Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn trung tâm công tác xã hội tỉ...

Tài liệu Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn trung tâm công tác xã hội tỉnh hà nam

.PDF
101
526
134

Mô tả:

` VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUANG HUY CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI TỈNH HÀ NAM Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. LÊ THỊ QÚY HÀ NỘI, 2017 ` LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi thực hiện dựa vào những hiểu biết của bản thân cùng sự hướng dẫn của GS.TS. Lê Thị Quý. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Học viên thực hiện Nguyễn Quang Huy ` MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI ....................................................................................... 9 1.1. Các khái niệm công cụ ............................................................................................. 9 1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ................................................................. ...11 1.3. Thể chế về công tác xã hội đối với người cao tuổi ................................................ 15 1.4. Vai trò và nhiệm vụ của nhân viên xã hội đối với người cao tuổi ......................... 18 1.5. Các dịch vụ công tác xã hội dành cho người cao tuổi ........................................... 22 1.6. Các yếu tố tác động đến công tác xã hội cá nhân đối với người cao tuổi.. ........... .23 Chương 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI CAO TUỔI VÀ TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI TỈNH HÀ NAM .................................................................................... 26 2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu … .................................................................... .26 2.2. Thực trạng người cao tuổi tại Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Hà Nam ............... 32 2.3. Tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người cao tuổi tại Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Hà Nam…….......................................................................................... 38 2.4. Những hạn chế, thiếu sót trong công tác xã hội cá nhân đối với người cao tuổi tại Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Hà Nam và nguyên nhân ....................................... 62 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI TỈNH HÀ NAM .................................................................................... 65 3.1. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động CTXH đối với NCT tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam ...................................................................................................... 65 3.2. Đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về hoạt động CTXH với NCT ............................................................................................................. 67 3.3. Đào tạo, nâng cao năng lực hoạt động của mạng lưới cộng tác viên xã hội ở cơ sở ................................................................................................................................... 68 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 73 PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 76 ` DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ, cụm từ viết tắt Nghĩa của từ, cụm từ BTXH Bảo trợ xã hội CTXH Công tác xã hội NCT Người cao tuổi NVXH Nhân viên xã hội TC Thân chủ PVS Phỏng vấn sâu ` MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo truyền thống văn hóa của người Việt Nam phần lớn NCT sống cùng với con, cháu trong gia đình hình ảnh của những các cụ, ông, bà, cha, mẹ trong gia đình được tôn vinh, phục dưỡng không chỉ là một thứ tình cảm đặc biệt thiêng liêng, được lưu giữ qua nhiều thế hệ của người Việt, mà thành đạo lý chung của dân tộc từ gia đình đến xã hội, đó chính là “Đạo hiếu”. Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, đời sống các gia đình không ngừng được cải thiện, tuổi thọ bình quân ngày càng cao, số lượng NCT ngày càng gia tăng. Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn “già hóa dân số” từ năm 2011 và là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới theo dự báo, khoảng 15 – 20 năm nữa, Việt Nam sẽ chuyển sang cơ cấu dân số già. Đạo lý “Kính già” là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, được coi là một trong những thang bậc giá trị cơ bản và quan trọng của dân tộc Việt Nam, song trên thực tế do lao động kiếm sống đã và đang chiếm phần lớn thời gian của gia đình nên việc thực hiện đạo lý ấy đang bị sao nhãng và ít được quan tâm như trước. Thực tiễn cho thấy, có không ít những NCT ở nước ta đang phải sống trong những hoàn cảnh thiếu thốn về kinh tế, phải tiếp tục kiếm sống, nhiều NCT cô đơn, không nơi nương tựa thuộc gia đình hộ nghèo. Sự suy giảm về sức khỏe, thể lực, sự thiếu thốn về tinh thần, tình cảm, sự quan tâm chăm sóc của gia đình, xã hội đối với NCT đang trở thành những hiện tượng phổ biến…điều đó đặt ra cho hệ thống an sinh xã hội của chúng ta những thách thức rất lớn trong việc đảm bảo điều kiện sống, chăm sóc y tế, các hoạt động văn hóa giải trí … đặc biệt là sự tham gia của các hoạt động CTXH vào lĩnh vực này. Trên địa bàn tỉnh Hà Nam tính đến hết năm 2015 dân số tỉnh là 800.751 người, trong đó NCT là 112.791 chiếm 14,1% dân số. Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, đảng bộ, các cấp chính quyền và nhân dân tỉnh Hà Nam đã có nhiều giải pháp để quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất cũng như 1 ` tinh thần đối với NCT. Chính vì vậy, đời sống của NCT ở tỉnh Hà Nam nói chung đã phần nào được ổn định, được cải thiện và từng bước được nâng lên. Tuy nhiên Hà Nam là một tỉnh có điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn công tác chăm sóc, trợ giúp NCT còn nhiều hạn chế mới chỉ đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu cơ bản của NCT mà chưa đáp ứng những nhu cầu đa dạng khác, cũng như chưa giải quyết tốt những vấn đề mang tính chất cá nhân, nhóm đối tượng đặc thù. Hiện nay số NCT đang được quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam là 77 người. Trong điều kiện hội nhập và phát triển sâu rộng với thế giới, nghề CTXH ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong việc cung cấp những dịch vụ của CTXH nhằm hỗ trợ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho NCT trên mọi phương diện. Các phương pháp CTXH như CTXH nhóm, CTXH cá nhân đối với NCT là lĩnh vực khoa học đặc thù nhưng khá mới về cả lý luận, ứng dụng cũng như cải tạo thực tiễn. Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam đã áp dụng các lý thuyết nền tảng và phương pháp thực hành của CTXH vào việc chăm sóc, nuôi dưỡng NCT nhưng chưa đạt được kết quả như mong muốn, hiện nay Trung tâm cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu về CTXH với NCT. Từ thực tế trên và với mong muốn áp dụng những kiến thức, kỹ năng đã học được về CTXH vào thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng của công tác chăm sóc, nuôi dưỡng NCT ở Trung tâm, vì vậy tôi quyết định lựa chọn đề tài: “CTXH đối với NCT từ thực tiễn Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam” và sử dụng phương pháp “CTXH cá nhân với NCT” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài CTXH chuyên nghiệp trên thế giới đã phát triển được hơn một thế kỷ, tuy nhiên ở Việt Nam nghề CTXH chỉ mới bắt đầu. Trong gia đoạn 2000 - 2005, CTXH chính thức được đưa vào một số trường cao đẳng, đại học ở nước ta với tư cách là một chuyên ngành độc lập thì đây cũng chính là thời điểm xuất hiện nhiều những nghiên cứu, bài viết về NCT tại Việt Nam. Năm 1989, những nghiên cứu dân số và lao động về tuổi già bắt đầu với một báo cáo quan trọng về NCT theo yêu cầu của ESCAP được hoàn thành. Đây là báo 2 ` cáo dân số học đầu tiên về tuổi già Việt Nam được giới thiệu ra quốc tế. Tiếp sau đó là những khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về NCT, những khảo sát là công cụ quan trọng của quá trình làm chính sách. Năm 2000 trở đi cũng có nhiều nghiên cứu, bài viết về NCT do các nhà khoa học xã hội tiến hành. Có thể kể đến công trình nghiên cứu của các tác giả như Nguyễn Phương Lan “Tìm hiểu đời sống văn hóa NCT” dưới góc độ văn hóa học, Nguyễn Trung Nghĩa với khóa luận xã hội học “Tìm hiểu đời sống văn hóa tinh thần của cán bộ công nhân viên hưu trí” tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả các nghiên cứu cho thấy, tham gia các hoạt động văn hóa tinh thần là nhu cầu cấp thiết đối với NCT. Đặng Vũ Cảnh Linh (2009), trong cuốn tài liệu “NCT và các Mô hình chăm sóc NCT ở Việt Nam” tác giả đã đưa ra những nghiên cứu đánh giá về thực trạng của đời sống, sinh hoạt và nhu cầu của NCT hiện nay, đồng thời đưa ra những phân tích cụ thể về các mô hình chăm sóc NCT hiện có như: Mô hình Bệnh viện; mô hình Trung tâm chăm sóc NCT do nhà nước, các cơ quan đoàn thể, tư nhân quản lý; mô hình chăm sóc NCT tại gia đình; mô hình chăm sóc NCT tại cộng đồng. Ngày 25/3/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án phát triển nghề CTXH, ở nước ta đã có thêm nhiều nghiên cứu mới dưới dạng các đề tài, các bài báo khoa học về lĩnh vực CTXH nói chung, trong đó có các nghiên cứu về dịch vụ CTXH, tiêu biểu là: Trong Bài báo "Đề xuất mô hình trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH ở Việt Nam" được đăng trên tạp chí Lao động Xã hội ngày 11/11/2011 của Ths.Nguyễn Văn Hồi, tác giả đã trình bày khái quát những kết quả nghiên cứu, đánh giá về thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH của mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH ở Việt Nam (gồm các Trung tâm bảo trợ xã hội công lập và các Trung tâm, cơ sở ngoài công lập), trong đó nhấn mạnh đến những hạn chế và đưa ra một số khuyến nghị về mô hình trung tâm dịch vụ CTXH ở Việt Nam. 3 ` Trong cuốn tài liệu tập huấn “Khóa đào tạo CTXH cho các nhà quản lý cấp cao” Dự án đào tạo CTXH tại Việt Nam MOLISA - ULSA - CFSI- ASI – AP UNICEF 2012. Cuốn tài liệu này đã khái quát những nội dung cơ bản về nghề CTXH, nền tảng triết lý và kiến thức với các nội dung cơ bản như về nghề CTXH, nhân viên xã hội, quy trình trợ giúp trong CTXH, các mô hình trợ giúp trong CTXH. Nguyễn Thị Kim Hoa (2012), Giáo trình “CTXH trợ giúp NCT”. Tác giả đã trình bày một cách tổng quan về CTXH với NCT như: Các khái niệm, hệ thống lý thuyết áp dụng, các chương trình chính sách, một số mô hình trợ giúp NCT hiện nay. Cuốn sách đã giới thiệu một cách tổng quan về CTXH với NCT, là cơ sở để NVXH vận dụng vào thực hành trợ giúp NCT, tuy nhiên cuốn sách chưa tìm hiểu được nhiều mô hình trợ giúp CTXH với NCT ở một số nước có nghề CTXH phát triển, chưa nêu ra được các phương pháp tiếp cận làm việc với tường nhóm đối tượng cụ thể trong CTXH với NCT. Như vậy, qua việc tổng quan tình hình nghiên cứu về NCT từ trước tới nay cho thấy việc nghiên cứu đa dạng với các khía cạnh khác nhau về NCT nhưng chủ yếu dừng lại ở các nghiên cứu mang tính chất của chuyên ngành xã hội học là chủ yếu. Đề tài nghiên cứu về CTXH đối với NCT còn ít, những nghiên cứu trên chỉ tiếp cận ở khía cạnh chủ yếu như: tìm hiểu về chăm sóc sức khỏe hoặc phân tích thực trạng cũng như các đặc điểm, lao động và sắp xếp công việc trong gia đình của NCT hay đánh giá hiệu quả của chính sách xã hội… Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về CTXH đối với NCT tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam. Vì thế, đề tài “CTXH đối với NCT từ thực tiễn Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam” sử dụng phương pháp “CTXH cá nhân đối với NCT” là đề tài khá mới mẻ và sẽ bổ sung thêm vào những nghiên cứu về NCT. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn (thông qua thực tiễn tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam) CTXH cá nhân đối với NCT. 4 ` Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả CTXH đối với NCT từ thực tiễn Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nói trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ sau đây: Nghiên cứu cơ sở lý luận về CTXH đối với NCT, về CTXH cá nhân đối với NCT. Phân tích, đánh giá thực trạng sống, nhu cầu của NCT tại Trung tâm CTXH Tỉnh Hà Nam. Tiến trình CTXH cá nhân đối với NCT. Kỹ năng trong quá trình CTXH cá nhân để hỗ trợ, giúp đỡ NCT. Thực hiện tiến trình CTXH cá nhân với NCT và xây dựng quy trình cho nhân viên xã hội trong việc thực hiện hoạt động CTXH cá nhân đối với NCT. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động CTXH cá nhân đối với NCT tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Từ tháng 5 năm 2016 đến 31 tháng 12 năm 2016. - Phạm vi không gian: Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam. - Giới hạn nội dung nghiên cứu: CTXH cá nhân đối với NCT. 4.3. Khách thể nghiên cứu - NCT; người thân thân của NCT. - Lãnh đạo Trung tâm; nhân viên y tế, nhân viên tư vấn. - Những người bạn của NCT. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ những đánh giá thực trạng, nhu cầu của NCT, các hoạt động CTXH của cán bộ, nhân viên Trung tâm đối với 5 ` người cao tuổi sống ở Trung tâm CTXH từ đó rút ra những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp nâng cao hiệu quả CTXH cá nhân đối với NCT trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: Nghiên cứu hệ thống những lý thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như CTXH cá nhân đối với NCT, các chế độ, chính sách đối với NCT ở Trung tâm... 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu Nhân viên xã hội tiến hành thu thập các tài liệu, văn bản cần thiết với hoạt động trợ giúp NCT để phân chia, chia nhỏ những số liệu, dữ liệu thành từng cụm, từng lĩnh vực, từng chi tiết cụ thể để tìm ra những ý nghĩa của số liệu đó phục vụ cho mục đích tổng hợp thông tin và đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu đề tài một cách tốt nhất. 5.2.2. Phương pháp quan sát Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch nhằm thu thập những số liệu, sự kiện cụ thể, đặc trưng của NCT. Phương pháp này được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu, được thực hiện trong nhiều giai đoạn như: từ giai đoạn khảo sát trung tâm, giai đoạn tiến hành can thiệp với TC và những hoạt động khác đến giai đoạn kết thúc quá trình can thiệp. 5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu (định tính) Phỏng vấn sâu là phương pháp được sử dụng để tìm hiểu những thông tin cần thiết một cách chi tiết nhất từ NCT. Thông qua những câu hỏi và trả lời trực tiếp giữa NVXH với NCT, lãnh đạo, nhân viên Trung tâm và người thân của NCT (PVS: 06 người). Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu sâu hơn, rõ hơn những về vấn đề của NCT cần can thiệp. Trong quá trình phỏng vấn, NVXH sử dụng những kỹ năng chuyên sâu như: kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng nhận xét, đánh giá, kỹ năng diễn giải vấn đề, kỹ năng quan sát, kỹ năng thấu hiểu… đối với TC và đối tượng được phỏng vấn. 6 ` Thời gian dành cho mỗi cuộc phỏng vấn từ 50-60 phút, NVXH chuẩn bị trước các nội dung cần hỏi bằng những câu hỏi về những vấn như: thông tin chung, về hoàn cảnh của bản thân và gia đình, nhu cầu, vấn đề khó khăn đang gặp phải… trong đó NVXH phỏng vấn NCT là chủ yếu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học Với mục đích tìm hiểu thực tế để nâng cao hiệu quả trong quá trình học tập và nghiên cứu của học viên, đề tài này thuộc nhóm đề tài nghiên cứu ứng dụng lý thuyết, phương pháp CTXH vào việc giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể. Cụ thể là việc sử dụng hệ thống khái niệm, lý thuyết, phương pháp CTXH vào việc đánh giá, phân tích và đưa ra phương pháp hỗ trợ thích hợp. Những kết quả thu được từ thực tế sẽ đóng góp thêm vào nguồn tham khảo cho việc phân tích và nghiên cứu lý luận của CTXH cá nhân đối với NCT. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp NVXH, cán bộ làm công tác quản lý CTXH nói chung trên trên địa bàn tỉnh Hà Nam, Ban lãnh đạo và NVXH Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam nói riêng thấy được vai trò, ý nghĩa quan trọng của phương pháp CTXH cá nhân với NCT, đồng thời có thêm cái nhìn toàn diện, sâu sắc tích cực về cách thức và phương pháp chăm sóc, nuôi dưỡng từ đó có những giải pháp phù hợp giúp cho trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng NCT được toàn diện và tốt hơn. Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ những mặt hạn chế của chính sách, chế độ trợ cấp nuôi dưỡng, trang cấp… của Đảng và nhà nước đối với NCT được nuôi dưỡng tại Trung tâm. Giúp cho NCT nhận ra vấn đề và tiềm năng giải quyết vấn đề của chính mình. Kết quả nghiên cứu thực trạng CTXH cá nhân với NCT tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam cũng chứng tỏ phương pháp CTXH cá nhân trong việc trợ giúp NCT giải quyết được vấn đề của bản thân là phương pháp tối ưu và có thể nhân rộng phương pháp này với đối tượng NCT trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Bản thân sau khi nghiên cứu đề tài sẽ củng cố, mở rộng kiến thức về CTXH nói chung và CTXH đối 7 ` với NCT nói riêng, từ đó rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu, các phụ lục, luận văn có 3 chương sau đây: Chương 1: Những vấn đề lý luận về CTXH cá nhân đối với NCT. Chương 2: Thực trạng NCT và tiến trình CTXH cá nhân đối với NCT tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả CTXH đối với NCT từ thực tiễn tại Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam. 8 ` Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI 1.1. Các khái niệm công cụ 1.1.1. Khái niệm người cao tuổi “Có rất nhiều khái niệm khác nhau về NCT. Trước đây, người ta thường dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi, hiện nay NCT ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Hai thuật ngữ này tuy không khác nhau về mặt khoa học song về tâm lý, NCT là thuật ngữ mang tính tích cực và thể hiện thái độ tôn trọng. Theo quan điểm y học: NCT là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể. Về mặt pháp lý, Luật NCT Việt Nam năm 2009 quy định: NCT là là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên. Theo WHO: NCT phải từ 70 tuổi trở lên. Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định NCT là những người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau. Theo quan điểm của CTXH: Với đặc thù là một nghề trợ giúp xã hội, CTXH nhìn nhận về NCT như sau: NCT với những thay đổi về tâm sinh lý, lao động - thu nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó, NCT là một đối tượng yếu thế, đối tượng cần sự trợ giúp của công tác xã hội” [7]. 1.1.2. Khái niệm công tác xã hội Theo Hiệp hội CTXH thế giới: ‘‘CTXH là sự thúc đẩy thay đổi trong xã hội, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề trong quan hệ giữa con người, trao quyền và giải phóng con người đem lại sự bình yên cho xã hội và hạnh phúc cho mọi người. Vận dụng lý thuyết về hành vi của con người và các hệ thống xã hội, CTXH can 9 ` thiệp vào các mặt, ở đó con người tác động với môi trường sống của họ. Nguyên tắc về quyền của con người và công bằng xã hội là cốt lõi của CTXH” [30]. Theo Nguyễn Thị Oanh trong cuốn “Công tác xã hội”, định nghĩa đơn giản và dễ nhớ nhất là “CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng tự giúp” [21, Tr 6]. Theo Bùi Thị Xuân Mai trong cuốn giáo trình “Nhập môn CTXH”, định nghĩa: “CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội” [17, Tr 16]. 1.1.3. Khái niệm công tác xã hội cá nhân Theo Bùi Thị Xuân Mai, nhập môn CTXH thì CTXH cá nhân được định nghĩa là “Hệ thống giá trị và phương pháp được các NVXH chuyên nghiệp sử dụng, trong đó các khái niệm về tâm lý xã hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ cá nhân và gia đình giải quyết những vấn đề về nội tâm lý, quan hệ giữa các cá nhân, giữa cá nhân, kinh tế xã hội và môi trường thông qua các mối quan hệ một - một” [18, Tr 32]. Theo Lê Văn Phú, trong cuốn giáo trình CTXH định nghĩa “CTXH cá nhân là phương pháp can thiệp để giúp một cá nhân thoát khỏi những khó khăn trong đời sống vật chất và tinh thần; chữa trị, phục hồi sự vận hành các chức năng xã hội của họ; giúp họ tự nhận thức và giải quyết các vấn đề xã hội bằng khả năng của chính mình” [22, Tr 121]. Theo Nguyễn Thị Vân, trong cuốn giáo trình CTXH với NCT định nghĩa “CTXH cá nhân với NCT là phương pháp của CTXH nhằm giúp đỡ, hỗ trợ NCT vượt qua khó khăn, giúp họ đánh giá, xác định vấn đề, tìm kiếm tiềm năng, điểm mạnh từ đó nâng cao năng lực tự giải quyết vấn đề. Quá trình giúp đỡ là quá trình khoa học và chuyên nghiệp, trong đó NVXH vận dụng nền tảng kiến thức khoa học tâm lý xã hội, xã hội học, các khoa học xã hội liên quan khác và các kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp sát cánh cùng NCT hỗ trợ họ tự giải quyết vấn đề của mình và 10 ` hướng đến vượt qua những vấn đề khác có thể xẩy ra trong tương lai” [32, Tr8]. Như vậy, căn cứ vào các khái niệm CTXH cá nhân chúng ta có thể định nghĩa CTXH cá nhân với NCT như sau: CTXH cá nhân với NCT là quá trình NVXH sử dụng các kiến thức, kỹ năng chuyên môn để giúp đỡ, hỗ trợ NCT vượt qua khó khăn, giúp họ đánh giá, xác định vấn đề, tìm kiến tiềm năng, điểm mạnh từ đó nâng cao năng lực tự giải quyết vấn đề. 1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu 1.2.1. Lý thuyết hệ thống sinh thái Trong tiến trình thực hành CTXH nói chung và CTXH cá nhân nói riêng, NVXH khi giúp đỡ thân chủ của mình cần áp dụng rất nhiều kĩ năng và kiến thức như: thuyết hành vi, lí thuyết phân tâm học, thuyết nhân văn, hiện sinh…và nhiều lí thuyết khác để giải thích hành vi của thân chủ từ đó đưa ra được tiến trình giúp đỡ phù hợp mang lại hiệu quả cao. Thuyết Hệ thống là một trong những lí thuyết quan trọng được vận dụng trong CTXH, khi thực hiện một tiến trình giúp đỡ cá nhân không thể thiếu được lí thuyết Hệ thống bởi NVXH cần chỉ ra thân chủ của mình đang thiếu và cần đến những hệ thống trợ giúp nào và tìm cách giúp đỡ để họ có thể tiếp cận và tham gia các hệ thống. Có làm được như vậy thì NVXH mới thực sự hoàn thành tiến trình giúp đỡ cá nhân. Chỉ khi nào thân chủ được sự giúp đỡ và tham gia các hệ thống họ mới thực sự trở lại là chính họ. Các quan điểm về hệ thống trong CTXH bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống tổng quát của Bertanlaffy (nhà sinh học người Áo, 1901 – 1972). Thuyết này dựa trên quan điểm của lý thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống, được tạo nên từ các tiểu hệ thống và đồng thời bản thân các tiểu hệ thống cũng là mộ phần của hệ thống lớn hơn. Đại diện của thuyết hệ thống sinh thái là Hanson (1995), Mancoske (1981), Siporin (1980). Nội dung của thuyết nhấn mạnh đến sự tương tác giữa con người với môi trường sinh thái của mình. Do vậy, nguyên tắc chủ đạo của lý thuyết này là cuộc sống bình thường của con người phụ thuộc vào môi trường xã hội hiện tại của họ. Như vậy có thể nói, cốt lõi của cách tiếp cận này là: 11 ` - Con người sống trong môi trường. - Con người chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. - Con người ảnh hưởng ngược lại với môi trường. Thuyết nhấn mạnh sự can thiệp bất cứ thời điểm nào trong hệ thống cũng ảnh hưởng hoặc tạo ra sự thay đổi trong toàn hệ thống. Thuyết hệ thống sinh thái vận dụng sức mạnh của các lý thuyết khác trong việc mô tả hành vi phức tạp của con người. Nó chỉ ra hành vi của cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và những mối quan hệ kết nối của họ tạo ra bối cảnh lý tưởng để giúp đỡ cho vấn đề thực hành. Lý thuyết tập trung làm sáng tỏ sự hòa hợp giữa con người và môi trường của họ như thế nào để từ đó tìm cách giải quyết vấn đề của thân chủ. Như vậy vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu trong đề tài này sẽ giúp tác giả thấy được trong môi trường sống tập trung tại cơ sở bảo trợ xã hội có những yếu tố nào tác động đến NCT và người lại, từ đó giúp NVXH có những biện pháp, giải pháp can thiệp trợ, giúp kịp thời phù hợp nhất để giúp đỡ NCT giải quyết được vấn đề. 1.2.2. Thuyết nhu cầu Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn. Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu cầu của con người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Tổng quan về lý thuyết Thang bậc nhu cầu, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc: Nhu cầu cơ bản: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể hoặc nhu cầu sinh lý, bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ, không khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất. 12 ` Nhu cầu về an toàn, an ninh: Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần. Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ... Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở, được chăm sóc khi ốm đau, bệnh tật … Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm … cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này. Nhu cầu về xã hội: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương. Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm, … Nhu cầu về được quý trọng: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng vì nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được khích lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn. 13 ` Biểu 1.1: Mô hình bậc thang nhu cầu của Abraham Maslow Nhu cầu được thể hiện mình Nhu cầu được quý trọng Nhu cầu về xã hội Nhu cầu về an toàn, an ninh Nhu cầu cơ bản: về thể chất, sinh lý… Nhu cầu được thể hiện mình: Đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội. Thông qua lý thuyết về Thang bậc nhu cầu được đề xướng bởi nhà tâm lý học Abraham Maslow, chúng ta có thể thấy nhu cầu của con người là chính đáng, cần được tôn trọng và đáp ứng đầy đủ. Trung tâm CTXH tỉnh Hà Nam là đơn vị sự nghiệp công lập, NCT được đưa vào nuôi dưỡng, chăm sóc ở đây đều có hoàn cảnh đặc biệt. Việc sử dụng lý thuyết này để nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá xem trong 5 bậc thang nhu cầu đó, đơn vị đã đáp ứng được những nhu cầu nào và những nhu cầu nào chưa đáp ứng được, để từ đó đưa ra những giải pháp, đề xuất với đơn vị nhằm giúp cho công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng NCT ở Trung tâm được thực hiện tốt nhất đó là mục đích mà đề tài hướng đến. 14 ` 1.3. Thể chế về công tác xã hôi đối với người cao tuổi 1.3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đối với NCT một bộ phận trong lực lượng cách mạng dân tộc, người đã dành tình cảm và sự quan tâm đặc biệt. Kế thừa truyền thống “Trọng lão”, “Trọng xỉ” của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn xác định rõ vị trí, vai trò của NCT và tầm quan trọng của việc vận động NCT tham gia vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng đất nước. Theo Người, tuổi già, thực tế là “tuổi càng cao chí khí càng cao”, NCT vẫn là lớp người mang ý nghĩa “đức cao vọng trọng” trong xã hội. Biết ơn NCT, đó vừa là tình người và vừa là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Sau khi Hội NCT Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư TW đã ban hành chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc NCT”, quy định: “Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của NCT là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Hội NCT Việt Nam mới được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và mở rộng hoạt động ở cơ sở. Đảng đoàn, Mặt trận tổ quốc, các ban của Đảng, các đoàn thể nhân dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối hợp với Hội trong việc vận động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy NCT phục vụ công cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các Ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội nghiên cứu, xem xét các chính sách pháp luật hiện hành, đề xuất những văn bản pháp quy của Nhà nước nhằm bảo vệ, chăm sóc và phát huy NCT [1]. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu, những NCT.. thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng nhu cầu thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội". Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng cũng ghi rõ: “Vận động toàn dân tham gia hoạt 15 ` động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão thành cách mạng, những người có công với nước. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa…”. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định “ Sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”. Như vậy, từ Chỉ thị 59/CT-TW, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo số 12-TB/TW ngày 13/6/2001 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đều khẳng định: “NCT là nền tảng của gia đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã hội. Vì thế, chăm sóc và phát huy tốt vai trò NCT là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” . 1.3.2. Văn bản pháp luật của Nhà nước Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 ghi rõ: “Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ”. Hiếp pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng viết “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”. Luật bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe nhân dân năm 1989 quy định: “NCT được ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khỏe của mình”, “Bộ Y tế, Tổng cục Thể dục thể thao, hướng dẫn phương pháp rèn luyện thân thể, nghỉ ngơi và giải trí để phòng, chống bệnh tuổi già”. Luật NCT được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2009 đã thể hiện sâu sắc sự quan tâm của Đảng, nhà nước và xã hội đối với NCT. Theo quy định của Luật này và các 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan