Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn trung tâm bảo ...

Tài liệu Công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn trung tâm bảo trợ huấn nghệ cô nhi biên hòa, tỉnh đồng nai

.PDF
95
543
130

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐỨC DŨNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ HUẤN NGHỆ CÔ NHI BIÊN HÕA, TỈNH ĐỒNG NAI Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Khắc Bình. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ về “Công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn Trung tâm bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” được đưa ra dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích và đánh giá công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi) tại Trung tâm bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và một số cơ quan chức năng tại tỉnh Đồng Nai. Các số liệu là trung thực và chưa được công bố tại các công trình nghiên cứu có nội dung tương đồng nào khác./. Đồng Nai, tháng 5 năm 2017 Tác giả Luận văn Nguyễn Đức Dũng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT ......................................................................................... 7 1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu ................................................... 7 1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ................................................................ 16 1.3. Nội dung của CTXH với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (TECHCĐB) ............... 24 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ........................................................................................................................... 27 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ HUẤN NGHỆ CÔ NHI BIÊN HÕA, TỈNH ĐỒNG NAI ..................................................................... 30 2.1. Hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại tỉnh Đồng Nai ...................................................................................................................................... 30 2.2. Khái quát về Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ... 30 2.3. Thực trạng công tác xã hội trong chăm sóc trẻ em có hòan cảnh đặc biệt tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ............................... 33 2.4. Vai trò của nhân viên xã hội trong chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ............................................................................................................................. 54 Chƣơng 3: BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ HUẤN NGHỆ CÔ NHI BIÊN HÕA, TỈNH ĐỒNG NAI ................................................. 64 3.1. Giải pháp thực hiện công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Trung tâm bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa ........................................................ 64 3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ............................................................................................................................ 72 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 82 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Stt Viết đầy đủ Viết tắt 1 ASXH An sinh xã hội 2 BTXH Bảo trợ xã hội 3 BVCSTE Bảo vệ chăm sóc trẻ em 4 CBNV Cán bộ, nhân viên 5 CTXH Công tác xã hội 6 Holt Holt Internationa Children’s Services 7 LĐTBXH Lao động - Thương binh và Xã hội 8 TECHCĐB Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt 9 Trung tâm Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa 10 UNICEF The United Nations International Children’s Emergency Fund (Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác xã hội là một ngành khoa học mới được du nhập vào Việt Nam trong những năm gần đây, bằng những kết quả đạt được, đã chứng minh rằng đây là một ngành khoa học cần thiết trong việc đưa những chủ trương, chính sách về an sinh-xã hội của Đảng và Nhà nước đến gần với thực tế, đến gần với người dân hơn. Khi nói đến nghiên cứu về công tác xã hội, về các thực trạng của xã hội, hệ thống các nghiên cứu đã chứng minh vai trò của công tác xã hội (CTXH) trong việc chăm lo cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; trong đó có trẻ em đang được chăm sóc ở các trung tâm, các cơ sở bảo trợ xã hội, mái ấm, nhà mở hoặc trong các mô hình chăm sóc thay thế khác (gọi chung là cơ sở BTXH). Để giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đang sống tại các cơ sở BTXH có cơ hội và sẵn sàng hòa nhập với cộng đồng thì cần có nghiên cứu về CTXH đối với nhóm trẻ em này để hỗ trợ tốt hơn trong việc tái hòa nhập của trẻ. Công tác xã hội là một ngành khoa học, một hoạt động chuyên môn bao gồm hệ thống kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ và những quy định chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp khi thực hành. Đối tượng tác động của CTXH là cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội như trẻ em, phụ nữ, gia đình nghèo, người già, người khuyết tật, những người có hoàn cảnh khó khăn nên khó hòa nhập xã hội và chức năng xã hội bị suy giảm. Hướng trọng tâm của CTXH là tác động đến con người như một tổng thể, tác động đến con người trong môi trường của họ. Với mục đích là hướng đến giúp đỡ cá nhân, gia đình và cộng đồng phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay đổi về vai trò, vị trí của cá nhân, gia đình, cộng đồng từ đó giúp họ hòa nhập xã hội; mặt khác công tác xã hội thúc đẩy các điều kiện xã hội để cá nhân, gia đình tiếp cận được với chính sách, nguồn lực xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản nghề CTXH đang được Đảng và Nhà nước chú trọng phát triển. Tuy nhiên, vì là lĩnh vực hoạt động khá mới mẻ ở Việt Nam cả về lý thuyết và thực hành, mặc dù trên thực tế đã có giảng dạy về CTXH trong các trường cao đẳng, đại học và các mô hình chăm sóc trẻ trong cộng đồng nhưng hoạt động hỗ trợ của CTXH cho các đối tượng yếu thế vẫn chưa thực sự chuyên nghiệp, trong đó có việc hỗ trợ cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. 1 Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực và quốc gia thứ hai trên thế giới tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của nước ta với cộng đồng quốc tế về công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này đã được ban hành như: Bộ Luật Lao động, Luật Người khuyết tật, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Nuôi con nuôi, Luật phòng chống mua bán người, Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001 - 2010 và giai đoạn 2011 - 2020, Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020… Các văn bản quy phạm pháp luật này tạo thành hệ thống khuôn khổ pháp lý chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung trẻ em mồ côi không nơi nương tựa nói riêng là một hiện tượng xã hội đặc biệt không chỉ ở Việt Nam mà còn cả trên thế giới, việc bảo vệ, chăm sóc các đối tượng này vẫn luôn là một thách thức khó khăn lớn. Số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (10 nhóm đối tượng theo Luật Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em) tính đến cuối năm 2012 là 1.537.179 em, chiếm 6,5% tổng số trẻ em dưới 16 tuổi, trong đó có khoảng 176.000 trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi. Theo nghiên cứu từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTBXH) liên tục trong 7 năm (2006-2012), trẻ em mồ côi không nơi nương tựa ở Việt Nam gia tăng đáng kể. Theo đó, những khó khăn trong cuộc sống như nghèo khó, vấn đề về sức khỏe; mang thai ngoài ý muốn; sự kỳ thị từ quan điểm bất bình đẳng giới trong gia đình… được cho là những nguyên nhân khiến trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt (mồ côi, bị bỏ rơi). Theo báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai tính đến cuối năm 2014 toàn tỉnh có 581.232 trẻ em dưới 16 tuổi, trong đó trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là 10.520 em, số trẻ được chăm sóc ở các cơ sở bảo trợ xã hội, mái ấm, nhà mở là 1.160 em; năm 2015 có 654.855 trẻ em dưới 16 tuổi, trong đó trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là 11.374 em, số trẻ được chăm sóc ở các cơ sở bảo trợ xã hội, mái ấm, nhà mở là 1.249 em; năm 2016 có 661.445 trẻ em dưới 16 tuổi, trong đó trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là 11.641 em, số trẻ được chăm sóc ở các cơ sở bảo trợ xã hội, mái ấm, nhà mở là 1.473 em. Để góp phần phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cũng như làm thế nào để đánh giá và phát huy được hiệu quả của hoạt động CTXH hỗ trợ cho các em, tôi quyết định chọn đề tài “Công tác xã hội đối với trẻ 2 em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Trẻ em nói chung và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng là nhóm đối tượng được nhiều nhà khoa học, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nghiên cứu như: Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 2012, Nghiên cứu công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. UNICEF, năm 2010, Báo cáo Phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam. Nghiên cứu của TS. Nguyễn Hải Hữu – Nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, năm 2010 có bài viết “Kinh nghiệm của một số nước về hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em”. Nghiên cứu của tác giả Đặng Bích Thủy, năm 2011 “Một số vấn đề cơ bản về trẻ em Việt Nam” đã chỉ ra những vấn đề xã hội mang tính gay gắt mà trẻ em đang phải đối mặt như bất bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội chăm sóc, bảo vệ, lao động sớm, bị xâm hại, bị bỏ rơi... Nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Ngọc Phương, năm 2012 “Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển các dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” nhận định tại Anh, Mĩ, c, Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, việc cung cấp dịch vụ xã hội chủ yếu là trách nhiệm của các bộ và cơ quan nhà nước. Đánh giá của Vụ Pháp chế, Bộ LĐTBXH, năm 2012, Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em: Đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam. Nghiên cứu của đồng tác giả Nguyễn Hồng Thái và Phạm Đỗ Nhật Thắng, năm 2011 Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng. Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam, năm 2010, Một số giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Báo cáo của Sở LĐTBXH tỉnh Đồng Nai về tình hình kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em các năm 2014, 2015, 2016. Những nghiên cứu trên đây đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhưng hiện nay vấn đề về trẻ em có hoàn cảnh đặc 3 biệt từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này làm luận văn Thạc sĩ, đề tài này không trùng với các công trình khoa học đã được công bố. Tuy nhiên các công trình khoa học trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện bản luận văn này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về công tác xã hội đối với trẻ có hoàn cảnh đặc biệt và thực trạng chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để đề xuất các giải pháp chủ yếu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động CTXH và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xác lập cơ sở lý luận về chăm sóc bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Phân tích và đánh giá hoạt động chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần đảm bảo hoạt động CTXH chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (gọi tắt là Trung tâm). 4.2. Phạm vi và khách thể nghiên cứu 4.2.1. Phạm vi nghiên cứu Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Thời gian nghiên cứu: Trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2016. 4.2.2. Khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên 70 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (trẻ mồ côi, bị bỏ rơi) đang được nuôi dưỡng, chăm sóc ở Trung tâm. Nghiên cứu trên nhóm khách thể 30 người là cán bộ quản lý, nhân viên công tác xã hội, nhân viên chăm sóc đang làm việc với trẻ em tại Trung tâm. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 4 5.1. Phƣơng pháp luận Sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách pháp luật như Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em năm 1990, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Bộ Luật Lao động, Luật Người khuyết tật, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (Luật Trẻ em 2016), Luật Nuôi con nuôi, Luật phòng chống mua bán người, Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 – 2020 trên cơ sở phương pháp luận của học thuyết nhu cầu của A.Maslow, lý thuyết vai trò làm cơ sở để xác định nhu cầu, phân tích hiện trạng, các cứ liệu được xem xét từ nhiều chiều cạnh, nhiều góc độ, những lập luận đều có căn cứ cơ sở khoa học và thực tiễn. 5.2. Các phƣơng pháp thu thập thông tin Phương pháp phân tích tài liệu, dữ liệu sẵn có: Đề tài thu thập những thông tin sẵn có từ các công trình nghiên cứu khoa học đã được xuất bản hoặc đăng tải trên các tạp chí khoa học, báo chí, mạng internet, các báo cáo tổng hợp liên quan tới TECHCĐB, công tác xã hội với TECHCĐB. Từ đó phân tích và ứng dụng những thông tin phù hợp vào trong nghiên cứu đề tài. Dựa trên những tài liệu liên quan mà Tác giả đã thu thập được từ các phương tiện thông tin đại chúng: báo in, báo mạng, các diễn đàn, mạng xã hội, báo cáo chuyên đề, sách tham khảo, kỷ yếu... để có cái nhìn rõ nét về vấn đề nghiên cứu cũng như để làm cơ sở lý luận cho đề tài. Các tư liệu thu thập được đều được sắp xếp, phân tích và hệ thống hóa trong đề tài. Phương pháp khảo sát: Quan sát các hoạt động thực tiễn của cán bộ, nhân viên quản lý, nhân viên chăm sóc và trẻ ở tại Trung tâm; Phương pháp chuyên gia: Thực hiện phỏng vấn sâu với cán bộ quản lý có nhiều năm công tác gắn bó với nghề CTXH tại nơi quan sát. Phương pháp điều tra xã hội học: Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với 70 trẻ em, 30 cán bộ, nhân viên của Trung tâm. 5.3. Phƣơng pháp xử lý thông tin Sử dụng phần mềm SPSS để thống kê các số liệu định lượng và xử lý dữ liệu định tính bằng phương pháp tổng hợp trích dẫn, các thông tin định tính sẽ được tiến hành gỡ băng, mã hóa và được trình bày thành văn bản chi tiết, thông tin thu thập được sẽ được lọc ra, sử dụng theo chủ đề dưới dạng các trích dẫn, được phân 5 tích vào các nội dung nghiên cứu của đề tài, sử dụng cùng với các thông tin định lượng để làm rõ hoặc chứng minh thêm các luận điểm được trình bày trong bài viết. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm một số lý luận liên quan tới vấn đề nghiên cứu như: Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là ai, các hoạt động CTXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này? Những hạn chế của hoạt động CTXH khi triển khai những chính sách hỗ trợ. Những thông tin thu thập từ Luận văn sẽ góp phần vào hệ thống cơ sở dữ liệu CTXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng và lý luận về chính sách an sinh xã hội (ASXH) với trẻ em nói chung. Là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực CTXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và làm cơ sở để một số nơi có nhu cầu nghiên cứu tham khảo. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ nghiên cứu thực trạng trên, qua các phương pháp luận cần thiết trong nghiên cứu thực nghiệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giúp người học sử dụng nhuần nhuyễn hơn các lý thuyết về CTXH, củng cố thêm các lý luận khoa học và các học thuyết về ASXH trong nghiên cứu của mình. Góp phần cung cấp tư liệu tham khảo trong đào tạo, tập huấn hay các nghiên cứu tiếp theo ở các địa bàn, địa phương khác. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Trung tâm bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Một số giải pháp thực hiện công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT 1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu 1.1.1. Khái niệm trẻ em Khái niệm theo Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em: Điều 1, Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Khái niệm theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004): “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Khái niệm theo Luật Trẻ em (2016): “Trẻ em quy định trong Luật này là người dưới 16 tuổi”. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự sử dụng khái niệm “người chưa thành niên” là người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Trong quá trình thực hiện một số chính sách trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta vẫn vận dụng cho những người trong độ tuổi vị thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi như chính sách trợ cấp xã hội, chính sách trợ giúp về giáo dục, y tế khi các đối tượng này vẫn trong hoàn cảnh khó khăn hoặc đang theo học các trường phổ thông hoặc các trường dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học. Đối với trẻ em là người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam thì chúng ta vẫn tôn trọng thực hiện theo quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, nhưng số lượng trẻ em này không có nhiều và cũng rất hiếm khi thuộc nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. 1.1.2. Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì: Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng. Từ định nghĩa trên ta có thể thấy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có những đặc điểm sau: 7 Thể chất và tinh thần không bình thường đó là các trẻ em có khuyết tật về thể chất, tinh thần; Không đủ điều kiện thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình và cộng đồng. Từ những đặc điểm trên chúng ta có thể phân biệt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt với trẻ em bình thường. Theo quy định của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (gồm 10 nhóm đối tượng): - Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa; - Trẻ em khuyết tật, tàn tật; - Trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; - Trẻ em nhiễm HIV/AIDS; - Trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; - Trẻ em phải làm việc xa gia đình; - Trẻ em lang thang; - Trẻ em bị xâm hại tình dục; - Trẻ em nghiện ma túy; - Trẻ em vi phạm pháp luật. Như vậy trẻ em lang thang là một trong 10 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, cần sự quan tâm nhiều hơn của gia đình, cộng đồng và xã hội. Theo Luật Trẻ em (kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 05/4/2016 gồm 7 chương với 106 điều (tăng 46 điều) và có hiệu lực từ 1/6/2017). Tại điều 10. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm các nhóm sau đây (14 nhóm đối tượng): a) Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ; b) Trẻ em bị bỏ rơi; c) Trẻ em không nơi nương tựa; d) Trẻ em khuyết tật; đ) Trẻ em nhiễm HIV/AIDS; e) Trẻ em vi phạm pháp luật; g) Trẻ em nghiện ma túy; 8 h) Trẻ em phải bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; i) Trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; k) Trẻ em bị bóc lột; l) Trẻ em bị xâm hại tình dục; m) Trẻ em bị mua bán; n) Trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải Điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; o) Trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc. Trên cơ sở này, Chính phủ quy định chi tiết các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và chính sách hỗ trợ phù hợp đối với từng nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. 1.1.3. Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ bị bỏ rơi, trẻ mồ côi Theo khoản 1, điều 5, Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013: Trẻ bỏ rơi là trẻ bị cha mẹ bỏ đi không rõ tung tích; trẻ em mồ côi là trẻ em mồ côi cả cha và mẹ; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định của pháp luật hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, hoặc cha mẹ đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện, cơ sở giáo dục bắt buộc, không còn người nuôi dưỡng. Các đặc điểm của trẻ em bị bỏ rơi và trẻ mồ côi được xác định như sau: Trẻ bỏ rơi là trẻ bị cha mẹ bỏ đi không rõ tung tích. Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, không có người chăm sóc nuôi dưỡng, không còn ai nương tựa. Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại bỏ đi mất tích; hoặc không đủ khả năng nuôi dưỡng do đau ốm, bệnh tật; hoặc đang thời gian chấp hành án. Trẻ em mồ côi do bị bỏ rơi, không còn người thân thích để nương tựa, mất nguồn nuôi dưỡng. Nguyên nhân trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Do hoàn cảnh gia đình: Hoàn cảnh của người mẹ hoặc cha, mẹ không đủ điều kiện để nuôi con, gia đình bất hòa, trẻ là nạn nhân của bạo hành gia đình, gia 9 đình không có đủ điều kiện để chăm lo cho trẻ, sức khỏe của các thành viên trong gia đình không đảm bảo để chăm sóc trẻ; Do tác động của kinh tế: Di dân tự do và sự gia tăng dân số cơ học là một trong những nguyên nhân khiến cho trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, đó là việc cha mẹ đi làm ăn xa bỏ lại trẻ ở gia đình với người thân khác; do chưa có công việc và nơi ở ổn định việc sinh ra một đứa trẻ dẫn đến gánh nặng cho người mẹ và không đảm bảo việc chăm sóc cho trẻ; Do xã hội: Định kiến của xã hội là một trong những nguyên nhân khiến một số trẻ em bị bỏ rơi như người mẹ mang thai ngoài giá thú, công tác tuyên truyền về bảo vệ chăm sóc trẻ em còn hạn chế. Đặc điểm tâm lý của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Hầu hết trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (mồ côi, bị bỏ rơi) không được chăm sóc đầy đủ về vật chất và đặc biệt là tinh thần. Sự thiếu hụt tình thương yêu chăm sóc, điều kiện sống đã dẫn tới những cản trở trong sinh hoạt, học tập, vui chơi, giải trí... ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và hình thành nhân cách của trẻ, tác động xấu đến tâm lý của trẻ trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (mồ côi, bị bỏ rơi) thường có cuộc sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị, rất dễ bị xúc động và yếu đuối khi có sự thay đổi, biến động của môi trường sống... Yếu tố tâm lý này giúp trẻ có được nghị lực để vươn lên vượt qua những khó khăn và trở ngại của cuộc sống, nhưng ngược lại có những trẻ dễ bị tổn thương, bi quan chán nản, tự ti, tự ái, thiếu tin tưởng vào người lớn và cuộc sống... tạo nên tâm lý bất cần dễ bị cuốn hút vào các tệ nạn xã hội và làm trái pháp luật. Nhu cầu của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt Theo Thuyết nhu cầu của A. Maslow, để nhận biết nhu cầu và hiểu được nhiều khía cạnh khác nhau trong nhân cách của trẻ, đặc biệt là trẻ em có hòan cảnh đặc biệt (trẻ mồ côi, bị bỏ rơi), đòi hỏi nhân viên xã hội phải đứng trên quan điểm phát triển, đặc biệt là khi làm việc với trẻ em đang khủng hoảng. Điều quan trọng là cần quan tâm đến những điều kiện vật chất và môi trường xã hội xung quanh trẻ cũng như có sự trao đổi thích hợp để hiểu quan điểm và thế giới riêng của trẻ. Sự hiểu biết về các nhu cầu của trẻ sẽ giúp người chăm sóc và nhân viên xã hội giải quyết được các vấn đề của trẻ đang khủng hoảng một cách thích hợp. 10 Trẻ em được sinh ra với những nhu cầu sinh lý, tình cảm và nhận thức như nhau. Mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa sẽ đáp ứng những nhu cầu của trẻ với những phương cách phù hợp trong những điều kiện tinh thần, kinh tế, xã hội và chính trị khác nhau. Nhân viên xã hội dùng sự giải thích các nhu cầu của trẻ như một công cụ để xem xét vị trí và môi trường của trẻ. Những nhu cầu căn bản của trẻ em nói chung và trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi nói riêng bao gồm: Nhu cầu đư c an toàn và yêu thương: Trẻ em cần người chăm sóc yêu thương từ thời thơ ấu. Có thể không nhất thiết đó phải là người mẹ đẻ mà điều quan trọng là trẻ cần được quan tâm một cách trực tiếp, xuất phát từ nhiệt tâm và tình cảm của người chăm sóc một cách ổn định. Bên cạnh sự yêu thương, trẻ em cũng cần sự an toàn. Điều này có được khi trẻ được sống trong một môi trường ít biến động, giúp trẻ có thể làm quen và dự đoán được các tình huống, sự việc xảy ra trong cuộc sống của trẻ. Trẻ nhận được sự chấp nhận của người lớn thể hiện qua việc tán thưởng hoặc không được đồng tình. Nhu cầu về sinh l : Nhu cầu sinh lý hay được gọi là nhu cầu cơ thể bao gồm ăn, uống, ở, mặc, vệ sinh thân thể, các hoạt động sinh lý, sức khỏe,… Qua đó, trẻ em cần một khoảng không gian và những cơ hội để vận động, vui chơi, đặc biệt trong các Trung tâm, cơ sở hoặc những nơi trẻ đang được chăm sóc tạm thời. Nhu cầu đư c thừa nhận, tôn trọng: Nếu đứa trẻ có hình ảnh tích cực về bản thân, trẻ có thể đương đầu với nhiều áp lực từ cuộc sống. Do đó, để giúp trẻ nhận rõ giá trị của chính mình, nhân viên xã hội nên chấp nhận trẻ như nó vốn có, nhìn thấy khả năng của trẻ hơn là chỉ quan tâm đến những khuyết điểm của trẻ. Nhân viên xã hội phải giúp tạo nơi trẻ cảm giác được chấp nhận. Khi cố gắng thay đổi hành vi của trẻ, nhân viên xã hội phải phân biệt được những hành vi không phải của chính trẻ. Người hỗ trợ và chăm sóc trẻ có vai trò quan trọng trong việc tạo cho trẻ một sự cảm nhận về giá trị, về sức mạnh của môi trường trong việc phát triển tự nhận thức của trẻ. 1.1.4. Khái niệm về cơ sở bảo trợ xã hội Theo Điều 1 và Điều 2, Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ 11 sở BTXH thì cơ sở BTXH là cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10 đối tượng trở lên. Cơ sở BTXH bao gồm cơ sở BTXH công lập và cơ sở BTXH ngoài công lập. Cơ sở bảo tr xã hội công lập: Do cơ quan nhà nước quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội. Cơ sở bảo tr xã hội ngoài công lập: Do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội. Trong phạm vi nghiên cứu này Trung tâm Bảo trợ huấn nghệ cô nhi Biên Hòa là loại hình cơ sở bảo trợ xã hội công lập có đối tượng chính là trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi không nơi nương tựa. 1.1.5. Khái niệm công tác xã hội Định nghĩa của Hiệp hội quốc gia nhân viên CTXH Mỹ (NASW-1979): “Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó”. Theo Hiệp hội nhân viên CTXH Quốc tế 7/2000 tại Montreal, Canada (IFSW), CTXH được định nghĩa như sau: “CTXH thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc cơ bản của nghề”. CTXH tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải thiện cuộc sống (Zastrow, 1999.). Theo cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội thảo 2004). Định nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng tự giúp. Nó không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn đề của mình. Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010) đưa ra một khái niệm chung về CTXH ở Việt Nam: Là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các 12 cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 32/2010/QĐ-TTg thì CTXH được định nghĩa như sau: CTXH là hoạt động mang tính chuyên môn, được thực hiện theo các nguyên tắc và phương pháp riêng nhằm hỗ trợ các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội và cộng đồng dân cư trong việc giải quyết các vấn đề của họ. Qua đó CTXH theo đuổi mục tiêu vì hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã hội. Mục đích, chức năng và nhiệm vụ của công tác xã hội c đ ch: Một là, nâng cao năng lực cho các nhóm đối tượng như cá nhân, gia đình và cộng đồng có hoàn cảnh khó khăn. ai là, cải thiện môi trường xã hội để hỗ trợ cá nhân, gia đình và cộng đồng thực hiện các chức năng, vai trò của họ có hiệu quả. Ch c n ng CT H: CTXH có các chức năng cơ bản sau: phòng ngừa, chữa trị, phục hồi và phát triển. Nhiệm v của CT H: CTXH chuyên nghiệp có nhiệm vụ trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng vượt qua khó khăn, trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng nhằm thực hiện tốt các chức năng xã hội. 1.1.6. Cơ sở pháp lý của công tác xã hội đối với trẻ em TECHCĐB Về mặt hiến pháp và luật pháp, Đảng và Nhà nước ta đã tích cực xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp lý nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, kịp thời điều chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh, trong đó có pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Ngày 12/8/1991, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Ngày 15/6/2004, Quốc hội tiếp tục thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004 nhằm từng bước điều chỉnh luật cho phù hợp hơn trong thực tiễn. Trong đó, Luật quy định cụ thể: “Nghiêm cấm các hành vi cha mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em đư c mình giám hộ”; Để thực hiện được biện pháp có gia đình thay thế, có nguồn nuôi dưỡng: “Nhà nước khuyến khích gia đình, cá nhân 13 nhận nuôi con nuôi; cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận đỡ đầu, nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi”. Luật Nuôi con nuôi được ban hành ngày 17/6/2010 quy định rất cụ thể về trách nhiệm của người nhận nuôi con nuôi cũng như trách nhiệm của địa phương nơi cư trú. Đối với người nhận nuôi con nuôi: “Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi”. Hiện thực hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, nhiều chương trình, đề án, chính sách, kế hoạch hành động được ban hành nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ trong đó có nhóm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi. Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-2010 (Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 23/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 02 năm 2001); Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015 (Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 267/QĐ-TTg ngày 22/02/2011) đã triển khai Dự án xây dựng và nhân rộng các mô hình trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng. Ngày 26/4/2013, Chính phủ ban hành Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa giai đoạn 2013-2020 (Quyết định số: 647/QĐ-TTg). Đề án nhằm huy động sự tham gia của xã hội, nhất là gia đình, cộng đồng, trong việc chăm sóc, trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để ổn định cuộc sống. Mục tiêu cụ thể của Đề án là phấn đấu đến năm 2020 có 95% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được nhận sự trợ giúp và được cung cấp các dịch vụ xã hội phù hợp; tiếp tục thí điểm mô hình gia đình, cá nhân nhận nuôi có thời hạn đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; mô hình dạy nghề gắn với tạo việc làm cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các cơ sở BTXH và nhà xã hội để đủ điều kiện chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Trên địa bàn Đồng Nai, thực hiện Chương trình Quốc gia bảo vệ trẻ em, tỉnh đã đặt ra mục tiêu trong giai đoạn 2011- 2020 giảm tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và đảm bảo ít nhất 90% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển. Đồng thời, 80% trẻ em được phát hiện có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt được can thiệp để giảm thiểu, loại 14 bỏ nguy cơ này; xây dựng và đưa vào hoạt động có hiệu quả hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, UBND tỉnh Đồng Nai yêu cầu 100% các huyện, thị xã, thành phố tổ chức “Tháng hành động vì trẻ em”, chăm lo cho trẻ em nhân ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6, tổ chức các hoạt động vui chơi an toàn, bổ ích cho trẻ em trong dịp hè, 100% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm, tạo điều kiện và đảm bảo các quyền của trẻ trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục và phát triển. Về mặt chính sách, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách trợ giúp các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi không nơi nương tựa. Ngày 13/4/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH trong đó đã quy định cụ thể mức trợ cấp 180.000đ/em/tháng và nhân theo các hệ số tương ứng 1.0 đối với trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng trên 18 tháng tuổi; 1.5 đối với trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng dưới 18 tháng tuổi; và 2.0 đối với trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng dưới 18 tháng tuổi, bị tàn tật nặng hoặc bị nhiễm HIV. Để các chế độ chính sách phù hợp hơn với tình hình thực tế, ngày 27/02/2010, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH, trong đó nâng mức trợ cấp cho trẻ em mồ côi được chăm sóc tại cộng đồng, nhà ở xã hội tại cộng đồng hay tại cơ sở BTXH với mức thấp nhất là 240.000đ/em/tháng (so với Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 là 180.000đ/em/tháng). Hiện nay thực hiện Nghị định 136/2013/NĐ-CP, UBND tỉnh Đồng Nai quy định mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng BTXH sống tại cộng đồng do xã, phường, thị trấn quản lý. Theo đó, mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng BTXH là 270.000 đồng/tháng đối với hệ số 1.0. Mức trợ cấp tại cộng đồng đối với nhóm Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; Trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng hệ số 15 áp dụng là 2,5 đối với trẻ dưới 4 tuổi và hệ số 1,5 đối với trẻ trên 4 tuổi đến dưới 16 tuổi. Đối với trẻ em bị mồ côi, bị bỏ rơi đang được chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội công lập được hưởng hệ số áp dụng là 5,0 đối với trẻ dưới 4 tuổi, hệ số 4,0 đối với trẻ trên 4 tuổi đến dưới 16 tuổi, hệ số 3,0đối với người từ 16 tuổi trở lên. Từ góc độ hiến pháp, luật pháp đến các chương trình, đề án, chính sách, kế hoạch hành động được ban hành đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta trong công tác bảo vệ, giáo dục trẻ em, nhất là những trẻ em có HCĐB, trẻ em mồ côi. 1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu 1.2.1. Lý thuyết quyền con ngƣời Công ước của Liên h p quốc Ngày 16/12/1966, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua hai Công ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Sự ra đời của hai Công ước này đã kết thúc một tiến trình soạn thảo kéo dài gần 20 năm, thể hiện sự đoàn kết và thống nhất của các hệ tư tưởng khác nhau trên thế giới. Hai Công ước cùng với Tuyên ngôn Nhân quyền toàn thế giới đã trở thành bộ luật quốc tế về quyền con người (International Bill of Human Rights), tạo nên nền tảng pháp lý căn bản về quyền con người trên phạm vi toàn thế giới. Hơn 50 năm qua, sau khi hai Công ước lịch sử này ra đời, các nguyên tắc căn bản, các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã được hình thành và lan tỏa ra toàn thế giới, tạo nên hệ giá trị về nhân quyền chung cho toàn nhân loại. Các Công ước quốc tế về quyền con người cùng với các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền của Liên Hợp Quốc và của các khu vực đã trở thành cơ sở quan trọng cho sự phát triển, ổn định và thịnh vượng trên toàn thế giới. Các tổ chức của Liên hợp quốc có trách nhiệm trong lĩnh vực quyền con người được hình thành và hoạt động đều dựa trên các căn cứ pháp lý là Bộ luật Nhân quyền và các Công ước quốc tế về quyền con người. Cho đến nay, mặc dù Liên hợp quốc đã thông qua rất nhiều văn kiện khác nhau về quyền con người như các Tuyên bố, các Công ước, các Nghị định thư thì hai Công ước này vẫn luôn là cơ sở đặc biệt quan trọng của hệ thống văn kiện quốc tế về quyền con người. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan