Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xây dựng đảng ở đảng bộ huyện đức thọ từ 1999 đến nay - thực trạng, kin...

Tài liệu Công tác xây dựng đảng ở đảng bộ huyện đức thọ từ 1999 đến nay - thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp

.PDF
84
739
97

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- PHAN THỊ THÚY HỢI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỨC THỌ TỪ 1999 ĐẾN NAY – THỰC TRẠNG, KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chính trị học Hà Nội – 2013 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- PHAN THỊ THÚY HỢI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỨC THỌ TỪ 1999 ĐẾN NAY – THỰC TRẠNG, KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Xuân Tuất Hà Nội – 2013 ii LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực . Các kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phan Thị Thúy Hợi iii MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5 6. Đóng góp của luận văn 5 7. Kết cấu của luận văn 5 Chương 1: NHỮNG YÊU CẦU MỚI TRONG CÔNG TÁC 6 XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY 1.1. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng 6 1.2. Xây dựng đảng vững mạnh về tổ chức 14 1.3. Tăng cường công tác dân vận 22 1.4. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giá sát, kỷ luật của Đảng 23 1.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo 26 Chương 2: CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ 39 HUYỆN ĐỨC THỌ TỪ NĂM 1999 ĐẾN NAY 2.1. Khái quát tình hình huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh 39 2.2. Đảng bộ huyện Đức Thọ chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, từ năm 1999 đến nay 42 2.3. Một số kinh nghiệm 63 2.4. Phương hướng và giải pháp 66 KẾT LUẬN 74 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO iv MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là một đảng cách mạng chân chính để làm tròn vai trò lãnh đạo và cầm quyền, đưa sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thắng lợi là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược của Đảng, của cách mạng Việt Nam. Với vai trò, vị trí quan trọng đó, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Vào lúc này, xây dựng, chỉnh đốn Đảng đang là đòi hỏi bức xúc không chỉ với bản thân Đảng mà còn đối với cả thực tiễn sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Làm cho Đảng lãnh đạo vươn lên ngang tầm nhiệm vụ mới, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo, phát huy được uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong xã hội, đó cũng là mong muốn và nguyện vọng sâu xa của toàn dân tộc. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức đi liền với đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đó là đổi mới phương thức lãnh đạo, đổi mới tổ chức bộ máy cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, tình hình, đặc điểm mới hiện nay khi Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế. Đảng cầm quyền, bên cạnh những thuận lợi to lớn cũng có không ít những khó khăn, nguy cơ, thách thức. Càng đi vào đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, càng cần phải coi trọng công tác xây dựng Đảng; đây là nhân tố đảm bảo thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn, nặng nề, khó khăn, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn nữa. Đảng ta, bên cạnh mặt tích cực, phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp, đang đứng trước các yêu cầu, nhiệm vụ mới, phải khắc 1 phục, đẩy lùi những yếu kém, tiêu cực, phức tạp gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá sự nghiệp đổi mới của đất nước ta nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh tình hình trên, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ ta. Thực tiễn gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng hết sức quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, Ban Chấp Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về xây dựng Đảng, nhờ đó, tạo những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, kết quả đạt được vẫn chưa như mong đợi. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (2012) đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo. Là một bộ phận hữu cơ của Đảng, Đảng bộ huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), trong quá trình xây dựng và phát triển, đã luôn quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác xây dựng Đảng vào trong hoàn cảnh thực tiễn của Đảng bộ, và đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, luôn được đánh giá là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh của Hà Tĩnh. Từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ cũng đúc kết được những bài học kinh nghiệm quý. Để làm rõ những kết quả, thành tích đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, việc 2 nghiên cứu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh) vì thế có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cấp thiết. Với lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Đức Thọ từ 1999 đến nay - thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp” làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là đề tài giành được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các chuyên gia. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: - Trần Đình Nghiêm (chủ biên) (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. - Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2008), Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Ngô Huy Tiếp (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Tô Huy Rứa (2012), Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ chức của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các công trình này đã tập trung làm rõ và trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Với những phân tích sắc sảo, những dẫn liệu cụ thể, sinh động, giàu sức thuyết phục, các cuốn sách đề cập nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, nhiều tác động khác nhau cả về thực tiễn và lý luận đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong quá trình đổi mới đất nước. Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân tích những bài học kinh nghiệm, khẳng định những quan điểm mang tính nguyên tắc, mục tiêu, phương hướng và luận giải những giải pháp đổi mới cả về nội 3 dung, phương thức, phương pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên Tạp chí chuyên ngành đề cập đến công tác xây dựng Đảng thời kỳ này, như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và cán bộ kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, số 112004; “Đảng bộ tỉnh Nghệ An tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4-2010; “Quan điểm của Đảng về phòng, chống suy thoái phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-2012;… Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của TCCS Đảng ở Hà Tĩnh, cụ thể hơn là trên địa bàn huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Trên cơ sở phân tích rõ tình hình xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh) trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1999 đến nay), đúc kết một số kinh nghiệm, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ huyện Đức Thọ trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, Luận văn thực hiện nhiệm vụ: + Làm rõ lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam; + Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ huyện Đức Thọ; rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra những giải pháp chủ yếu trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ Huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh). 4 - Phạm vi nghiên cứu: + Giới hạn, phạm vi lý thuyết: nghiên cứu lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. + Giới hạn về không gian, thời gian: tập trung nghiên cứu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở huyện Đức Thọ trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1999 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: + Luận văn được nghiên cứu trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng Đảng. + Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, Đảng bộ huyện Đức Thọ về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. + Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. - Phương pháp nghiên cứu: + Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để triển khai đề tài. + Các phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát, phương pháp logic, thống kê, so sánh, phương pháp quy nạp kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia,... 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cấp cơ sở. - Góp phần tổng kết quá trình xây dựng, chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ huyện Đức Thọ kể từ khi quán triệt thực hiện nghị quyết Trung ương 6 lần 2 khóa VIII đến nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI ở thực tiễn cơ sở đạt kết quả, góp phần xây dựng Đảng bộ huyện Đức Thọ trong sạch, vững mạnh. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, 8 tiết, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 5 Chương 1 NHỮNG YÊU CẦU MỚI TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng Tổng kết thực tiễn hơn 80 năm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt hơn 25 năm Đảng lãnh đạo đất nước tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Nội dung yêu cầu của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng thể hiện rất rõ xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX, khóa X); Đại hội XI của Đảng xác định phương hướng, mục tiêu của công tác xây dựng Đảng, trong đó, một trong các nhiệm vụ cần tập trung là: tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tầm trí tuệ cao; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đặt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cấp bách. Hiện nay, trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, bên cạnh sự hợp tác, hội nhập phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá thì tình hình chính trị thế giới có những chuyển biến sâu sắc, biểu hiện những bất ổn đó là chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, hoạt động can thiệp lật đổ, chạy đua vũ trang, khủng bố… Các khuynh hướng chính trị, tư tưởng diễn biến đa chiều. 6 Đất nước đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức: sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp…, các thế lực thù địch tiếp tục tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá Đảng và Nhà nước ta trên tất cả các mặt,... Đó là những thách thức và nguy cơ lớn đan xen mà Đảng ta đã, đang và sẽ tiếp tục phải đối diện. Do đó, vấn đề xây dựng Đảng càng phải được coi trọng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, không dao động trong bất cứ tình huống nào là điều kiện tiên quyết, yêu tố quyết định để Đảng phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng đủ sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng ở mỗi thời kỳ lịch sử. Tăng cường công tác giáo dục, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo có ý nghĩa phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đảng lấy chủ Nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, Đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”[21, tr.20-21]. Hiện nay, trên thế giới, chủ nghĩa cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi cách xuyên tạc, nhằm phủ nhận mọi giá trị của học thuyết Mác – Lênin về Đảng. Do đó, trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng cần tăng cường công tác giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên. 7 Phải xem giáo dục lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ trọng yếu, là chiến lược trong công tác chính thị, tư tưởng của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng “...toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[28, tr.139]. Vấn đề này là yêu cầu đảm bảo cho thế giới quan Mác – Lê nin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh được thấm nhuần trong toàn Đảng và giữ được vị trí chi phối trong đời sống tinh thần xã hội, góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên “có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, có thái độ tích cực đối với cong cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đoạ để thực hiện nhiệm vụ đổi mới” [17, tr.23]. Giáo dục giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên phải tiến hành thường xuyên nhằm trang bị về mặt lý luận, giác ngộ chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, vững vàng trước những khó khăn, thách thức, nhạy bén về chính trị, kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh với các thủ đoạn, hành động “diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với những nhận thức, quan điểm mơ hồ, lệch lạc, hành vi sai trái, đề cao trách nhiệm chính trị. Công tác giáo dục là cả một quá trình, phải làm cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng ngày càng ăn sâu, bám chắc vào đời sống chính trị tinh thần của toàn Đảng, toàn dân. Bởi, càng đi vào đổi mới, hội nhập nhiệm vụ chính trị càng nặng, phải kiên định vững vàng, kiên định bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên phải thực sự trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Phải tăng cường đoàn kết thống nội bộ, thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận và đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; 8 Nâng cao tính chiến đấu, sức thuyết phục của công tác chính trị, tư tưởng, bằng việc nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân , đặc biệt đối với thế hệ trẻ phải thường xuyên được bồi dưỡng lòng yêu nước , lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghiã xã hô ̣i ; tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực; phát huy tinh thần sáng tạo, tự lực, tự cường, tạo ra phong trào hành động cách mạng gắn với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trở thành một thành tố tích cực tác động trực tiếp đến sự phát triển của các lĩnh vực trên tạo cơ sở tiếp tục phát triển đất nước toàn diện, bền vững. Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Do đó, tăng giác ngộ lý tưởng cộng sản, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, lối sống và kiến thức năng lực thức tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, nhằm không ngừng nâng cao chính trị, tư tưởng của Đảng, để họ xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu, có giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, hành động theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở mỗi thời kỳ. Để Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, không sa vào chủ nghĩa cá nhân, cán bộ, đảng viên phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, phải tích cực học tập, rèn luyện, nêu cao tính đảng, phải thấm nhuần và thực hành đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”[51, tr.122]. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ. Tiếp tục chỉ đạo và tổ chức thực hiện rộng khắp, có chiều sâu, thiết thực và hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, 9 gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, tạo sự chuyển biến thực sự trong thực hiện Cuộc vận động, mà trọng tâm là “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác Hồ. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức phù hợp với từng đối tượng, xây dựng cơ chế giám sát về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tăng cường việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết việc chỉ đạo thực hiện Cuộc vận động, phát hiện, tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng các điển hình tiên tiến tập thể và cá nhân học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới toàn diện đòi hỏi về chính trị, tư tưởng không đơn thuần chỉ là hoạt động tuyên truyền đơn giản, công thức, mà cần và phải có mặt trong cả tiến trình sự kiện, hiện tượng, phong trào để có tiếng nói có sức thuyết phục, gắn lý luận, vận dụng lý luận vào thức tiễn đối với tất cả tiến trình kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Bên cạnh đó phải coi trọng giáo dục phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc gắn với việc phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và tinh hoa văn hóa nhân loại, hình thành hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Để thực hiện được nhiệm vụ xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, làm tròn vai trò lãnh đạo cách mạng Viê ̣t Nam, thì hoạt động trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng Đảng phải tập trung các nội dung sau: Thứ nhất, coi trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên, cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng nội bộ vững mạnh, củng cố vững chắc bên trong là chính, lấy “thế trận lòng dân” làm nền tảng. 10 Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị, cơ quan, đoàn thể cần chủ động triển khai có hiệu quả đấu tranh trực tiếp trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Sử dụng và phát huy hiệu quả các phương tiện của công tác tư tưởng đấu tranh phê phán những quan điểm tư tưởng, lý luận phản động, sai trái của các thế lực thù địch, không để lây lan và tác động xấu trong xã hội. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn hoạt động tập hợp lực lượng, móc nối trong ngoài, không để công khai hoá, quốc tế hoá các tổ chức chính trị đối lập trong nước chống Đảng, Nhà nước. Tập trung giải quyết một bước căn bản, có hiệu quả các vấn đề ở những vùng trọng điểm và các vùng tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số, không để các thế lực thù địch lợi dụng gắn vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo để kích động quần chúng biểu tình, bạo loạn, gây mất ổn định chính trị. Thứ hai, tiếp tục triển khai có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, nâng cao chất lượng sinh hoạt, học tập của các tổ chức đảng ở cơ sở, tăng cường tính chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội, nhất là kỷ luật phát ngôn. Có biện pháp kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong xã hội. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, loại bỏ tư tưởng cơ hội, thực dụng, tình trạng thoái hoá biến chất trong Đảng, lối sống thực dụng trong một bộ phận cán bộ có chức, có quyền, có tiền, những hình ảnh xấu về người cán bộ cách mạng trong nhân dân, tác động tiêu cực đến sự đồng thuận về tư tưởng trong xã hội, những “đồng minh tự nhiên” của chiến lược “Diễn biến hoà bình”. Thứ ba, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực, tệ nạn xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc hoạch định các chủ trương, đường lối; xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt chính sách dân 11 tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, phòng chống tham nhũng, lãng phí trong hệ thống chính trị và xã hội. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng các thiết chế tuyên truyền vận động, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ trong phát triển sản xuất, tổ chức đời sống, tham gia xây dựng Đảng, kiểm tra, giám sát cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, phát hiện và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Chủ động, kịp thời cung cấp, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sớm phát hiện và giải quyết khẩn trương các vấn đề bức xúc, các điểm “nóng” về khiếu kiện, đình công..., giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối. Chủ động có các phương án ngăn chặn và làm thất bại âm mưu lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để gây rối chính trị của các thế lực thù địch. Củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với các tổ chức thành viên, thực sự phát huy vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là nơi phối hợp hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện quyền dân chủ, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, thực hiện giám sát của nhân dân đối với hoạt động, lối sống của cán bộ, đảng viên và các cơ quan Nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Tiếp tục củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quan hệ của các tổ chức đảng với tổ chức Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 12 Thứ tư, đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên. Ở đây hiểu “tự diễn biến” là khái niệm chỉ sự vận động bên trong của mọi sự vật, hiện tượng. “Tự diễn biến” có thể xảy ra trên các mặt tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Quan trọng nhất là phải phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị. Song không coi nhẹ mặt đạo đức, lối sống. Sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống sẽ dẫn đến tha hoá về tư tưởng chính trị. “Tự diễn biến” có thể có trong Đảng, trong hệ thống chính trị, trong xã hội; có thể có trong đảng viên, công chức, nhân dân, nhưng nguy hiểm hơn cả là trong cán bộ , nhất là cán bộ có chức , quyền, cán bộ trung cao cấp , cán bộ lãnh đạo, quản lý chiến lược vĩ mô . “Tự diễn biến” là quá trình từ bỏ dần tư tưởng của chủ nghiã xã hô ̣i , hướng dần theo những tư tưởng khác. Hiện tượng “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị rất không đơn giản, cần được phân tích, nhận diện chính xác. Do đó, việc xác định đâu là biểu hiện “tự diễn biến” đòi hỏi phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của người lao động làm tiêu chí xem xét, đánh giá với phương pháp khoa học, tránh “chụp mũ”, quy kết vội vàng; đồng thời, không thể mất cảnh giác cho rằng “không có vấn đề gì”. “Tự diễn biến” là một hiện tượng mà sự nảy sinh và phát triển của nó có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Cuộc đấu tranh phòng , chống “diễn biến hoà bình” chỉ đạt được kết quả khi nó được gắn liền với cuộc đấu tranh đẩy lùi , khắc phục các nguy cơ nội sinh, như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực , nguy cơ chệch hướng xã hô ̣i chủ nghi ̃a và nguy cơ tham nhũng, tệ quan liêu, sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Các nguy cơ này có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Sự yếu kém, những sai lầm, khuyết điểm của chúng ta là mảnh đất “màu mỡ” cho chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù. Sự tác động của “diễn biến hoà bình” thúc đẩy tạo ra những nhân tố “nội xâm”, “tự diễn biến” hết sức nguy hiểm, cho nên phải chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến đột biến bất lợi. 13 Đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, mà trước hết, trực tiếp là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng. Vì vậy, từng cấp uỷ, từng ngành, từng địa phương, các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch và chương trình hành động đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” nói chung, trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức nói riêng phù hợp với điều kiện và tình hình ở đơn vị mình, địa phương mình; phải đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; gắn với việc xây dựng, giữ vững và phát huy nhân tố nội lực mang tính quyết định. 1.2. Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác ngộ nhất của giai cấp công nhân, Đảng là người đưa yếu tố tự giác nhất vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động viên, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo, định hướng sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Do đó, việc chăm lo xây dựng Đảng trở thành một Đảng chính trị cầm quyền thực sự trong sạch, vững mạnh, là nhiệm vụ cấp bách. Công tác tổ chức của Đảng là một khoa học. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức, các cấp ủy, tổ chức đảng phải tuân thủ và vận dụng sáng tạo các quan điểm chỉ đạo chủ yếu: Tất cả các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập và đổi mới, kiện toàn phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ do một đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với nhiệm vụ, đặc điểm của cách mạng trong mỗi thời kỳ. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy phải nhằm bảo đảm các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động có hiệu lực, 14 hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống trong toàn Đảng và hệ thống chính trị, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị; vừa xây dựng các cấp ủy, cơ quan của Đảng vững mạnh, đủ sức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, vừa phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Kiện toàn tổ chức bộ máy phải vừa kế thừa những thành quả và kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức và quá trình đổi mới, kiện toàn tổ chức của cả hệ thống chính trị, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đảng phải chấn chỉnh tổ chức và bộ máy một cách toàn diện. Tổ chức của Đảng phải vững mạnh trong toàn bộ hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, từ cơ quan lãnh đạo đến các ban chuyên môn. Các cấp ủy Đảng phải thật sự có đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của từng cấp” [65, tr.172]. Trước hết: Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, trong đó cần đặc biệt coi trọng làm tốt công tác chi bộ, bởi vì chi bộ là nền móng của Đảng; “Mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng”[44, tr.23].. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức được tăng cường theo hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới công tác cán bộ gắn liền với rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, coi trọng bảo vệ chính trị nội bộ. 15 Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của can bộ, đảng viên. Bước phát triển quan trọng trong xây dựng Đảng về tổ chức là Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa (6-1997) đề ra Chiến , hiện đại hóa đất nước . Thực tiễn của quá trình thực hiện chiến lược cán bộ cho thấy sự cần thiết phải triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ . Hội nghị lần thứ chín , Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2-2009) đã tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược cán bộ và chủ trương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ đến năm 2020. Trung ương Đảng cho rằng: "Đội ngũ cán bộ nước ta có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt , đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; là lực lượng nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Số đông cán bộ giữ được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh , gắn bó với nhân dân ", "công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị, thể chế hóa , cụ thể hóa được nhiều chủ trương , quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong cương lĩnh". Tuy nhiên, nhiều yếu kém, khuyết điểm trong công tác cán bộ chậm được khắc phục . Đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt yếu . " Tình trạng suy thoái về tư tưởng , chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng chậm có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và kịp thời xử lý, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ". 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan