................... 55 Chương 3: ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CTXH CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TẠI TRUNG TÂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CTXH CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI PHÚC TRÌNH LẦN THỨ NHẤT ............................................................................................ 61 3.1. Ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân đối với trường hợp trẻ em mồ côi tại trung tâm bảo trợ và công tác xã hội tỉnh Ninh Bình ........................................... 61 3.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em môi côi ............................................................................................ 72 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 76 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là chủ nhân, nguồn nhân lực tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với sự phát triển của đất nước, trẻ em ngày càng được Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đình quan tâm, chăm sóc tốt hơn, được tạo mọi điều kiện để phát triển và phát huy vai trò chủ nhân của mình trong tương lai. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em mồ côi nói riêng luôn là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt, từ khi đất nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thì vấn đề này lại càng được coi trọng. Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống người dân được nâng lên, trẻ em cũng nhận được sự quan tâm, chăm sóc tốt hơn. Sự quan tâm, chăm sóc trẻ em được thể hiện bằng những chủ trương, chính sách cụ thể qua các thời kỳ. Việc thực hiện các chương trình này đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành. Các chương trình đã khẳng định sự ưu tiên trong việc quan tâm chăm sóc và bảo vệ trẻ em nói chung, trẻ em mồ côi nói riêng. Mặc dù vậy, từ thực trạng kinh tế - xã hội của nước ta từ một nước nghèo, chậm phát triển, phải gánh chịu những hậu quả nặng nề sau chiến tranh, dưới tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế; sự chuyển dịch, biến đổi về văn hoá, xã hội từ cái cũ sang cái mới. Các hiện tượng xã hội như nghèo đói, phân hoá giàu nghèo với khoảng cách, sự chênh lệch ngày càng lớn về mức sống, thu nhập giữa những bộ phận dân cư trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội đối với trẻ em, khiến trẻ em trở thành đối tượng dễ bị tổn thương. Bên cạnh đó sự băng hoại các giá trị đạo đức, sự thay đổi thang giá trị xã hội, tình trạng ly hôn ngày càng cao, nạn bạo hành và phân biệt đối xử về giới, tình trạng bất cập, thiếu hụt hoặc lệch lạc trong giáo dục gia đình... đã làm xuất hiện trong xã hội nhiều nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong đó có nhóm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội và UNICEF, ước tính trong năm 2014 cả nước có hơn 26 triệu trẻ em dưới 16 1 tuổi (chiếm 28,7% dân số), trong đó có gần 1.468.000 em có “hoàn cảnh đặc biệt,”. Trong số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có 170.187 trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi. (nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) riêng tỉnh Ninh Bình năm 2014 có 230.030 trẻ em dưới 16 tuổi (chiếm 23,9% dân số), trong đó trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt 6.859 trong đó có 1.977 trẻ em mồ côi. (nguồn: thống kê của sở lao động thương binh và Xã hội). Số trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi không nơi nương tựa là nhóm trẻ em dễ bị tổn thương và mất nguồn nuôi dưỡng dẫn đến thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong những năm qua, kể từ khi Đề án Số: 32/2010/QĐ-TTg về phát triển nghề CTXH ở Việt Nam giai đoạn 2010-2020 được triển khai thực hiện, CTXH nói chung, CTXH với trẻ em mồ côi nói riêng, đã có sự phát triển, ngày càng được nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi tại cộng đồng cũng như trong các cơ sở bảo trợ xã hội, các trung tâm cung cấp dịch vụ xã hội còn hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: Công tác xã hội là một nghề còn non trẻ ở Việt Nam; Khung pháp lý cho nghề Công tác xã hội nói chung, cho Công tác xã hội cá nhân với trẻ em mồ côi nói riêng, còn thiếu và chưa đồng bộ; Các hoạt động tại các trung tâm chủ yếu là chăm sóc nuôi dưỡng, chưa chú trọng các hoạt động của Công tác xã hội; Đội ngũ nhân viên Công tác xã hội được đào tạo chính quy về nghề Công tác xã hội trong các cơ sở bảo trợ xã hội còn ít nên tính chuyên nghiệp, kỹ năng trong các họat động chưa cao; điều kiện kinh tế của nhân viên làm công tác xã hội chưa được đáp ứng do đó họ còn phải lo làm kinh tế nên dẫn đến thiếu nhiệt huyết, vai trò của nhân viên Công tác xã hội còn mờ nhạt... vì vậy, mặc dù trẻ em được chăm sóc đầy đủ về thể chất nhưng đời sống tinh thần, kỹ năng sống ít được cải thiện... Mặt khác, từ thực tiễn cho thấy trẻ em mồ côi chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và có nhiều cơ hội, có nhiều điều kiện thuận lợi để được phát triển hơn so với các nhóm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khác và đây cũng là nhóm trẻ nhận được nhiều sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội. Xuất phát từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp nhằm tìm ra nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động CTXH ở địa bàn nghiên cứu, 2 từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng hoạt động CTXH cá nhân đối với TEMC, góp phần thúc đẩy nghề công tác xã hội và đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Từ lý luận và thực tiễn cho thấy việc bảo vệ chăm sóc, giáo dục, tư vấn trợ giúp tâm lý kỹ năng sống…tạo điều kiện tốt, thuận lợi nhất cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng phát triển, đã trở nên cấp thiết. Vấn đề này không chỉ là mối quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới mà còn cả ở Việt Nam. Do đó đã có nhiều cuộc khảo sát, đánh giá đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. 2.1. Tình hình nghiên cứu về trẻ em nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng “Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015” do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đề xuất với Chính phủ cũng đã chỉ ra những nỗ lực của các địa phương trong việc triển khai thí điểm các hoạt động cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo 3 cấp độ: cấp độ I là phòng ngừa; cấp độ II là phát hiện, can thiệp sớm để loại bỏ nguy cơ; cấp độ III là trợ giúp, phục hồi hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng cũng được nhiều địa phương quan tâm. Việc tổ chức cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em cũng rất chú trọng tới việc “kết nối dịch vụ bảo vệ trẻ em liên tục” nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách và bảo đảm an toàn của trẻ em. Các hoạt động tư vấn, vận động, giáo dục đến tận gia đình, cộng đồng; tư vấn tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội, thực hiện quy trình CTXH cá nhân tại Trung tâm và cộng đồng đã được triển khai thí điểm ở các địa phương, góp phần quan trọng vào việc giảm thiểu các nguy cơ dẫn đến trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, nguy cơ thất học, bỏ học, nguy cơ lang thang, lao động kiếm sống [5, tr. 8]. Tài liệu “giảng dạy về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong thời kỳ mới” ( năm 2011) của trường cán bộ phụ nữ Trung ương. Đã chỉ ra các vấn đề cơ bản của trẻ em và những thách thức mới trong tương lai đối với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập đó là: Vấn đề bất bình đẳng về cơ hội phát triển; Sự xao nhãng đối với trẻ em; Một số quyền của trẻ em chưa được thực hiện đầy đủ; Những tác động không mong muốn của việc tiếp cận công nghệ thông tin trong quá trình phát triển 3 và hội nhập; Hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chưa phát triển, chưa đáp ứng nhu cầu cần được bảo vệ của trẻ em. Chỉ ra các tác động của CNH - HĐH và hội nhập đến các chức năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia đình và thực trạng những vấn đề cơ bản của trẻ em trong bối cảnh CNH - HĐH và hội nhập. Từ đó đưa ra một số giải pháp mang tính chiến lược để bảo vệ chăm sóc trẻ em trong tình hình mới. Bài viết ”Công tác xã hội với trẻ em - Thực trạng và giải pháp” của TS Nguyễn Hải Hữu. Đã chỉ ra thực trạng của trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; nhu cầu tiếp cận dịch vụ công tác xã hội của trẻ em ở Việt Nam khá đa dạng, nhưng việc cung cấp dịch vụ còn khá hạn chế về loại hình dịch vụ và chất lượng dịch vụ. Chủ yếu dịch vụ chăm sóc nuôi dưỡng thông thường, những dịch vụ chuyên sâu như hỗ trợ tâm lý xã hội, tham vấn, tư vấn tâm lý, trị liệu tâm thần còn rất hạn chế, các dịch vụ quan trọng của CTXH như kết nối, chuyển gửi, quản lý ca qua điều tra của đề tài đạt được ở mức rất thấp. Qua thực trạng nghiên cứu bài viết đã chỉ ra giải pháp phát triển CTXH cho trẻ em, cần đẩy nhanh quá trình mở rộng dịch vụ các loại hình CTXH, tăng cường công tác truyền thông, quảng bá về dịch vụ CTXH để các đối tượng và gia đình biết, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về dịch vụ CTXH, phát triển nguồn nhân lực hoạt động CTXH. Báo cáo “Tình hình trẻ em tại Việt Nam năm 2010” của UNICEF đã thừa nhận “Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động chăm sóc dựa vào cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có trẻ mồ côi và bị bỏ rơi. Việt Nam đã đưa vào thực thi các chính sách quốc gia nhằm khuyến khích và hỗ trợ các gia đình” [25, tr. 214]. Tài liệu này cũng cho thấy những hạn chế của Việt Nam trong bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như: chưa xây dựng được một hệ thống bảo trợ xã hội mạnh mẽ và hiệu quả; thiếu một hệ thống “dịch vụ chăm sóc liên tục”; chưa có một phương pháp tiếp cận mang tính hoạch định; thiếu các cơ chế cụ thể để phát hiện sớm và xác định trẻ em dễ bị tổn thương; chưa xây dựng được hệ thống can thiệp sớm và chuyển tuyến tới các dịch vụ chuyên sâu; các chương trình hỗ trợ tại trường học và cộng đồng dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn hạn chế; hình thức chăm sóc tập trung vẫn còn được sử dụng khá phổ biến với vai trò là một 4 trong những hình thức chăm sóc thay thế cho trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt; tốc độ tăng các nguồn lực dành cho trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt trong những năm gần đây đang chậm lại [25, tr. 214]. 2.2. Tình hình nghiên cứu về Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi. Bài viết “Thực trạng các mô hình cung cấp dịch vụ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Bùi Thị Xuân Mai – trường Đai học Lao động xã hội đã chỉ ra thực trạng vấn đề khó khăn của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đó là vấn đề khó khăn trong cuộc sống nhiều thiếu thốn về kinh tế, sức khỏe, học tập, trong giao tiếp hòa nhập xã hội, tâm lý của trẻ. chỉ ra thực trạng nhu cầu dịch vụ của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, chủ yếu trợ giúp về chính sách, trợ cấp hàng tháng chiếm tỷ lệ cao nhất với 82%, phản ánh một phần nhu cầu thực tiễn của nhóm trẻ em, cho thấy tâm lý mong chờ vào chính sách được cung cấp hơn là sự chủ động tìm tới các dịch vụ trợ giúp mang tính bền vững; bài viết đã đánh giá tình hình thực tế của các mô hình cung cấp dịch vụ xã hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong đó có nhóm trẻ em mồ côi, đã chỉ ra mặt tích cực và hạn chế của các mô hình. Đề tài “Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn trung tâm Công tác xã hội tỉnh Nghệ An” của Th.s. Ngô Thị Hiền ( năm 2015) đã đưa ra được những khó khăn, tồn tại trong hoạt động chăm sóc trẻ em mồ côi tại Trung tâm CTXH tỉnh Nghệ An. Như trẻ em mồ côi tại trung tâm chưa được tiếp cận, thừa hưởng đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế, vui chơi, giải trí; việc phục hồi chức năng, hòa nhập cộng đồng còn hạn chế do thiếu phương tiện, chương trình, kinh phí, nguồn nhân lực thực hiện; các dịch vụ CTXH cho trẻ em mồ côi tại Trung tâm chưa được thực hiện một cách chuyên nghiệp, hiệu quả; cán bộ, nhân viên CTXH làm việc tại Trung tâm thiếu về số lượng, yếu về kỹ năng và phương pháp CTXH nên ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc, trợ giúp cho trẻ em mồ côi tại Trung tâm. Trong quá trình công tác cũng như chuẩn bị cho đề tài nghiên cứu này, em đã nhận thấy những hạn chế nhất định của các tài liệu dữ liệu thu thập được. Cũng như ở tỉnh Ninh Bình chưa có nghiên cứu nào về CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi; chỉ có những báo cáo khảo sát, thống kê về trẻ em có HCĐB và trẻ em mồ côi và đánh giá về công tác bảo trợ xã hội đối với nhóm đối tượng này. 5 Mặc dù vậy, những tài liệu nghiên cứu đã được công bố nói trên là những tài liệu thực tế quan trọng để em đi sâu nghiên cứu thực hiện đề tài “Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Nịnh Bình”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về trẻ em mồ côi và CTXH cá nhân với trẻ em mồ côi, đồng thời tiến hành khảo sát thực trạng các hoạt động CTXH cá nhân với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình; đề tài phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và làm rõ nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong CTXH cá nhân với trẻ em mồ côi nói chung và tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau để phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của CTXH cá nhân với trẻ em mồ côi. - Đánh giá kết quả hoạt động của CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ và công tác xã hội tỉnh Ninh Bình, chỉ ra những tồn tại, hạn chế những thiếu sót bất cập của hoạt động, đồng thời chỉ ra nguyên nhân những hạn chế, thiếu sót đó. - Ứng dụng, thử nghiệm CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình. - Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động của CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi, nâng cao tính chuyên nghiệp của CTXH với trẻ em Mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ và công tác xã hội tỉnh Ninh Bình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu trẻ em mồ côi được chăm sóc nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình - Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Tiến trình công tác xã hội cá nhân 6 - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu đối tượng là trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp lý luận Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ những đánh giá thực trạng về trẻ em, khó khăn, đặc điểm và nhu cầu của trẻ em mồ côi trên cơ cở thực tiễn để đúc rút thành lý luận và những đề xuất thực tiễn, chính sách pháp luật. Nghiên cứu các vấn đề trong hệ thống những lý thuyết có liên quan như lý thuyết về nhu cầu con người của Maslow; Lý thuyết về hệ thống sinh thái; Lý thuyết phát triển nhận thức, lý thuyết dựa trên sức mạnh thân chủ. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu khía cạnh nào đó em sẽ sử dụng thêm một số thuyết như: thuyết trao quyền; thuyết thân chủ trọng tâm... 5.2. Các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích thông tin, số liệu từ các kế hoạch triển khai thực hiện và các báo cáo liên quan đến lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em và hoạt động công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. - Phương pháp phỏng vấn sâu: + Phỏng vấn sâu 05 cán bộ quản lý của Trung tâm (01 Giám đốc, 01 PGĐ; 03 trưởng/phó phòng) và 05 nhân viên trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ: Nhằm tìm hiểu các hoạt động CTXH tại trung tâm; trình độ năng lực và vai trò, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ nhân viên CTXH tại Trung tâm; tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi của CTXH + Phỏng vấn sâu 10 trẻ em mồ côi: Tìm hiểu hoàn cảnh, những khó khăn và nhu cầu, nguyện vọng của các em. - Phương pháp quan sát: Quan sát các biểu hiện, các hoạt động của trẻ em mồ côi; Quan sát hoạt động can thiệp, trợ giúp của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi của Trung tâm. - Phương pháp thảo luận nhóm: Tọa đàm cùng nhóm cán bộ nhân viên đang thực hiện nhiệm vụ quản lý, chăm sóc các cháu mồ côi tại Trung tâm để tổng hợp các ý kiến từ đó đưa ra nhận xét đánh giá thực tế về CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi. - Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Làm việc với một trẻ em mồ côi cụ thể tại Trung tâm, để đánh giá kết quả và so sánh với thực trạng tại Trung tâm. 7 Ngoài ra đề tài nghiên cứu còn sử dụng thêm các phương pháp như: Thống kê, lịch sử, xã hội học, tâm lý học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nghiên cứu CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn. 6.1. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ và phong phú hơn các lý thuyết về CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi; tính hợp lý của các thuyết trong CTXH được sử dụng trong quá trình trợ giúp trẻ em mồ côi dễ bị tổn thương dưới cách tiếp cận CTXH. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu giúp nâng cao nhận thức của các cấp các ngành và toàn xã hội về vai trò của nghề CTXH, các nhân viên CTXH; góp phần nâng cao hiệu quả CTXH cá nhân tại Trung tâm. Kết quả nghiên cứu thực tiễn là căn cứ để lãnh đạo, cán bộ trong Trung tâm tham khảo để đổi mới công tác quản lý chỉ đạo và thực hiện chính sách đối với trẻ em mồ côi; Kết quả nghiên cứu của luận văn, đặc biệt là kết quả thử nghiệm với trẻ em mồ côi tại Trung tâm của nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho việc hoạch định cơ chế chính sách và xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án, chiến lược bảo vệ trẻ em, cung cấp các dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em mồ côi tại tỉnh Ninh Bình. Bên cạnh đó, sản phẩm của đề tài nghiên cứu còn có thể được vận dụng làm tài liệu tham khảo của các nhà nghiên cứu, các đơn vị, cá nhân. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về trẻ em mồ côi và CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi. Chương 2: Thực trạng CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình. Chương 3: Ứng dụng CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi tại Trung tâm và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRẺ EM MỒ CÔI VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI 1.1. Một số lý thuyết về trẻ em và trẻ em mồ côi 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của trẻ em mồ côi 1.1.1.1. Khái niệm - Trẻ em: Trẻ em là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Tùy theo nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hay cấp độ đánh giá mà đưa ra những định nghĩa hay khái niệm về trẻ em. Có thể tiếp cận về mặt sinh học, tiếp cận về mặt tâm lý học, y học, xã hội học…Từ những khái niệm tiếp cận đi đến những khái niệm hoặc định nghĩa khác nhau về các nhóm trẻ em. Tuy vậy, trong các định nghĩa và khái niệm đó đều có những điểm chung và thống nhất là căn cứ vào tuổi đời để xác định số lượng trẻ em. Quốc tế đã đưa ra khái niệm chung là: “trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Khái niệm này đã lấy tuổi đời để định nghĩa trẻ em và lấy mốc là dưới 18 tuổi. Khái niệm này cũng được mở rộng cho các quốc gia có thể quy định mốc tuổi dưới 18. Ở Việt Nam xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau của các khoa học cũng như từ bản chất chính trị - xã hội và thực tiễn truyền thống văn hóa, khả năng nguồn lực của Nhà nước mà đưa ra khái niệm cụ thể về trẻ em. Điển hình ngành khoa học lao động đã căn cứ tâm sinh lý của con người để xác định những người đủ 15 tuổi trở lên để xếp vào lực lượng lao động nhưng vẫn khuyến khích các em độ tuổi từ 15-18 đến trường. Tiếp cận theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam năm 2004, trẻ em là người dưới 16 tuổi [11, tr. 1]. Tiếp cận khía cạnh pháp luật có qui định thêm tuổi vị thành niên 16-18 tuổi. Trẻ em trước hết được hiểu đó là con người phải được hưởng mọi quyền “không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử nào vì chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản dòng dõi và mối tương quan khác”. Nhưng trẻ em lại là người chưa trưởng thành nên có quyền được chăm sóc, tồn tại, phát triển, được bảo vệ và được bày tỏ ý kiến, thể hiện: quyền được sống với cha mẹ, được đoàn tụ với gia đình, được tự do tin tưởng tín ngưỡng tôn giáo, được bảo vệ đời tư, tiếp xúc thông tin, được bảo vệ khỏi áp bức và tổn thương về thể 9 chất và tinh thần, được chăm sóc và nuôi dưỡng khi bị tước mất môi trường gia đình, được hưởng những sự chăm sóc đặc biệt đối với trẻ em bị khuyết tật về trí tuệ và thể chất, được hưởng trạng thái sức khỏe cao nhất và các dịch vụ chữa bệnh, phục hồi sức khỏe, được hưởng an toàn xã hội, được có mức sống để phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần đạo đức và xã hội, được nghỉ ngơi, giải trí, vui chơi, được bảo vệ khỏi sự bóc lột về kinh tế và các công việc nguy hiểm nặng nhọc và độc hại, được bảo vệ chống lại việc sử dụng các chất ma túy và an thần, được bảo vệ chống bị bóc lột, cưỡng bức, lạm dụng về tình dục, được phục hồi về thể chất, tâm lý và tái hòa nhập xã hội. - Trẻ em mồ côi: Theo quan niệm truyền thống: “Trẻ em mồ côi là trẻ em có cha và mẹ bị chết hoặc cha hoặc mẹ bị chết”. Như vậy, với quan điểm này mới chỉ phản ánh được sự mất mát của người cha hoặc mẹ với đứa trẻ. Trong thực tế và nhất là những năm gần đây đã xuất hiện những trẻ em đang phải chịu đựng sự cô đơn, thiếu tình cảm, thiếu sự dạy dỗ, chăm sóc của cha mẹ mặc dù cha mẹ vẫn còn sống chẳng hạn như: Trẻ em có cha mẹ còn sống nhưng đã bỏ đi mất tích không còn quan hệ gì với con cái; Trẻ em sinh ra trong trường hợp cha mẹ chưa trưởng thành hoặc không có điều kiện nên bỏ rơi con, làm trẻ trở thành vô thừa nhận. - Vậy, theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội thì trẻ em mồ côi không nơi nương tựa bao gồm: Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, bị mất nguồn nuôi dưỡng; Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là cha, hoặc mẹ nhưng mất tích theo quy định tại Điều 78 Bộ Luật dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. Trẻ em bị bỏ rơi: Là trẻ em bị cha, mẹ hoặc người nuôi dưỡng bỏ ở nơi công cộng, bệnh viện do sinh ra không theo ý muốn của cha mẹ, gia đình hoặc cha mẹ quá khó khăn không có khả năng nuôi dưỡng. Trẻ em bị bỏ rơi thường không xác định được lý lịch, nhân thân…được các cơ quan, tổ chức xã hội hoặc cá nhân, gia đình nhận nuôi dưỡng chăm sóc… 1.1.1.2. Đặc điểm của trẻ em mồ côi - Hoàn cảnh sống: Về phía gia đình, từ trước tới nay, gia đình luôn giữ vai trò hàng đầu, là yếu tố quyết định đối với việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, gia đình chính là nơi an toàn nhất cho trẻ em. Tuy nhiên đối với trẻ em mồ côi không 10 có cha mẹ hoặc không có cha hay mẹ người còn lại không đủ năng lực nuôi dưỡng, hay cha mẹ bỏ rơi chính vì thế các em thiếu sự bảo vệ, chăm sóc, giáo dục rất quan trọng của cha mẹ, gia đình điều này làm cho trẻ không những khó khăn về vật chất mà còn cả về mặt tinh thần, tâm lý. Về phía xã hội, các yếu tố kinh tế như nghèo đói, chênh lệch về thu nhập và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng làm cho các em trở nên dễ bị tổn thương hơn. Các giá trị gia đình đang bị băng hoại và tình trạng phân biệt đối xử về giới cũng ảnh hưởng xấu tới trẻ em. Các vấn đề bất cập mang tính hệ thống như thiếu một khung pháp lý toàn diện, việc thực thi pháp luật còn yếu và nhận thức về vấn đề bảo vệ trẻ em còn hạn chế cũng đe dọa ảnh hưởng tới trẻ em. - Đặc điểm tâm lý: Trẻ em nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng đang phải chịu những tác động mạnh mẽ bởi rất nhiều yếu tố tiêu cực của môi trường xung quanh, điều đó có thể dẫn đến những vấn đề nguy hại với tâm lý và sự hình thành nhân cách của trẻ. Trẻ em mồ côi là nhóm trẻ không được sống và lớn lên trong điều kiện bình thường như các trẻ em khác. Các em phải trải qua, phải chịu đựng và phải đối phó với những biến cố đặc biệt xảy ra trong giai đoạn tuổi thơ của mình. Những biến cố này tác động không nhỏ đến cuộc sống, tâm sinh lý và sự trưởng thành của các em, do đó các em có những đặc điểm tâm lý riêng mang tính đặc thù như: Khó diễn tả cảm xúc bằng lời: Có thể do trẻ bị choáng ngợp bởi chính tâm trạng của mình và muốn đè nén những tâm trạng đó hoặc trẻ chưa bao giờ được khuyến khích để tự nói về mình và không có đủ lời để diễn tả tâm trạng. Hoài nghi, thiếu tin tưởng và có đủ lý do để ngờ vực. Những trường hợp các bậc cha mẹ bỏ mặc trẻ mà đi, hoặc bỏ rơi trẻ khi trẻ còn nhỏ dẫn đến trẻ thiếu tin tưởng vào người lớn. Mặc cảm có tội, tự trách mình: như mặc cảm với bạn bè cùng trang lứa vì không được như các bạn, không được bố mẹ đẻ của mình bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng như các bạn và luôn tự trách bản thân mình một cách vô cớ. Giận dữ và có ác cảm: Một số trẻ tức giận người lớn vì bị bạc đãi hoặc không được chăm sóc phù hợp hoặc có thể do các em cứ đinh ninh sẽ bị phê bình hoặc trừng phạt. Không nói thật: Vì trẻ ước mơ một hoàn cảnh khác, tránh né những vấn đề đau thương, sợ bị hậu quả xấu, trẻ cố gắng muốn lấy lòng người lớn, cố ý 11 nói dối để tránh câu chuyện thật của bản thân, không muốn tiếp xúc với người khác. Một số tâm trạng thường gặp khác ở trẻ mồ côi đó là: Trẻ đau khổ, lo lắng hoặc sợ sệt có thể ngồi yên một chỗ suốt ngày, không ham thích một hoạt động nào, mất hết cả sinh lực. Trẻ buồn, lo lắng thường khó tập trung tư tưởng, tuy nhiên, những trẻ mồ côi lại bám chặt lấy người lớn vì sợ sẽ bị bỏ rơi, có trẻ lại không muốn đem lòng thương mến ai. Trẻ không phải lúc nào cũng có thể nói về tâm trạng của mình. Trẻ có thể vì quá bối rối hoặc sợ hãi nên không xác định được tâm trạng của mình hoặc không biết nói như thế nào để diễn tả tâm trạng. 1.1.2. Khó khăn và nhu cầu của trẻ em mồ côi 1.1.2.1. Khó khăn - Trong sinh hoạt Đối với trẻ em cần đủ dinh dưỡng để phát triển thể chất, cần có những điều kiện sống, sinh hoạt đảm bảo vệ sinh, an toàn. Nhưng trên thực tế trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi (trừ số ít các em được nuôi dưỡng trong các cơ sở xã hội) còn lại đa số các em sống trong những căn nhà không đảm bảo an toàn, không bảo đảm vệ sinh, đó là những nhà tạm, những túp lều tạm bợ ở khu ổ chuột, hay nhà tranh, vách nứa, mái lá đơn sơ gió rét, mưa dột, không có điện thắp sáng, vệ sinh môi trường không đảm bảo, thiếu nguồn nước sạch để sử dụng, nhà vệ sinh không sạch sẽ là nguy cơ lây lan bệnh cho trẻ vì trẻ sức đề kháng yếu rất dễ măc bệnh khi môi trường xung quang mất vệ sinh. - Khó khăn trong chăm sóc sức khoẻ Điều 15, Luật BVCSGD trẻ em quy định: Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Trẻ em dưới 6 tuổi được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập. Điều 27 của Luật này cũng quy định: Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra sức khỏe, tiêm chủng, khám chữa bệnh cho trẻ em. Nhưng trên thực tế trẻ em mồ côi do thiếu sự quan tâm, chăm sóc của gia đình, người thân, các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội cũng không thể quan tâm tới tất cả các em trong nhóm trẻ này nên có nhiều trẻ vẫn không tiếp cận được với các dịch vụ y tế mà đáng lẽ các em được hưởng (do không ý thức được tầm quan trọng của nó hoặc do không biết) như: Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ em như khám chữa bệnh, tiêm chủng vắc xin, uống 12 vitamin A… rất quan trọng. Những chương trình hỗ trợ của Nhà nước để trẻ em mồ côi được chăm sóc sức khỏe y tế các em cũng không được biết đến. Ngoài những khó khăn về điều kiện chăm sóc sức khỏe thể chất, trẻ em mồ côi còn có những khó khăn trong đời sống tinh thần. Mặc dù việc chăm sóc sức khỏe tinh thần không quá tốn kém nhiều kinh phí, người chăm sóc chỉ cần yêu thương, quan tâm đến trẻ bằng chính những hành động thiết thực của mình như an ủi trẻ, trò chuyện với trẻ, thường xuyên hỏi thăm tình hình của trẻ, vui chơi cùng trẻ, khuyến khích trẻ trong cuộc sống… Nhưng trên thực tế một số trẻ không có được những mối quan tâm đơn giản như vậy do các em không có cha mẹ, hoặc cha mẹ mất sớm, bỏ rơi con cái… nên đời sống tinh thần của các em không được quan tâm đúng mức ảnh hưởng rất lớn về tâm lý đối với trẻ. - Khó khă trong vui chơi giải trí Vui chơi giải trí không chỉ giúp trẻ giải tỏa căng thẳng trong học tập mà còn giúp trẻ học được nhiều điều trong cuộc sống như thích ứng xã hội, phát triển trí tưởng tượng, học cách giao lưu học hỏi người khác… Trẻ em mồ côi cũng là trẻ em và tất nhiên quyền vui chơi giải trí là cần thiết và quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Vui chơi giải trí càng cần thiết để các em hòa nhập với bạn bè, giúp trẻ giảm bớt những thiệt thòi, mất mát, tự ti mặc cảm về số phận của mình. Ngày nay các trung tâm vui chơi giải trí mọc lên ngày càng nhiều, hình thức vui chơi ngày càng đa dạng phong phú. Có những khu vui chơi bình dân, có những khu vui chơi cao cấp, và đa phần khi tham gia vui chơi thì phải trả tiền, chỉ có một số ít khu vui chơi công cộng là không mất tiền. Nếu không có những khu vui chơi cho trẻ em nghèo, những trẻ có hoàn cảnh khó khăn trong đó có nhóm trẻ em mồ côi thì những đứa trẻ này chỉ có thể đứng từ xa mà nhìn những trẻ có điều kiện chơi mà thôi. Có thể nói, hoạt động vui chơi, giải trí của trẻ em mồ côi vẫn chưa được quan tâm đúng mực. Trẻ không tiếp cận được các hình thức vui chơi, giải trí phù hợp để thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của các em. - Khó khăn trong học tập Giáo dục đóng vai trò cực kì quan trọng đối với sự phát triển của trẻ, giúp cho trẻ có cơ hội để phát triển khả năng, trí tuệ. Giáo dục định hướng giá trị cho trẻ, giúp trẻ tiếp nhân các tri thức khoa học, cũng như các chuẩn mực xã hội. Ngoài ra giáo dục cũng là môi trường mà ở đó trẻ có cơ hội giao tiếp, 13 hoà nhập hơn với cộng đồng xung quanh. Theo Luật phổ cập giáo dục Việt Nam quy định: Các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết để đạt được trình độ tiểu học. Tuy nhiên, với trẻ em mồ côi thì việc tiếp cận với cơ hội học tập gặp nhiều hạn chế do nhiều lý do khác nhau: Do điều kiện kinh tế khó khăn nên phần lớn trẻ em mồ côi không nơi nương tựa không thể đến trường hoặc phải bỏ học giữa chừng. Đa số các em có trình độ học vấn thấp, các em không có cơ hội học tập nên gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt mà chủ yếu làm những công việc giản đơn, lao động chân tay nặng nhọc lương thấp. Có một số trẻ mồ côi thuộc đối tượng bảo trợ xã hội vẫn đang được đến trường. Tuy nhiên, điều kiện học tập còn nhiều khó khăn như thiếu thốn nhiều về quần áo, sách vở và dụng cụ học tập, chưa kể đến trẻ không có không gian học tập tại nhà hay chưa được chăm sóc đủ sức khỏe để học tập. 1.1.2.2. Nhu cầu: Trẻ em mồ côi cũng như các nhóm trẻ em khác đều có các nhu cầu như các trẻ bình thường, nhưng để đáp ứng được các nhu cầu đó thì nhóm trẻ em mồ côi luôn gặp khó khăn hơn, cụ thể các nhu cầu sau: - Nhu cầu về sinh lý: Được ăn uống đủ chất, được mặc ấm, vệ sinh đảm bảo cho sự phát triển về mặt thể chất của trẻ. Đối với trẻ em mồ côi nhu cầu này chưa được đáp ứng ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm sống ở môi trường vệ sinh chưa đảm bảo. - Nhu cầu được an toàn: Được bảo vệ thân thể, được chăm sóc sức khỏe, tinh thần cho trẻ. Đối với trẻ em mồ côi thiếu sự bảo vệ và chăm sóc của cha mẹ nên rất dễ bị xâm hại về thân thể cũng như không được chăm sóc về sức khỏe, tinh thần. Do đó các em rất cần một môi trường an toàn và được bảo vệ chăm sóc để các em có điều kiện phát triển. - Nhu cầu xã hội: Được yêu thương, có một gia đình yên ấm, được giao lưu quan hệ với bạn bè, được vui chơi giải trí, được hòa mình vào xã hội. Đối với trẻ em mồ côi thì mái ấm gia đình có đầy đủ cha mẹ, anh chị em ruột luôn là một khát khao của các em, các em không có điều kiện để vui chơi giải trí hòa nhập với bạn bè, xã hội đây là sự thiệt thòi rất lớn đối với các em. - Nhu cầu được tôn trọng: Được hỏi ý kiến, được tham gia ra quyết định, trẻ luôn đòi hỏi nhu cầu này từ người lớn, ở bạn bè và ở cha mẹ. sự tôn trọng này sẽ làm tăng sự tự tin, nghị lực của trẻ. Nhưng đối với trẻ em mồ côi thì nhu cầu này rất khó được đáp ứng. 14 - Nhu cầu tự thể hiện mình: Đây là nhu cầu cao nhất của trẻ là tự khẳng định mình, chứng minh rằng mình có năng lực, mình có thể làm được mọi việc. Đối với trẻ em mồ côi vì các điều kiện khó khăn, ít được hòa nhập, điều kiện phát triển về thể chất tinh thần không được đáp ứng, sự tôn trọng của xã hội đối với trẻ em mồ côi là rất ít, do đó các em rất khó có cơ hội để thể hiện mình. 1.2. Khái quát công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồi côi 1.2.1. Khái niệm 1.2.1.1. Khái niệm công tác xã hội Có nhiều cách tiếp cận với khái niệm CTXH, dưới đây là một số khái niệm cơ bản. Theo Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế (họp tại Canada năm 2004): CTXH là hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo sự thay đổi của xã hội bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề xã hội (vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ xã hội) vào quá trình tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năng của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. CTXH giúp cho con người phát triển đầy đủ và hài hòa hơn, đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân. Theo hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011) thống nhất một định nghĩa về CTXH như sau: CTXH là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với môi trường. Theo Phillines một nước nằm trong khu vực châu Á cũng có quan điểm về Công tác xã hội: Công tác xã hội là một nghề bao gồm các hoạt động cung cấp các dịch vụ nhằm thúc đẩy hay điều phối các mối quan hệ xã hội và sự điều chỉnh hòa hợp giữa cá nhân và môi trường xã hội để có xã hội tốt đẹp. Từ các khái niệm trên, có thể rút ra kết luận về khái niệm CTXH như sau: CTXH là một khoa học, là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu 15 cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội. 1.2.1.2 Khái niệm công tác xã hội cá nhân. Có nhiều học giả, nhà khoa học trong nước và nước ngoài đưa ra nhiều khái niệm và định nghĩa về công tác xã hội cá nhân. Trong luận văn này, khái niệm CTXH cá nhân được khái quát từ nhiều khái niệm khác nhau; cụ thể: CTXH cá nhân là phương pháp của CTXH thông qua tiến trình giúp đỡ khoa học và chuyên nghiệp, nhằm hỗ trợ cá nhân tăng cường năng lực tự giải quyết vấn đề của mình. Trong tiến trình này NVXH cần biết vận dụng nền tảng kiến thức khoa học tâm lí học, xã hội học và các khoa học xã hội liên quan khác, đồng thời sử dụng kỹ năng tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, sát cánh cùng đối tượng hỗ trợ họ tự giải giải quyết vấn đề của bản thân và có khả năng vượt qua những vấn đề khác có thể xảy ra trong tương lai. 1.2.. Khái niệm công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi CTXH cá nhân đối với trẻ em mồ côi là phương pháp của CTXH thông qua tiến trình giúp đỡ khoa học và chuyên nghiệp, nhằm can thiệp, hỗ trợ trẻ em mồ côi. Đây là một quá trình có sự tham gia của trẻ và người nuôi dưỡng, giám hộ trẻ vào việc xác định vấn đề, lên kế hoạch giải quyết vấn đề và hỗ trợ trẻ thực hiện các kế hoạch đã đề ra để đạt được mục tiêu mong muốn, trong quá trình này nhân viên xã hội có nhiệm vụ tìm kiếm, kết nối và điều phối các dịch vụ hỗ trợ, giúp đỡ trẻ phát huy các nguồn lực bên trong ( như các nguồn lực về sức khỏe, thể chất, tâm lý, các quan hệ của trẻ) và có thể kết nối với bên ngoài (cộng đồng, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho trẻ em mồ côi, các chế độ chính sách hỗ trợ trẻ em mồ côi…) để đáp ứng tốt nhất cho các nhu cầu của trẻ về vật chất và tinh thần cũng như nhu cầu của người nuôi dưỡng có thể có các điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ được tốt nhất. 1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản trong công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em mồ côi - Tôn trọng, không phán xét: Chấp nhận thân chủ trong hoàn cảnh của họ sẽ giúp nhân viên xã hội có được thái độ tôn trọng và tránh sự phán xét khi làm việc với thân chủ. Điều này giúp thiết lập và tăng cường mối quan hệ giữa người trợ giúp và thân chủ. Trên cơ sở đó sẽ thúc đẩy hiệu quả trợ giúp. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan