TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
&
LÊ THỊ MY NY
MSSV: 6086272
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
CỦA THƠ PUSKIN
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: TRẦN VĂN THỊNH
Cần Thơ, năm 2012
LỜI CẢM ƠN
“Em thấy đấy cuộc đời thầy cô giáo
Rất đơn sơ trang giáo án gối đầu
Viên phấn trắng hương cuộc đời bay bổng
Mực chấm bài là máu đỏ trong tim”
Trên thế giới có rất nhiều nghề khác nhau, nhưng dù là một bác sĩ, một người kĩ sư, một
công nhân hay một người nông dân, tất cả đều trãi qua lời dạy dỗ của người thầy. Bởi
hơn hết thầy cô như những người cha, người mẹ thứ hai trong cuộc đời của mỗi người.
Học trò thì hết lớp này đến lớp khác cứ đi từ bến bờ này đến bờ khác để đến với mục đích
của mình, còn thầy cô như những người lái đò cần mẫn thì cứ âm thầm ở lại tiếp tục chèo
thuyền đưa đò sang sông với ánh mắt dõi theo lặng lẽ. Giờ đây khi sắp trở thành người lái
đò tương lai, tôi càng thêm thấu hiểu và biết ơn những hi sinh thầm lặng của các thầy cô
giáo đã dành cho tôi cũng như bao thế hệ học trò.
Trong quá trình làm luận văn, ngoài những nổ lực tìm hiểu của bản thân, tôi còn nhận
được sự động viên, giúp đở từ nhiều phía như Bộ môn ngữ văn, quý thầy cô thư viện
trường và bè bạn, người thân.
Đặc biệt tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc tới thầy Trần Văn Thịnh! Thầy đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài của mình, từ bước đầu chọn đề tài cũng
như trong suốt quá trình thực hiện, thầy đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và đóng góp ý kiến
kịp thời cho tôi, trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu,…để tôi hoàn thành tốt luận văn
tốt nghiệp của mình.
Vì là lần đầu thực hiện đề tài nghiên cứu này nên chắc hẳn sẽ không tránh phần sai xót
nhất định. Vậy, kính mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để luận văn được hoàn
chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, tháng 4 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Lê Thị My Ny
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
Phần mở đầu
1.
Lý do chọn đề tài
2.
Lịch sử vấn đề
3.
Mục đích, yêu cầu
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.
Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Puskin
1.1.1. Thời thơ ấu (1799 – 1811)1.1.2. Thời kì học ở trường Lixê (1810 -1817)
1.1.3. Thời kì Pêtecbua (1817 -1820)
1.1.4. Thời lì lưu đày ở phương nam (1820 -1824)
1.1.5. Thời kì lưu đày ở phương bắc (1824 – 1826)
1.1.6. Thời kì sau khởi nghĩa tháng chạp 1825
1.1.7. Những năm cuối cùng (từ 1830 trở đi)
1.2. Tiểu thuyết thơ “Epghênhi Ônhêghin”
1.2.1. Tóm tắt tác phẩm
1.2.2. Đề tài
1.2.3. Chủ đề
1.2.4. Nhận định về tác phẩm
Chương 2: Những đặc sắc về nội dung của tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin”
1.1.
“Epghênhi Ônhêghin” – tiểu thuyết hiện thực
1.2.
Bức tranh thiên nhiên Nga qua nét vẽ của Puskin
1.2.1. Những hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên
1.2.2. Cảnh đẹp riêng của xứ sở Nga
1.2.3. Thiên nhiên Nga qua bốn mùa
1.2.4. Ý nghĩa của thiên nhiên trong tác phẩm
1.3. Hình tượng “con người thừa” – Epghênhi Ônhêghin nhân vật điển hình
1.3.1. Khái niệm “con người thừa”
1.3.2. Hình tượng nhân vật điển hình Epghênhi Ônhêghin
1.3.3. Hình tượng Lenxki
1.3.4. Ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng nhân vật
1.4. Tachiana – tiêu biểu cho lí tưởng, đạo đức thẩm mỹ của puskin
1.4.1. Hình tượng Tachiana - Tâm hồn Nga, tính cách Nga
1.4.2. Ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng nhân vật
Chương 3: Những đặc sắc về nghệ thuật của tiểu thuyết thơ “Epghênhi Ônhêghin”
1.1. Nghệ thuật miêu tả bức tranh thiên nhiên Nga và bức tranh cuộc sống Nga
1.1.1. Thiên nhiên – một phương diện nghệ thuật trong tác phẩm
1.1.2. Thiên nhiên – một phương diện thể hiện giá trị hiện thực
1.1.3. Thiên nhiên – một phương diện thể hiện nội dung, tư tưởng.
1.1.4. Nghệ thuật khắc họa bức tranh cuộc sống Nga
1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Puskin
1.3. Mối tương quan giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trong tác phẩm
1.4. Nghệ thuật miêu tả thời gian, không gian và kết thúc mở.
1.4.1. Yếu tố thời gian, không gian qua “ngày và đêm”
1.4.2. Kết thúc mở - nét độc đáo trong tác phẩm
1.5. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin
1.5.1. Sự giản dị, cô động, súc tích
1.5.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ và tính hình tượng
Phần tổng kết
Kết luận chung
Tài liệu tham khảo
Mục lục
Nhận xét của giảng viên hướng dẫn
Nhận xét của giảng viên phản biện.
Phần mở đầu
1.
Lý do chọn đề tài
Đến với những bình nguyên xinh đẹp, những rừng bạch dương vàng rực trong nắng chiều
và những dòng sông thơ mộng đã làm cho cuộc sống của con người Nga mang đậm bầu
không khí ấm áp nồng hậu, những con người lãng mạn ấy với tâm hồn ngập tràn thơ và
nhạc, là cơ sở để tạo nên nền văn học nghệ thuật Nga khổng lồ mà nhân loại phải kính nể.
Nhắc tới văn học Nga, chúng ta không thể không nhắc tới Puskin vì “Viết về Puskin
có nghĩa là viết về toàn bộ nền văn học Nga”. Bởi trong nền văn học vĩ đại ấy Puskin
là “vầng dương mới và ánh nắng của vầng dương ấy đã tỏa cả cánh đồng văn học Nga”.
Alexsandre Sergeevich Puskin là thiên tài Nga, là biểu tượng của văn hóa Nga, là niềm tự
hào của mỗi người Nga. Sáng tác của Puskin không chỉ làm rạng rỡ nền văn học Nga thế
kỉ XIX mà còn làm phong phú kho tàng văn hóa nhân loại. Di sản tinh thần của Puskin đã
vượt ra khỏi giới hạn một thời đại, một dân tộc đến với các nền văn hóa khác nhau trên
thế giới.
Nhắc đến Puskin ta làm sao có thể nào quên được bài thơ “Tôi yêu em”, “Con đường
mùa đông”, tác phẩm văn xuôi “người con gái viên đại úy”, hai bản trường ca “Người tù
capca”, “Đoàn người zưgan”…Và đặc biệt là “Epghênhi Ônhêghin” – tiểu thuyết hiện
thực xuất sắc nhất của Puskin.
Tiểu thuyết thơ “Epghênhi Ônhêghin” được nhà phê bình lỗi lạc Bêlinxki ví như “bộ
bách khoa toàn thư” về thiên nhiên Nga, cuộc sống Nga thế kỉ XIX.
Epghênhi Ônhêghin của Puskin đặc biệt đối với người Nga cũng như Truyện Kiều của
Nguyễn Du đối với người Việt Nam là những món ăn tinh thần không thể thiếu để nuôi
dưỡng tâm hồn cho mỗi người yêu văn thơ qua từng thế hệ .Giống như Nguyễn Du,
Puskin đã vẽ ra đầy đủ những bức tranh “một thời mà sống muôn thuở”.
Đọc Epghênhi Ônhêghin ta không chỉ được thưởng thức bức tranh thiên nhiên Nga đặc
sắc mà còn được thưởng thức mối tình lãng mạn. Bên cạnh đó hình tượng nhân vật “con
người thừa” thể hiện qua nhân vật Epghênhi Ônhêghin, “tâm hồn Nga, tính cách Nga” thể
hiện qua nhân vật Tachiana, “kiểu nhân vật lãng mạn” thể hiện qua Lenxki… đây là một
vấn đề xã hội có ý nghĩa thực tiễn về lối sống, tư tưởng của lớp thanh niên đương thời và
cho những thanh niên mọi thời đại.
Từ những điều trên chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin của Puskin là
một vấn đề thật thú vị. Chúng tôi muốn đi sâu khám phá để có những hiểu biết đúng đắn
về các giá trị độc đáo trong tác phẩm. Để từ đó, chúng tôi có cách nhìn nhận và đánh giá
toàn diện, có cơ sở và cũng đánh giá được tài năng của thi hào Puskin.
Hy vọng rằng đề tài này sẽ giúp cho bạn đọc phần nào tiếp cận tiểu thuyết thơ Epghênhi
Ônhêghin một cách dễ dàng và trọn vẹn hơn.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu đề tài này giúp bản thân một lần nữa khẳng định rằng không
nhìn bất cứ sự việc nào và đánh giá nó chỉ qua bề ngoài. Mà phải thấu hiểu, nắm bắt được
bản chất, sự thật bên trong của nó. Hơn nữa cũng phải hiểu rằng ta không có quyền dựa
vào tình cảm chủ quan của bản thân mà phán xét bất cứ vấn đề gì. Hãy đặt mình vào vị trí
của người trong cuộc.
Ngoài ra nó còn giúp tôi mở rộng kiến thức và rèn luyện kỉ năng nghiên cứu khoa học
của mình.
2.
Lịch sử vấn đềPuskin là một nhà văn hóa lớn vĩ đại, không chỉ những nhà văn, nhà
thơ trong nước
ngưỡng mộ tài năng mà nhiều nhà văn, nhà thơ lớn của thế giới luôn tìm tòi và nghiên
cứu về ông.
Tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin là một phương diện liên quan đến mọi yếu tố nội
dung cũng như hình thức nghệ thuật của tác phẩm nên có thể từ những nghiên cứu trước
đây mà chọn lựa những kiến giải liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nghiên cứu
đề tài đã chọn. Sau đây chúng tôi hệ thống lại một số ý kiến tiêu biểu:
Nhà văn Nga M.Gorki từng khẳng định “không có Puskin thì trong một thời gian dài sẽ
không có Gôgôn, L.Tôntoi, Tuôcghenhep, Đotxtoiepxki…tất cả những con người vĩ đại
này đều công nhận Puskin là bậc thủy tổ tinh thần của mình” [10;tr 47]
Puskin là ngọn đuốc sáng của mọi dân tộc [ 4; trang 54]. Đối với nhà văn Mỹ Teoder
DraiZer thì nhận xét: “sự nghiệp sáng tác của A.X Puskin gắn bó vô cùng chặt chẽ với
khát vọng quyền năng của cuộc sống và kinh nghiệm – đặc thù của các nền văn học lớn,
đặc biệt là nền văn học Nga đồ sộ. Thật chính xác khi cho rằng A X Puskin là nhà tiên tri
đầu tiên của nước Nga đương đại, người đầu tiên hiểu hết những khả năng to lớn trong sự
nghiệp đạo đức xã hội- những khả năng mà sau này đã được nước Nga thể hiện” [4 trang
51]
Pablô Nêruđa là một nhà thơ ChiLê đã ca ngợi Puskin như sau: “ Puskin là anh cả của thơ
ca và tự do. Ở khắp mọi nơi, bất cứ ở đâu chúng tôi đấu tranh và ca ngợi tổ quốc của anh,
kỉ niệm về anh luôn luôn sẽ cùng chúng ta, đem cho chúng ta nguồn cổ vũ, dũng cảm, sắc
đẹp và tuổi trẻ”. [19; tr 54]
Như vậy đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình chọn A.X Puskin với toàn bộ thân thế
và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ này để làm đề tài nghiên cứu. Tuy vậy, theo sự hiểu
biết của chúng tôi vấn đề nghiên cứu về tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin của Puskin
vẫn chưa được nhà nghiên cứu văn chương nào nghiên cứu một cách sâu sắc.
Ở Việt Nam tác phẩm của Puskin từ lâu đã được giới thiệu và nghiên cứu. Theo nhà thơ
Nguyễn Đình Thi:“vào khoảng những năm 1925 – 1926, nhờ những tác phẩm của các
nhà văn tiến bộ và cách mạng người pháp (…) tên tuổi của Puskin, Tônxtôi, M Gorki,…
đã vượt qua phong tỏa của đế quốc pháp mà đến với chúng tôi rất sớm…” [4 trang 55].
Năm 1966, lúc cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra sôi nổi ở miền bắc,
tuyển tập “thơ trữ tình” của Puskin và hai bản trường ca “Người tù Cavcaz” và “Đoàn
người Zigan” được xuất bản với sự tham gia dịch thuật của các nhà thơ như: Xuân Diệu,
Tế Hanh, Hoàng Trung Thông… và những người am hiểu ngôn ngữ Nga, yêu thơ Puskin
như Thúy Toàn, Việt Phương…
Năm 1972, nhà xuất bản Kim Đồng giới thiệu “ Chuyện đời người đánh cá và con cá
vàng” ( Hoàng Trung Thông dịch).
Đặc biệt 1979, Thái Bá Tân bắt tay dịch “Epghênhi Ônhêghin” vào năm 1985, cuốn tiểu
thuyết bằng thơ nổi tiếng này đã đến tay bạn đọc cả nước.
Năm 1992, nhà xuất bản Lao Động in tập“Dựng đài kỉ niệm” gồm bài thơ của Puskin
dưới hình thức song ngữ Việt-Nga do Dương Trọng Lãnh dịch và tuyển chọn.
Cùng với những bản dịch là công trình nghiên cứu phê bình nhằm soi sáng cuộc đời và
con đường lao động nghệ thuật của nhà thơ.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về Puskin được tiến hành vào những năm 50 của thế kỉ
XX. Bộ giáo trình “Lịch sử văn học Nga thế kỉ XIX” (Giáo dục Hà Nội năm 1957, 1959)
của giáo sư Hoàng Xuân Nhị là công trình nghiên cứu đầu tiên về văn học Nga cũng như
về Puskin. Tiếp đó, bộ “Lịch sử văn học Nga thế kỉ XIX” (Giáo dục Hà Nội 1970) của
trường Đại học sưu phạm Hà nội (chương Puskin do Nguyễn Văn Giai viết) của trường
Đại học trung học Hà Nội ( chương Puskin do Đỗ Hồng Chung biên soạn) cũng đã ra đời.
Chuyên luận “Puskin – nhà thơ Nga vĩ đại” của Đỗ Hồng Chung là một công trình công
phu, nghiêm túc. Trong chuyên luận này cũng với hướng dẫn khai thác trên, tác giả Đỗ
Hồng Chung đã chỉ ra rằng: “Puskin là đại diện xứng đáng nhất, toàn vẹn nhất cho văn
học Nga, tổng kết sự phát triển của quá khứ, mở ra một giai đoạn mới cao hơn, chuẩn
bị cho tương lai huy hoàng” [4; trang 58]. Vì lý do không phải là chuyên luận về vấn
để “tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin của Puskin” nên tác giả Đỗ Hồng Chung không
đi sâu vào kiến giải cũng như phân tích những vấn đề cụ thể trong tác phẩm này mà chỉ
nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của hai bản trường ca là “Người tù Cavcaz” và “Đoàn
người Zigan” mà thôi.
Một hướng nghiên cứu khác về Puskin là tiếp cận tác giả từ góc độ “Danh nhân văn hóa”.
Triển khai theo hướng này là cuốn sách “Puskin” của Hồ Sĩ Vịnh (nhà xuất bản văn hóa,
Hà Nội,1983). Qua tư liệu về cuộc đời, lao động và nhà văn, những hồi ức và kỉ niệm..
tác giả cuốn sách này đã dựng lên chân dung Puskin - nhà văn hóa lỗi lạc.
Các nhà nghiên cứu không chỉ ghi nhận, đánh giá tài năng của Puskin mà còn tập trung
giải thích bản chất tài năng lỗi lạc ấy. Theo giáo sư Nguyễn Kim Đính “Puskin là vĩ đại
đứng ở vị trí cao quý” khởi điểm của mọi sự khởi điểm “chủ yếu vì ngòi bút của ông luôn
thấm sâu phẫm hạnh, tư cách của con người Nga chân chính của năm 1812 và 1825” [ 4;
trang 60]
Nói như Thúy Toàn,“Puskin đứng đầu mũi con tàu lịch sử và nhìn về phía trước, chính vì
thế ông thấy ra và đoán biết nhiều điều trong cuộc sống mà người đương thời không thấy,
cũng vì vậy ông rất gần gũi với người đọc thời sau, kể cả chúng ta và những người đọc
xa xôi” [4; trang 60]. Đặc biệt nhiều tác giả quan tâm đến các vấn đề như tìm hiểu quá
trình phổ biến tác phẩm của Puskin ở Việt Nam bài “Thi hào Nga Puskin với Việt Nam”
của Thúy Toàn (văn học số 6/ 1994), “Tác phẩm của A.X Puskin qua các bản dịch ở Việt
Nam” (Luận án phó tiến sĩ của Hoàng Văn Cẩn), so sánh tác phẩm Epghênhi Ônhêghin
của Puskin với Truyện Kiều của Nguyễn Du ( luận văn thạc sĩ của Trần Thị Phương
Phương) v.v…
Các công trình trên đã phác họa vị trí của Puskin ở Việt Nam, những tương đồng văn
hóa giữa hai dân tộc và những tương đồng tư duy nghệ thuật giữa hai nhân tài tiêu biểu
cho hai nền văn hóa. Bằng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh lịch sử, so sánh
văn hóa, ngôn ngữ và phương pháp loại hình. Đây là hướng nghiên cứu văn học Nga và
ngành“Puskin học” ở Nga rất thích thú, quan tâm.
Như vậy, có thể khẳng định: tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin của Puskin đã được một
số nhà nghiên cứu, phê bình đề cập đến nhưng chỉ với hình thức là những sự trình bày
ngắn gọn, sơ lược, được lồng vào những tóm tắt nội dung và nghệ thuật chứ chưa có công
trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể. Chính vì lẽ đó mà vấn đề tiểu
thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin của Puskin là một vấn đề tuy đã được đề cập đến nhưng
vẫn còn tương đối mới mẻ.
3.
Mục đích, yêu cầu
Nghiên cứu đề tài “Epghênhi Ônhêghin” của Puskin để hiểu về những nét đặc sắc tiêu
biểu giá trị nội dung cũng như nghệ thuật trong tác phẩm chúng tôi hướng vào những
mục tiêu sau:Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến khái quát lại những nét đặc trưng
trong tiểu
thuyết thơ. Tìm hiểu về bức tranh thiên nhiên Nga, bức tranh con người Nga, xã hội Nga
trong giai đoạn đầu thế kỉ XIX.
Giờ ít người đọc thơ, lại ít ai đọc tiểu thuyết thơ, nhưng dẫu sao chúng tôi vẫn khuyên các
bạn thử đọc hết Epghênhi Ônhêghin các bạn hiểu hơn về xã hội Nga thế kỉ XIX, sẽ được
theo dõi một câu chuyện tình lãng mạn, và đặc biệt được thưởng thức những bức tranh
thiên nhiên Nga nổi tiếng qua nét vẽ tài tình của thi hào Puskin.
Đồng thời qua việc tìm hiểu thiên nhiên, con người trong tác phẩm chúng tôi còn muốn
hiểu thêm tâm tư, tình cảm, về vũ trụ quan, nhân sinh quan của chính tác giả, những nét
đẹp về văn hóa,về đời sống, tâm hồn của người Nga. Hiểu được bút pháp nghệ thuật mà
Puskin sử dụng trong việc xây dựng hình tượng nhân vật điển hình.
Khám phá được tài năng nghệ thuật, những tâm tư tình cảm của ông trong việc xây dựng
nhân vật để thấy được nét sáng tạo trong văn chương của ông.
Bên cạnh nghiên cứu về đề tài chúng tôi còn phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu văn
học Nga trong nhà trường và bổ sung thêm kiến thức cho bản thân.
Nghiên cứu đề tài này, yêu cầu chúng tôi đặt ra là: Nắm vững kiến thức về tiểu sử và sự
nghiệp sáng tác của Puskin, Nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử, xã hội nước Nga thế kỷ XIX,
hiểu rõ thế nào là phương pháp hiện thực trong sáng tác.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề tương đối khó và rộng lớn cả về lí luận cũng như thực tiển.
Trong quá trình thực hiện chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết trong chừng mực nào đó những
vấn đề cơ bản trên.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chúng tôi chủ yếu dựa vào bản dịch của Thái Bá Tân, khảo sát về
những đặc sắc nổi bật trong tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin của Puskin. Từ kết quả
thống kê đó rút ra những nhận xét chung về đặc điểm, vai trò vị trí, chức năng nghệ thuật
của tác phẩm.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi có điều kiện tìm hiểu về bức tranh
thiên nhiên, đất nước, bức tranh con người Nga, ngôn ngữ Nga với tất cả những vẽ đẹp
vốn có của nó.
Ngoài ra, tìm hiểu về tầng lớp thanh niên đương thời thông qua hình tượng nhân vật điển
hình, để thấy được xã hội Nga cũng như những tâm tư, tình cảm mà tác giả đã kí thác
trong tác phẩm bằng cả “trái tim”và“khối óc” của mình.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng được yêu cầu của đề tài, người viết đã kết hợp nhiều phương pháp khác nhau.
Trước tiên là sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp: chúng tôi tiến hành phân tích các
dẫn chứng nhằm làm nổi bật các luận điểm cần triển khai. Sau đó thâu tóm, khái quát lại
chúng. Thu thập tài liệu từ các nguồn khác nhau một cách có chọn lọc.
Phương pháp liệt kê: Chúng tôi tiến hành liệt kê, ghi lại những dẫn chứng cần thiết trong
bản dịch và nhiều tài liệu khác có liên quan để dẫn chứng phù hợp với từng đề mục.
Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có so sánh một số vấn đề
của đề tài với các vấn đề trong một số tác phẩm của các nhà văn nước ngoài và Việt
Nam.
Phương pháp, phân tích kết hợp với chứng minh và bình luận được sử dụng nhiều trong
bài viết để từ đó có cái nhìn một cách chi tiết về tác phẩm.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung1.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của
Puskin.
Puskin là đại thi hào của nước Nga!
Puskin dân tộc hơn tất cả các nhà thơ Nga. Ông chính là tâm hồn Nga đẹp đẽ, thuần
khiết.
Người hiến dâng cả cuộc đời sôi nổi, khẩn trương, lúc nào cũng tràn đầy sức sống thanh
xuân cho tổ quốc và nhân dân, người đầu tiên lo toan xây dựng những nền móng vững
bền có thể vượt qua mọi thử thách cho chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX, người đi mở
đường cho thơ, kịch, văn xuôi phát triển toàn diện và rực rỡ, người yêu quý giữ gìn tiếng
Nga, xây dựng thành ngôn ngữ văn học uyển chuyển, tinh tế - người ấy là Puskin.
Cuộc đời của Puskin luôn gắn liền với sự nghiệp sáng tác và có thể chia thành bảy thời
kì khác nhau. Mỗi thời kì phản ánh những sự kiện quan trọng trong cuộc đời thi sĩ, đồng
thời thể hiện những bước trưởng thành trên con đường sáng tác của ông.
1.1.1. Thời thơ ấu (1799 – 1811)
Alecxanđrơ Xecgâyêvit Puskin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (lịch cũ: 25-6) tại
Matxcơva trong một gia đình quý tộc thượng lưu. Bên nội bên ngoại của ông đều là dòng
dõi quyền quý nhưng lúc này đã sa sút. Tuy nhiên, Puskin vẫn có đủ điều kiện để sống
một tuổi thơ êm đềm và thơ mộng.
Từ nhỏ Puskin đã tiếp xúc với không khí văn học và đặc biệt yêu thích nó. Cha của
Puskin – Xecgây Livôvits Puskin – là một người yêu thích văn chương và sân khấu. Chú
của Puskin – Vaxili Livôvits – cũng là một nhà thơ nổi tiếng đương thời. Các nhà thơ lớn
như Caramdin, Giucôpxki, Bachiuscôp, Đmitơriep vẫn thường xuyên đến nhà ông thảo
luận về các vấn đề văn học. Không khí văn học đó chắc chắn đã có ảnh hưởng không ít
đến tâm hồn nhạy cảm của cậu bé Puskin. Thêm vào đó, Puskin còn được học và đọc
rất nhiều bài thơ và văn xuôi Pháp, được tiếp xúc trực tiếp với văn học dân gian vô cùng
phong phú Nga qua bà nhũ mẫu Arina Rôđiônnôpna và lão nô bộc Nikitia Côdơlôp. Tất
cả những điều kiện thuận lợi đó đã thúc đẩy tài năng văn học Puskin sớm được nảy nở và
phát triển.
1.1.2. Thời kì học ở trường Lixê (1811 – 1817)
Khi Puskin lên 10 tuổi, cậu vào học ở trường Lixê. Đó là một trường học chỉ dành riêng
cho con em quý tộc nằm cách Matxcơva vài trăm dặm. Trường nằm trong khu đất của
nhà vua và chuyên đào tạo ra những con người phục vụ chế độ chuyên chế, tiếp nối sự
nghiệp thống trị của Nga hoàng.
Nhưng cũng tại Lixê, Puskin đã có dịp tiếp xúc với nhiều tư tưởng tự do của các giáo sư
tiến bộ. Nơi đó, trong kí ức của ông sau này, có nhiều người bạn trở thành chiến sĩ cách
mạng phấn đấu vì một nước Nga tiến bộ. Những người bạn đó đã gợi cho ông nhiều cảm
xúc và đó là nguồn cảm hứng to lớn cho nhiều bài thơ bất diệt trong sự nghiệp sáng tác
của Puskin.
Cũng trong thời gian Puskin học tại trường Lixê, cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân
Nga chống lại sự xâm lược của Napôlêông diễn ra, sự kiện đó đã có ảnh hưởng to lớn đến
nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ. Tinh thần yêu nước của nhân dân đã thúc đẩy
mãnh liệt tinh thần dân tộc trong tâm hồn Puskin. Ông đã sáng tác bài thơ Những kỉ niệm
hoàng thôn mà nội dung của nó là ca ngợi tinh thần yêu nước của nước Nga trong cuộc
chiến tranh vệ quốc .
Nhìn chung, nội dung sáng tác của Puskin thời kì học Lixê tương đối phong phú. Về mặt
nghệ thuật thì trình độ còn non, chịu ảnh hưởng của các nhà thơ đàn anh. Tuy nhiên, có
nhiều dấu hiệu chứng tỏ rằng Puskin sẽ vươn cao hơn, đi xa hơn các bậc nghệ sĩ tiền bói
của mình.
1.1.3. Thời kì Pêtecbua (1817 – 1820)
Tháng 6 năm 1817, Puskin tốt nghiệp xuất sắc trường Lixê. Ngay sau đó ông được bổ
nhiệm làm thư kí bộ ngoại giao ở Pêtecbua. Điều kiện làm việc này đã giúp cho Puskin
có dịp tiếp xúc với xã hội thương lưu.
Lúc này Pêtecbua đang trở thành một trung tâm nóng bỏng không khí chính trị. Chính
phủ Nga Hoàng ngày càng tỏ ra phản động. Chương trình cải cách tiến bộ của Xpêranxki
bị gạt bỏ. Arăcxêep, một kẻ bảo thủ cực đoan được Nga hoàng tin dùng không ngừng đưa
ra hàng loạt những chính sách ngu dân, phản động.
Trước tình hình đó, nhiều thanh niên trí thức tiến bộ đã lập ra những tổ chức bí mật
chống lại Nga hoàng. Lúc này vấn đề “làm gì?”,“sống như thế nào?” đối với Puskin trở
thành một vấn đề quan trọng và ông đã hòa mình vào không khí cách mạng, liên hệ mật
thiết với nhiều nhà hoạt động cách mạng tiến bộ.
Ông đã cho ra đời nhiều bài thơ có nội dung chống chế độ chuyên chế: Tự do (1817),
Những câu chuyện thần thoại Noel (1818), Gởi Sađaép (1818), Làng (1819)…Những bài
thơ này tuy không được đăng công khai nhưng nó nhanh chóng phổ biến trong nhân dân.
Với tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, tràn đầy sức sống, tràn đầy tinh thần công dân cao cả,
những bài thơ của Puskin đã dấy lên một phong trào thơ ca mới, đầy tinh thần cách mạng.
Lần đầu tiên, thơ ca đã thức tỉnh ý thức nhân dân chống lại chế độ nông nô chuyên chế
Nga hoàng:
“Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược
Ta căm ngươi, ngôi báo của ngươi
Ta thấy trước với niềm vui cay độc
Cái chết của ngươi của con cháu ngươi.”
Những bài thơ của Puskin đã làm cho Nga hoàng giận dữ. Ông ta quyết định: “Phải tống
cổ Puskin đi Xibiri. Nếu không, hắn sẽ làm cho nước Nga tràn ngập những bài thơ nổi
loạn. Tất cả bọn thanh niên đều đã thuộc lòng thơ của hắn”. Thế nhưng, với lòng yêu mến
tài năng và khâm phục những tư tưởng tự do, cách mạng, nhiều nhà thơ, nhà văn có uy tín
như nhà thơ Đecgiavin, nhà văn Caramdin, nhà thơ Giucôpxki đã ra sức bảo vệ Puskin.
Cuối cùng Nga hoàng phải nhượng bộ và đày Puskin đi phương nam.
1.1.4. Thời kì lưu đày ở phương Nam (1820 – 1824)
Thời kì lưu đày ở phương Nam kéo dài bốn năm, trong thời gian đó Puskin phải di
chuyển qua nhiều nơi: Capca, Crum, Kisinhôp (1820 – 1823), Ôđetxa (1823 – 1824).
Ở phương Nam Puskin lại tiếp tục con đường của mình. Ông đã bắt gặp nơi phương Nam
hoang vắng này những phong cảnh thiên nhiên tráng lệ, những con người lao động hồn
nhiên, chân thật và phóng khoáng. Chẳng những thế Puskin còn gặp gỡ với một tổ chức
cách mạng mà đại diện là Pêxte. Puskin đã nhận định về Pêxte như sau:“Ông là một
trong những trí tuệ đặc sắc nhất mà tôi được biết”.
Ở phương Nam Puskin thường đi dạo chơi trên bãi biển, trên triền núi, hòa nhập vào cảnh
hoành tráng của thiên nhiên. Có lúc ông lại bỏ ra hàng giờ đi bộ đến những làng xóm của
cư dân địa phương, hỏi han, trò chuyện, tìm hiểu phong tục tập quán, sinh hoạt của người
dân lao động.
Thời gian này, Puskin ý thức một cách sâu sắc hơn về giá trị và bản chất đích thực của
tự do. Tiếng thơ của ông trở nên trầm lắng và thường có tính chất tâm sự. Ông tâm sự
với núi non, với biển cả với cánh chim bị giam lồng…Hàng loạt những bài thơ đã ra đời,
phản ánh cảm giác về tự do thường trực trong tâm hồn nhà thơ: Ánh mặt trời của ban
ngày đã tắt (1820), Người tù (1822), Con chim nhỏ (1823), Hỡi sóng cả ai ngăn chặn
(1823), Người gieo giống trên đồng vắng (1823).
Môi trường phương Nam và không khí lịch sử - xã hội của thời đại đã đặt ra những yêu
cầu mới cho sáng tác của Puskin. Nhà thơ muốn thể hiện những thể loại lớn hơn: trường
ca và phương pháp sáng tác mới: phương pháp lãng mạn. Năm 1820, trường ca “ Rutxlan
và Liutmila” ra đời.
Bản trường ca Rutxlan ra đời đã nâng Puskin lên một vị trí mới, đánh dấu sự chiến thắng
của chủ nghĩa lãng mạn đối với các khuynh hướng văn học khác. Tuy nhiên, Puskin
không dừng lại với những thành công đã đạt được. Tiếp theo trường ca Rutxtan và
Luitmila, Puskin đã sáng tạo thêm hàng loạt trường ca: Người tù Capca (1820 -1821),
Anh em kẻ cướp (1821 – 1822), Đoàn người Zưgan (1824). Những tác phẩm này đã phản
ánh sự bất mãn không thỏa hiệp của tầng lớp thanh niên tiến bộ đương thời đối với trật tự
xã hội hiện hành. Với những tác phẩm này, Puskin trở thành đại diện cho khuynh hướng
văn học lãng mạn cách mạng.
Nhưng hiện thực xã hội đòi hỏi Puskin phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo, sáng tác theo
một phương pháp phù hợp. Puskin bắt đầu viết tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin, thể
nghiệm phương pháp hiện thực.
1.1.5. Thời kì lưu đày phương Bắc ( 1824 – 1826)
Nhận thấy việc lưu đày Puskin về phương Nam không thể đàn áp được tinh thần của ông,
Nga hoàng quyết định đẩy Puskin về phương Bắc. Thời gian lưu đày ở đây ông sống tại
làng Mikhailopxkoe và bị quản thúc chặt chẽ: Puskin dường như phải sống trong cô đơn
và cách li hoàn toàn. Người thân duy nhất bên ông lúc này là nhũ mẫu Aria Rôđiônnôpna.
Những đêm mùa đông lạnh lẽo, bà thường kể cho Puskin những câu chuyện cổ tích, hát
những khúc dân ca Nga buồn thương. Chính bà đã giúp cho Puskin hiểu được thế nào là
tâm hồn Nga bình dị, tinh thần cao cả của nhân dân.
Puskin đã viết về nhũ mẫu:
“Mái lều ta quạnh hiu
Tiêu điều không ánh lửa
Bà ơi sao ngồi im
Âm thầm bên song cửa?
Hay tiếng rít bảo giông
Đã làm người muốn nghỉ?
Hay người đang mơ mộng
Theo tiếng sa rền rĩ?”
Sống tại làng Mikhailôpxkôie, Puskin vẫn tiếp tục gặp gỡ, tiếp xúc, tìm hiểu cuộc sống
của những người lao động bình dị. Puskin tiến hành ghi chép, sưu tầm và nghiên cứu về
văn hóa dân gian. Ông tìm thấy trong công việc của mình một niềm lạc quan mới mẽ,
một tinh thần mới ở nhân dân. Puskin bắt tay vào nghiên cứu lịch sử dân tộc và viết vở
kịch lịch sử Bôrit Gôđunôp (1825). Cũng trong thời gian này Puskin tiếp tục viết tiểu
thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin.
Tuy nhiên, công việc sáng tác của Puskin không hề thuận lợi. Có lúc ông bị khủng hoảng
tinh thần trầm trọng. Nhưng cũng vào lúc đó, “thiên thần hộ mệnh” Kernơ của ông xuất
hiện. Chính tình yêu cao cả đã cứu Puskin và trã lại cho ông niềm cảm xúc tuyệt vời.
Puskin đã viết lên những câu thơ kì diệu:
“Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu
Trước mắt anh em bỗng hiện lênNhư hư ảnh mong manh chợt biến
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong
…Qủa tim lại rộn ràng náo nức
Vì trái tim sống dậy đủ điều
Cả tiên thần, cả nguồn cảm xúc
Cả đời, cả lệ, cả tình yêu”
Từ đây nhiều kiệt tác trữ tình của thơ ca Nga xuất hiện: Con đường mùa đông, Lá thư
bị đốt cháy. Những bài thơ này thường đượm một vẻ buồn, khi phẩng phất, khi sâu lắng
nhưng sắc điệu cơ bản của chúng vẫn là một nổi buồn trong sáng.
Trong khi Puskin đang sống trong cô đơn tại Mikhailôpxkôie thì rạng sáng ngày 14 tháng
12 năm 1825, một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Pêtecbua. Sau đó cuộc khởi nghĩa
chống Nga hoàng bị lật đổ và hàng trăm người tham gia bị bắt, bị xử tử, bị kết án đày đi
Xibiri, trong đó có nhiều người là bạn thân thiết của Puskin. Kể từ đây, Puskin phải cùng
lúc đối đầu với hai kẻ thù lớn, đó là Nga hoàng và sự bi quan, thất vọng. Nhưng trong
hoàn cảnh đó, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng của Puskin cùng với lời nhắn gởi thiết
tha và sự hi sinh cao cả của những người bạn đã cổ vũ tinh thần nhà thơ. Tinh thần đó
mãi mãi dư âm trong lòng nhà thơ công dân, thôi thúc nhà thơ sáng tác vì tự do và tiến
bộ. Sau này những bài thơ xuất sắc như: Ariôn (1827) Cây Ansa (1828), Gửi tới Xibia
(1829) cũng bắt nguồn từ tinh thần bất tử đó.
1.1.6. Thời kì sau khởi nghĩa tháng chạp 1825
Biết không thể khép tội và chấn áp tinh thần Puskin, Nicolai I bèn thay đổi thủ đoạn. Hắn
cho gọi Puskin về Matcơva. Lúc này triều đình Nga hoàng ngày càng bộc lộ bản chất
phản động. Nicolai I biết rõ ảnh hưởng và uy tín của Puskin nên âm mưu muốn biến “nhà
thơ nhân dân” thành nhà thơ cung đình, phục vụ cho việc giải trí. Puskin phải trực tiếp
đối mặt với kẻ thù của nhân dân. Thời gian này ông cho ra đời các bài thơ nổi tiếng:
Arion(1827), Cây Ansa (1828), Gửi tới Xibia(1829).
Cũng trong thời gian này Puskin gặp người bạn đời của mình - tiểu thư Natalia
Nikôlaiepna Gônsarôva (1821- 1863). Tình yêu trong sáng và mãnh liệt đã đem lại cho
Puskin những niềm cãm hứng bất tận. Puskin đã viết về Natalia:
“…Nàng trang nghiêm, ánh mắt nàng thông tuệ
Trong hào quang thanh thoát nhân từ
Dưới gốc cọ Xiôn lặng lẽ ưu tư
Chỉ hai người, không thích thần hộ vệ…”
Ngày 18 tháng 12 năm 1831 diễn ra lễ cưới của Natalia và Puskin.
1.1.7. Những năm cuối cùng (từ 1830 trở đi)
Giai đoạn cuối cùng của nhà thơ Puskin có thể kể từ 1830 trở đi. Thời kì này, trong cuộc
sống xã hội cũng như đời tư của Puskin có nhiều thay đổi. “Tôi không có thời gian rãnh;
cuộc sống lạnh lùng, tự do cần thiết cho một nhà văn cũng không có nốt. Tôi quay cuồng
trong xã hội thượng lưu, vợ tôi lại rất ăn diện …Tất cả những cái đó cần có tiền mà tiền
thì kiếm bằng lao động, nhưng muốn lao động thì phải yên tĩnh”.
Trong thời gian khó khăn đó, Nicolai I lại rất mê sắc đẹp của Natalia. Hắn tìm mọi cách
để tiếp xúc, gần gũi với người đẹp. Nực cười hơn, hắn còn ban cho Puskin chức “thiếu
niên thị tòng”, một chức mua vui chỉ dành cho những người trẻ tuổi. Puskin như bị xúc
phạm nặng nề. Mâu thuẩn giữa Puskin với Nga hoàng ngày càng gay gắt.
Nhưng cũng lúc khó khăn nhất, Puskin lại tìm thấy niềm vui trong sáng tác nghệ thuật.
Thời gian này Puskin cho ra đời những bài thơ xuất sắc: Mùa thu, Tôi trở lại thăm, Đài
kỷ niệm…Cũng trong thời gian này, Puskin viết trường ca Kỵ sĩ đồng và hoàn thành tiểu
thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin.
Trong giai đoạn sáng tác cuối cùng này, Puskin chú ý nhiều về kịch và văn xuôi. Quyển
tiểu thuyết Người con gái viên đại úy được xem là “cuốn bách khoa toàn thư bằng văn
xuôi” của đời sống Nga cuối thế kỷ XVIII.
Từ 1830 trở đi, những âm hưởng của chủ nghĩa lãng mạn không còn trong sáng tác của
Puskin. Xu thế chủ nghĩa hiện thực trở thành xu hướng chung trong các sáng tác của
ông. Trong lúc Puskin tập trung trí lực vào sáng tác thì bọn quý tộc đã tìm mọi cách hãm
hại thi sĩ. Chúng phao tin để gây xung đột giữa tên Pháp lưu vong Đăngxtet và nhà thơ.
Để bảo vệ danh dự và chính nghĩa, Puskin đã đấu súng và mất vào ngày 10 tháng 2 năm
1837.
1.2. Tiểu thuyết thơ “ Epghênhi Ônhêghin” của Puskin
1.2.1. Tóm tắt tác phẩm
Epghênhi Ônhêghin là nhân vật chính của tác phẩm, chàng là một thanh niên quý tộc
thủ đô, thông minh, ăn diện đúng cách, được lòng gái đẹp. Chàng được xem là kiểu mẫu
của xã hội thượng lưu, Ônhêghin đắm mình trong sinh hoạt xã hội thượng lưu: tham gia
phòng trà, nhà hát, yến tiệc, khiêu vũ…Nhưng không lâu anh bắt đầu chán. Anh đóng cửa
ngồi nhà để viết văn, đọc sách. Nhưng những công việc đó không thể nào xua tan được
những nổi buồn chán trong lòng .
Trong lúc anh nghe tin từ nông thôn người chú vừa qua đời. Gia đình anh ở nông thôn gọi
anh về quê để thừa kế và trông nôm trang ấp. Anh rất hồ hở ra đi vì nghĩ rằng sẽ vơi bớt
nổi buồn chán ở thành thị .
Được vài ngày anh lại buồn chán như lúc trước. Vì vậy, anh tìm mọi việc để làm như:
thăm họ hàng, chăm sóc trẻ con…nhưng nổi buồn chán vẫn đeo đuổi .
Ngay trong làng anh có một chàng trai trẻ tên là Lenxki vừa đi học ở Đức về. Lenxki
kém tuổi hơn Epghênhi Ônhêghin và chưa từng trãi. Lenxki biết làm thơ, có nhiều mộng
tưởng. Cũng tại làng này có người con gái tên là Ônga và là người yêu của Lenxki. Đó là
một cô gái đẹp, hồn nhiên. Lenxki đến với Ônga là do hai người thân nhau từ nhỏ .
Epghênhi Ônhêghin kết bạn với Lenxki. Ônga có người chị là Tachiana. Lenxki dẫn
Epghênhi Ônhêghin đến thăm gia đình của Ônga và làm quen với Tachiana. Tachiana
không xinh như Ônga nhưng có tâm hồn rất đẹp và trong sáng. Trong khi cô em hay ca
hát vui nhộn thì cô chị hay mơ màng, tư lự, ít nói, lặng lẽ, suy tư.
Chỉ mới qua buổi đầu gặp gở mà Tachiana đã yêu Epghênhi Ônhêghin. Tachiana cảm
thấy mơ ước của mình đã đến nên yêu mãnh liệt, cô đã đánh bạo viết thư tình cho chàng
nói lên lòng yêu thương, sầu nhớ, tương tư.
Nhận được thư của Tachiana, Epghênhi Ônhêghin xúc động trước tấm lòng chân tình tha
thiết của nàng nhưng Ônhêghin lại khước từ tình yêu của nàng. Anh sợ cuộc sống gia
đình sẽ làm anh mất tự do. Đây là một hành động làm rõ tính cách của con người thời
đại .
Trong lể thánh của Tachiana, Lenxki và Epghênhi Ônhêghin cùng đến dự. Trong ngày
vui này Epghênhi Ônhêghin khiêu vũ với Ônga. Điều này làm Lenxki nghi ngờ. Kết
quả là Lenxki thách Epghênhi Ônhêghin đấu súng. Ônhêghin đã nhận lời mặc dù trong
thâm tâm anh không muốn như thế. Kết quả của cuộc đấu súng làm cho Lenxki chết còn
Epghênhi Ônhêghin thì rất đau buồn và ân hận vì thế anh đã bỏ làng quê ra đi.
Sau đó ít lâu thì Ônga lấy một chàng sĩ quan Nga Hoàng và theo chồng đi nơi khác.
Tachiana ở nhà với mẹ. Lúc này có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đã từ chối.
Trong thời gian này Tachiana âm thầm lặng lẻ với bản thân, ôn lại những kỉ niệm và
thường đến thăm căn phòng Ônhêghin từng ở.
Đến mùa đông cả hai mẹ con Tachiana rời bỏ làng quê để đến Maxcơva và sống tại nhà
một bà cô. Tại đây nàng hòa nhập sinh hoạt của giới thượng lưu. Lúc bấy giờ có một viên
tướng Nga về hưu để mắt đến Tachiana và ông đã cầu hôn với nàng. Theo lời khuyên của
mẹ và vì thương mẹ nên cuối cùng nàng đã nhận lời.
Sau một thời gian Epghênhi Ônhêghin trở về và gặp lại Tachiana. Lúc này nàng đã trở
thành một phu nhân kiều diễm. Trong lòng Epghênhi Ônhêghin tình yêu sống dậy một
cách mãnh liệt. Chàng viết thư tỏ tình với nàng, nhưng khi thư đến thì không có hồi âm.
Vì thế chàng đau buồn đến bệnh.
Cuối cùng Ônhêghin đánh bạo đến nhà nàng. Chàng gặp Tachiana và giải bày nổi lòng
mình. Tachiana rất cãm động và cô cũng thú nhận với Ônhêghin là nàng vẫn còn yêu
chàng tha thiết, nhưng nàng không thể phản bội chồng. Trong lúc đó thì chồng của
Tachiana bước vào và tác phẩm được khép lại ở đó.
1.2.2. Đề tài
Bức tranh con người, xã hội Nga trong giai đoạn đầu thế kỷ XIX.
1.2.3. Chủ đề
Sự bế tắc của một bộ phận thanh niên trí thức trước cuộc sống và lý tưởng thẫm mĩ của
con người trong xã hội Nga. Một xã hội đầy rẫy những bất công, thối nát dưới chế độ
nông nô chuyên chế.
1.2.4. Nhận định về tác phẩm
Tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin là một tác phẩm thành công của Puskin trên bước
trãi nghiệm sáng tác của mình theo phương pháp hiện thực. Tác phẩm không quá cầu kì
về chất liệu ngôn từ, không “đao to búa lớn” nhưng đã đi vào tâm hồn của mỗi người yêu
thích văn thơ Nga.
Tác phẩm Epghênhi Ônhêghin hình thức là thơ nhưng lại là tiểu thuyết. Hình thức quá
độ này là từ trường ca- thơ đi tới tiểu thuyết - văn xuôi, kết hợp những cảm xúc, sức sâu
lắng của tình người, sức ngân vang của nhịp điệu với những biến cố, những số phận,
những ngôn ngữ đa dạng, muôm màu.
Ở đây, Puskin muốn thể hiện một cách khách quan các nhân vật, đặc biệt đã dựng lên
một hình tượng “con người thừa” hóa thân đặc sắc vào nhân vật Ônhêghin. “Tâm hồn
Nga, tính cách Nga” qua hình tượng Tachiana. Với bút pháp hiện thực dường như những
tính cách, tình cảm cũng được Puskin khai thác một cách chân thật và triệt để như cái vốn
có của đời sống đương thời.
Ngoài ra, thơ ông như đưa chúng ta đi thăm phố phường, làng mạc, cây cỏ sông hồ nước
Nga và những người dân Nga hiền lành, đôn hậu. Cảnh và người hiện ra sinh động trong
5725 câu thơ, một khối lượng lớn về câu chữ, nhưng không phải chỉ có ngần ấy mà còn
có biết bao nhiêu điều khác nữa. Giữa những hàng chữ, sau những câu thơ, cho đến hôm
nay vẫn cứ trào dâng lên lòng người.
Có thể nói tài năng của nhà thơ Puskin thể hiện trong tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin
là tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật Puskin, là khối óc quan sát tinh tế và trái tim rung
động thiết tha của nhà thơ trong những tháng năm sôi nổi, bồn chồn, buồn bã, lo âu…
Trong văn học Nga lần đầu tiên xuất hiện một tác phẩm có quy mô “bách khoa toàn thư”
đúng như cách đánh giá chính xác của Bêlinxki. Trước Puskin chưa có tác phẩm nào
phản ánh sâu rộng, phong phú, đầy đủ đồng thời ngắn gọn, súc tích, chính xác về đất
nước, con người, cuộc sống như Epghênhi Ônhêghin. Chỉ đến với Puskin thiên nhiên
Nga, cuộc sống Nga, ngôn ngữ Nga mới được phản ánh với tất cả những vẽ đẹp vốn có
của nó.
Puskin là người thể hiện thiên tài sức mạnh tinh thần của nước Nga,“ hình như tất cả
những gì của hiện thực Nga Puskin đều bắt được cái hồn của nó và ông dựng lên thành
hình tượng nghệ thuật bằng một thứ ngôn ngữ rất Nga, thứ ngôn ngữ mà người Nga đọc
đến nghe âm vang như tiếng vọng của tâm hồn mình” (Hoàng Trung Thông)
Văn học Nga chưa từng có khám phá nghệ thuật nào lớn như vậy. Giữa hai mốc thời
gian, sau cuộc chiến tranh vệ quốc và trước cuộc khởi nghĩa tháng chạp, xã hội Nga
đã bộc lộ hết mình, con người Nga biểu hiện rõ hơn bao giờ hết mặt mạnh và mặt yếu.
Puskin nắm bắt lấy giai đoạn lịch sử đặc biệt này, phản ánh một thời điểm mà soi sáng
được cả quá khứ lẩn tương lai. Có người nói “Epghênhi Ônhêghin” là “tấm gương
phản chiếu thời đại lịch sử đồng thời là tấm gương phản chiếu tâm hồn nhà thơ”. Chính
Bêlinxki cũng nói “ở đây là tất cả cuộc sống, tất cả tâm hồn, tất cả tình yêu của ông, ở
đây là tình cảm, nhận thức, lí tưởng của ông”
Tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin đối với người Nga cũng như Truyện Kiều đối với
người Việt như là món ăn tinh thần phong phú và có ảnh hưởng sâu rộng trên văn đàn
văn học trong khu vực cũng như toàn trên thế giới.
Chương 2: Những đặc sắc về nội dung của tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin của
Puskin.
1.1. Epghênhi Ônhêghin – tiểu thuyết hiện thực
Ở Nga nếu ai đó tò mò muốn biết sách nào bán chạy nhất, thì hầu hết các chủ hiệu sách sẽ
trã lời ngay mà không cần suy nghĩ: “tiểu thuyết”!
Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi loại sách này chắc chắn làm hài lòng phần lớn
công chúng độc giả, thỏa mãn tình cảm và trí tưởng tượng của họ.
Tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin có lẽ cũng không nằm ngoài! bởi tác phẩm không chỉ
làm hài lòng độc giả, thỏa mãn tình cảm và trí tưởng tượng mà còn nuôi dưỡng tâm hồn
qua từng thế hệ qua bức tranh hiện thực sống động mà Puskin đã vẽ nên.
Epghênhi Ônhêghin đã dần vươn lên vị trí hàng đầu trong nền văn học Nga, trở
thành “bách khoa toàn thư” của thời đại. Đó là tiểu thuyết “khởi đầu của mọi sự khởi
đầu” tạo nên những nhân vật điển hình của thời đại, với những phương thức nghệ thuật
trở thành khuôn mẫu cho những thế hệ tiểu thuyết về sau.
Ðây là tiểu thuyết bằng thơ viết trong hơn tám năm (1823 - 1831). Tác phẩm nêu lên
vấn đề con người thời đại. Vấn đề này ông đã đề cập đến hai bản trường ca “Người tù
Capcaz” và “Ðoàn người Zưgan”, nhưng hai tác phẩm trên như chúng ta đã biết đều viết
theo bút pháp lãng mạn, do đó tính cách của nhân vật bị hạn chế rất nhiều. Trong quyển
tiểu thuyết bằng thơ này Puskin viết theo phương pháp hiện thực.
Epghênhi Ônhêghin có nội dung phong phú, giá trị nghệ thuật cao, rất phổ biến và có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ nền văn học Nga. Với tiểu thuyết Epghênhi Ônhêghin, văn
học Nga chuyển một bước quan trọng sang chủ nghĩa hiện thực.
Trong tác phẩm này Puskin đã đưa ra bức tranh của thời đại, tái hiện lại cuộc sống xã
hội Nga từ 1819 đến đầu 1825 (tức là giai đoạn trước khởi nghĩa tháng chạp) với tất cả
độ rộng lớn, sâu sắc và chân thật của nó. Nhà phê bình Bêlinxki đã nói đây là: “Bộ bách
khoa toàn thư của cuộc sống Nga đầu thế kỉ XIX”. Tác phẩm mở đường cho chủ nghĩa
hiện thực văn học Nga, đánh dấu văn học Nga chuyển sang một thời kỳ mới.
Thơ là họa! vâng, Puskin đã vẽ lên cho chúng ta về bức tranh hiện thực Nga rất đậm nét
thông qua tác phẩm ta như được chứng kiến lại cảnh sắc thiên nhiên và con người thời
đại Nga lúc bấy giờ. Thơ đưa chúng ta đi thăm phố phường, làng mạc, cây cỏ, sông hồ
nước Nga và những người dân Nga hiền lành, đôn hậu. Cảnh và người hiện ra sinh động
qua 5275 câu thơ.
Nhà nghệ sĩ tài hoa đã sử dụng một thể loại kết hợp rất sáng tạo là tiểu thuyết thơ, tiểu
thuyết viết bằng thơ. Puskin “kể” và Puskin “hát” cho chúng ta nghe những sự việc,
những tình tiết, những cảnh đời hàng ngày, những giây phút nên thơ, nên mộng, bức
tranh quê, tâm tình thiếu nử…tất cả hòa vào nhau tạo nên nét độc đáo cho tác phẩm.
Viết Epghênhi Ônhêghin theo bút pháp hiện thực điều này làm cho tính cách những nhân
vật như Ônhêghin, Tachiana, Lenxki, Ônga…lần đầu tiên xuất hiện như những con người
sống thực với diện mạo với lai lịch rõ ràng, tâm lý riêng biệt, phát triển tự nhiên, hợp lí:
“Tôi chẳng viết những điều gì kinh hãi
Về nổi đau của cái ác cái tà,
Mà đơn giản, ung dung tôi kể lại
Về gia đình, về phong tục nước Nga,
Về tình yêu, về giấc mơ cám dỗ
Về cái tốt và cái hay thời cổ.”
Cuối tác phẩm nhà thơ nói cùng bạn đọc:
“…Tôi chỉ muốn sách này
Mang lại một cái gì bé nhỏ
Cho bạn ngồi suy ngẫm một vài giây”
Đặc biệt Puskin còn vẽ lên bức tranh thiên nhiên Nga bằng những tình cảm ưu ái, thiết
tha của mình. Nhà thơ miêu tả tỉ mỉ từ kinh thành Pêtecbua cho đến những miền quê với
cảnh sắc bốn mùa đặc trưng. Bên cạnh đó, Nông thôn Nga cũng chiếm một vị trí lớn và
đặc biệt trong tiểu thuyết. Ông miêu tả các mùa: “xuân-hạ-thu-đông” với núi non, sông
rộng, tuyết phủ, bầu trời xanh…Qủa thực Puskin đã nắm bắt những cái đẹp hữu tình ngay
cả trong cái bình thường,dung dị nhất.
Ngoài ra, trong tác phẩm nhà thơ còn thể hiện nhiều bức tranh về phong tục, tập quán
Nga với tầm bao quát sâu rộng:
“Các thói quen của ngày xưa đẹp đẽ
Họ giữ nguyên qua sinh hoạt trong nhà
Vào dịp lễ tiễn mùa đông thường lệ,
Họ vẫn làm đủ thứ bánh Blin Nga
Và một năm hai lần chay đạm bạc,
Họ cũng yêu đu quay như người khác
Yêu dân ca, yêu điệu nhãy quay vòng
Và trong ngày lễ Ba Thánh rất đông,”
Với bút pháp hiện thực, đọc Epghênhi Ônhêghin chúng ta như nhớ lại một thời đã qua
trên đất nước Nga qua việc tái hiện chân thực và sinh động của Puskin qua tác phẩm.
Nếu như nói:“Văn học phản ánh hiện thực” thì Epghênhi Ônhêghin là một tác phẩm văn
học như thế!
1.2. Bức tranh thiên nhiên Nga qua nét vẽ của Puskin
1.2.1. Những hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên.
Xưa nay, thiên nhiên là đề tài rộng lớn và là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận trong thi ca,
nghệ thuật. Thiên nhiên có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống tinh thần của con
người bởi nó là nơi gửi gắm, chia sẻ buồn vui, làm cho tâm hồn ta thêm thanh cao, trong
sáng. Thiên nhiên thường chỉ là tấm phông nền cho cảm xúc. Dù vậy, nếu thiếu nó tác
phẩm
thơ ca sẽ trở nên khô khan và mất đi chất men khơi nguồn của cảm xúc. Giống như các
thi sĩ yêu thích vẽ đẹp thiên nhiên, Puskin cũng dành cho thiên nhiên một tấm lòng ưu ái.
Ông đã vẽ trong “Epghênhi Ônhêghin” một bức tranh rất chân thật và có tính chất tư liệu
mang rõ cãm hứng về đất nước và con người Nga.
Đến với thiên nhiên Nga trước tiên ta cần khảo sát những hình ảnh tiêu biểu đặc trưng và
tần số xuất hiện, để từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về thiên nhiên gắn bó với cuộc sống,
với con người, với tình yêu, với thơ và đặc biệt với thi sĩ.
Hình ảnh trong tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin như một cơn gió nồng nàn thoáng qua
đâu đây, đượm chút hương thơm đất trời, ngân nga khúc hát du dương. Xúc cãm là cội
nguồn lan sâu, bắt rễ trong tâm hồn Puskin.
Stt Tác phẩm “Epghênhi Ônhêghin”
1 Các hình ảnh Tần số xuất hiện
2 Trời 26
3 Mặt trời 8
4 Bầu trời 8
5 Trăng 33
6 Tuyết 30
7 Cánh đồng 37
8 Rừng 32
9 Sương 19
10 Núi 15
11 Biển 8
12 Vườn 16
Trên đây là kết quả thống kê của chúng tôi về những hình ảnh thiên nhiên nổi bật được
sử dụng trong tiểu thuyết “Epghênhi Ôghênhin” của Puskin. Qua đó ta thấy các hình ảnh
thiên nhiên được tác giả thể hiện khá đa dạng, phong phú và tần số xuất hiện của chúng
khá cao, cụ thể là: trời (26 lần), mặt trời (8 lần), bầu trời ( 8 lần), trăng (33 lần), tuyết (30
lần), cánh đồng(37 lần ), rừng(32 lần), sương (19 lần), núi (15 lần), biển (8 lần), vườn (16
lần)… Từ những liệt kê trên, ta nhận thấy chúng diễn tả được một không gian rất rộng
lớn, mênh mông vô hạn…Hình ảnh trong thơ Puskin cao rộng, đẹp một cách hùng vĩ và
thơ mộng – thiên nhiên như mang kích thướt của tâm hồn.
Thiên nhiên qua cái nhìn của Puskin trong tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin được thể
hiện đầy đủ biên độ các khoảng cách: rộng, hẹp, xa, gần. Nó phong phú về hình thức thể
hiện, tần số hình ảnh thiên nhiên xuất hiện khá nhiều và biến động linh hoạt, lúc thế này,
lúc thế khác. Các hình ảnh thiên nhiên được tác giả miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau.
Bên cạnh những hình ảnh thể hiện khung cảnh thiên nhiên khái quát nói chung còn có
những hình ảnh mang tính cụ thể, xác định.
Trong quá trình khảo sát, có một số hình ảnh xuất hiện không đồng đều nên chúng tôi
không tính đến. Hơn nữa chúng tôi cũng quy ước chỉ chọn một từ quan trọng biểu thị
hình ảnh thiên nhiên được miêu tả làm hình ảnh chung để biểu thị sắc thái của hình ảnh
đó. Ví dụ chúng tôi chọn hình ảnh “trời” làm hình ảnh chung, “trời” xuất hiện đa dạng
và biểu hiện bằng những cụm từ gợi hình như: “trời tối, trời trong xanh, trời nắng, trời đã
tối, trời nhợt nhạt, trời mát mẻ”… tất cả những hình ảnh chỉ sắc thái này chúng tôi cùng
sắp xếp chung một hình ảnh là “trời”.Puskin là một con người giàu lòng yêu thương, yêu
tất cả mọi cảnh đẹp và con người trên
đất nước Nga. Cuộc sống đôi khi túng thiếu nhiều bề nhưng tinh thần luôn tràn đầy nhựa
sống, một sức sống thanh cao, hạnh phúc với niềm vui bé nhỏ trong làng quê thân thương
bên những người dân chân chất. Quê hương như dòng máu chảy trong tim Puskin và còn
là động cơ thôi thúc nhà thơ viết lên những dòng thơ đầy chất lãng mạn và tươi đẹp.
Nước Nga đã tạo nên những cảm hứng cho Puskin, ngòi bút của ông đã gợi lên bao điều
tâm sự, bao niềm vui, nổi buồn. Thời gian này cứ trôi đi theo năm, tháng, ngày, giờ,
khoảng khắc. Từng thời điểm ấy sự việc cứ xãy ra, cuộc sống của con người, của thiên
nhiên luôn vận hành theo qui luật luân chuyển của thời gian. Trong mỗi thời khắc trôi qua
thì nó luôn song hành cùng với màu sắc thiên nhiên khác nhau, nó đem lại phong vị riêng
ở từng cảnh làm cho sắc trời thêm mới mẻ.
Bên cạnh những hình ảnh, chúng tôi còn thống kê những dạng thức thời gian, với tần số
xuất hiện và đặc điểm vốn có thường được sử dụng gắn liền với những thay đổi của cảnh
sắc thiên nhiên trong tác phẩm.
Dạng thức thời gian Tần số xuất hiện Đặc điểm miêu tả
Ngày 75 Vui tươi, trong sáng
Đêm 52 Tươi mát, mù mịt
Xuân 12 Vui tươi, xác xơ, băng giá
Hạ 6 Nóng nực, ấm áp
Thu 5 Nắng ấm, trời đẹp
Đông 29 Bão tuyết, lạnh lẽo
Thiên nhiên trong tác phẩm Epghênhi Ônhêghin được miêu tả qua các dạng thức ngày,
đêm và bốn mùa trong năm. Thời gian được cụ thể là: Ngày (75 lần), đêm (52 lần), xuân
(12 lần), thu (5 lần), đông (29 lần)
Thời gian trong tác phẩm Epghênhi Ônhêghin của Puskin xuất hiện khá đa dạng và với
nhiều sắc thái khác nhau. Nó như là một dòng chảy dài vô tận. Đôi khi đó là thời gian ở
hiện tại và đôi khi nó là qúa khứ xa xôi được nhớ lại qua trí nhớ của nhân vật nào đó.
1.2.2. Cảnh đẹp riêng của xứ sở Nga
Từ cổ chí kim, thiên nhiên luôn là niềm cãm hứng vô tận cho các thi nhân say sưa thưởng
thức, vẫy bút đề thơ. Dường như tất cả nhà thơ nào cũng viết lên những trang thiên nhiên
trong tác phẩm của mình. Thơ thường hay “yêu cảnh thiên nhiên đẹp” với “mây, gió,
trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Thiên nhiên trong tác phẩm của Puskin cũng không nằm
ngoài vẽ đẹp nên thơ đó. Bức tranh ấy càng sống động và tinh tú hơn với những hình
ảnh “trời, trăng, cánh đồng, tuyết…” Puskin đã hoàn toàn thổi vào hồn thơ của mình với
tất cả những niềm ưu ái nhất.
Thiên nhiên trong tác phẩm “Epghênhi Ônhêghin” rất đa dạng và phong phú, đó như là
cảnh đẹp riêng của xứ sở nước Nga. Mặc dù thiên nhiên không là của riêng ai nhưng qua
những câu thơ của Puskin, ta dường như cảm thấy thiên nhiên xuất hiện trong tác phẩm là
của riêng ông, của riêng nước Nga.
Hình ảnh thiên nhiên hiển hiện khá rõ nét. Nó có lúc rất xa ở tận nơi trời cao nhưng cũng
có lúc nó rất gần gũi với con người. Ở đây hình ảnh “trời” hiện lên rất nhiều trong tác
phẩm:
“Không ít những đêm dài mùa hạ,
Khi trên cao trời rất sáng trong ngần
Và mặt nước dòng Nêva êm ả
Không soi hình khuôn mặt của Đian”Trời có lúc đẹp đẽ và êm dịu như thế đó. Cảnh bầu
trời rất trong sáng, nên thơ. Mặt nước
thì chãy dài êm ả như ru, trên dòng sông như soi bóng của một nhân vật trữ tình. Có lúc
gắn liền với hoạt động của con người:
“Chỉ dưới nước tiếng mái chèo khua nhẹ,
Con thuyền bơi trong ngáy ngủ sương mù.
Chỉ tiếng hát và tiếng khèn khe khẽ
Phía chân trời âu yếm tựa lời ru.
Nhưng đêm vắng hay hơn và ý nhị”
Trời trong lành êm dịu, mỗi phong cảnh khác nhau thì “trời” được miêu tả khác nhau. Có
khi “phía chân trời âu yếm tựa lời ru”, rất nên thơ, nên mộng, đôi khi là :
“Trời hửng sáng bình minh vừa hé dậy,
Với bàn tay luôn đỏ rực, chói lòa
Đang kéo nhẹ mặt trời lên lộng lẫy”
Trời được nhân cách hóa như một con người, với đôi bàn tay luôn “đỏ rực, chói lòa”, như
ai đó kéo then cài cửa để nhìn ra chủ thể bên ngoài. Trời buổi sáng được so sánh như một
thiếu nữ mới lớn còn rất nhiều e thẹn, ngại ngùng, chỉ như bông hoa vừa mới hé nụ mà
thôi. Trời trong mùa thu thì mát ẩm, rất đặc trưng:
“Trời đã thở hơi mùa thu mát ẩm
Đã ít hơn những hôm trời nắng ấm,
Ngày ngắn hơn, ngắn hơn mãi từng ngày
Trong cánh rừng, rất huyền bí, lá cây
Đã buồn bã bắt đầu rơi lặng lẽ
Sương mù trôi từng cuộn lớn trên đồng”
Ở nước Nga mùa thu ngày rất ngắn, lá vàng khắp nơi trong cánh rừng, cứ ngỡ đó là một
xứ sở mơ mộng, nó như là một bức tranh sơn thủy, bức tranh thiên nhiên Nga với trời thu
đa sắc, với những nét “huyền bí, lá cây”,với“cánh đồng” và “từng cuộn lớn sương mù
trôi đó đây”. Có khi trời cũng mang nét buồn bã, mờ nhạt qua tiếng kêu của loài dế, tiếng
nước chảy, cũng gợi lên trong lòng người ít nhiều nổi niềm sâu lắng:
“Trời sẫm tối, dế kêu và nước chảy
Như mưa rơi luôn tí tách ngoài đồng”
Thiên nhiên ẩn hiện lúc gần, lúc xa, có khi nó là nơi “sao nhấp nháy trên trời đêm mệt
mõi”, khi thì thiên nhiên ở gần bên con người như “mặt nước trên dòng Nêva êm ả”, khi
thì “tiếng mái chèo khua nhẹ trong sương mù” hay có khi thấy sự gần gủi, thân thiết giữa
thiên nhiên và con người trong những cảnh sinh hoạt đời thường:
“Anh chăn bò, trời đã sáng từ lâu,
Vẫn không chịu xua bò ra bãi cỏ,
Đến giữa trưa cũng chẳng thổi tù và
Gọi chúng lại trong túp lều đâu đó
Một mình buồn cô gái hát ê a”
Trong tác phẩm, thiên nhiên như được nhân cách thành con người, bởi nó cũng mang
những tâm trạng. Có thể nói thiên nhiên và con người như một. Khi Tachiana trong lòng
u hoài, vương vấn thì bầu trời dường như cũng mang những nổi niềm mệt mõi, chơi vơi
cùng trăng sao:
“Tachiana trong sân, không tiếng động
Lấy gương soi và chiếu thẳng lên trời,
Trong gương nàng, trăng mệt mõi, chơi vơi…”Hay:
“Nàng bỗng thấy vầng trăng non nhợt nhạt
Chếch sau nhà trên trời cao bát ngát”
Hoặc:
“Nàng nhìn quanh, trời đã sáng ngoài thềm
Qua cánh mờ cửa sổ đẩm sương đêm”
Lúc nhà thơ Lenxki chết trong trận đấu súng thì trời đất như u ám và lạnh lẽo hẳn đi như
một người thật sự để tiễn biệt nhà thơ và ngõ lời nuối tiếc cùng chàng, chia sẽ sự mất mác
quá bất ngờ khi tuổi trẻ và tình yêu đang trong độ nồng ấm nhất. Chàng ra đi để lại bao
nhiêu sự thương tiếc cho con người cũng như cả đất trời:
“Bên đoàn xe mười tám con ngựa kéo
Khóc tiễn biệt giữa trời đông lạnh lẽo”
Hay hình ảnh sinh hoạt bình thường trong gia đình của người dân được miêu tả dưới bầu
trời là cảnh sôi nổi. ồn ào, xa xa trên mái nhà những làn khói chập chờn như giấc mơ:
“Trời hửng sáng, phố ồn ào, sôi nổi,
Cửa từ lâu đã mở, củi bén lò,
Các ống khói đã bắt đầu nhả khói.
Ống bánh mì người Đức tính hay lo,
Chiếc mũ giấy trên đầu, kia vừa hát,
Vừa thông thả mở từng thanh Vaxixđat”
Ngoài ra hình ảnh thiên nhiên “bầu trời” còn gắn liền với sự huyền bí và linh thiên. Nó
được con người tôn trọng và kính ngưỡng, xem nó như số phận đã định trước cho con
người, “trời” đầy huyền năng và uy lực, mọi sự xảy ra như là sự sắp đặt của thế giới vô
hình nào đó. Người ta đôi khi bất ngờ, ngạc nhiên trước những điều mình chứng kiến hay
đã từng gặp phải. Có khi nó xuất hiện dưới dạng như cổ tích hay thần thoại :
“Dưới bầu trời của Sile và Gớt
Với trái tim luôn bốc lửa trong lòng
Bằng lửa thần của tác phẩm hai ông.
Thật may mắn, chàng không hề xấu hổ”
Hay:
“Từ bút chàng như suối cứ trào tuôn
Anh cùng thế nhà thơ Yazưcôp.
Anh viết thơ có trời Caidgi,
Nhất là lúc anh bốc lên hồi hộp”
Trời như tạo năng lực cho con người sáng tác thơ văn, đó là cảm hứng từ thế giới bên
ngoài, thế giới của những thần linh đang ngự trị. Thói quen con người cũng do trời định
trước. Dù có thay đổi, cải sửa thì cuối cùng nó cũng đi theo tiếng gọi của thói quen:
“Thì thói quen trời cho ta cũng để
Thay hạnh phúc làm cho ta thêm vui vẻ”
Để kết thúc những điều Epghênhi Ônhêghin tỏ cùng mình Tachiana đã kết luận một câu
rất mạnh mẽ, sự việc này là do “ý trời” đã định trước rồi:
“Thôi, vô ích tán dài rông này nọ
Một ngày kia có thể bởi ý trời”
Hoặc chuyện bà vú nuôi của Tachiana có chồng, đối với bà đó là điều rất bất ngờ mà bà
không hề có ý định. Mọi việc được sắp xếp từ hai bên gia đình, bà là người chỉ biết tuân
theo lệnh của cha mẹ bởi vì khi xưa cha me đặt đâu thì con ngồi đó. Chính vì điều này
không riêng gì ở nước Nga mà ở những nước Châu Á khác càng sâu sắc hơn nhiều, đây là
một trong nhiều trường hợp:
“Ừ thì cũng do ý trời định trước:
Vanhia chú rể trẻ hơn bà
Mà bấy giờ bà chưa quá mười ba
Rất đơn giản, trong hai tuần mụ mối
Đến se duyên, và kết quả - lấy chồng”
Chuyện Tachiana lấy chồng đó cũng là điều định trước, mặc dù cô cũng yêu Ônhêghin
rất nhiều. Cuộc đời đẩy đưa theo dòng nước, nó cuốn đi tất cả mọi việc, sống trong vòng
nước xoáy này có người chỉ biết nương vào nó, ai càng chống lại càng chuốt lấy nhiều
đau khổ, hạnh phúc cũng có nhưng tùy vào tính chất của sự việc. Chuyện Tachiana lấy
chồng, có lẽ đó là một liệu pháp tốt nhất cho cuộc sống hạnh phúc sau này của người con
gái. Mặc dù trước đó, nàng không yêu chồng mà chỉ nghe theo lời của cha mẹ, vì chữ
hiếu mà nàng chấp nhận:
“Vâng, quả thế theo ý trời đã định
Cô sẽ yêu một người khác sau này”
Bên cạnh hình ảnh “trời” thì “trăng” còn là nguồn cảm hứng vô tận của biết bao thi nhân,
thi sĩ. Ánh trăng không chỉ đem lại cảnh đẹp cho thiên nhiên Nga mà hơn thế nữa, có lúc
trăng như dòng suối mát làm tan đi những nổi ưu phiền, mệt mõi sau những giờ phút căng
thẳng, có lúc như là người bạn là chổ dựa tinh thần và còn là biểu tượng cho vẽ đẹp tâm
hồn.
Một khung cảnh thiên nhiên giản dị mà chân thực. Trong cái bát ngát lung linh của vầng
trăng – khoảng trời, phải chăng con người lắng nghe và phát hiện ra được cái chất vĩnh
cửu trong chính bản thân mình, trong sự im lặng miên mang và dịu hiền.
Trong tác phẩm,“trăng” cũng góp phần làm nên vẽ đẹp lung linh, huyền diệu của bức
tranh. Ngoài ra “trăng” còn có vai trò như một người bạn tâm tình. Hình ảnh “trăng”
trong “Epghênhi Ônhêghin” cũng được khắc họa rất đa dạng và gắn liền với con người
bởi nó như thấu hiểu được tâm trạng của nhân vật.
Trăng được thi sĩ Puskin khắc họa có nhiều dạng khác nhau: trăng, trăng trắng đục, trăng
khuya bạc trắng, trăng mênh mang, trăng vời vợi, trăng vàng … theo sự khảo sát và tìm
hiểu riêng của chúng tôi thì khi tác giả miêu tả ánh trăng mang màu “trắng đục”, thì khi
đó tâm trạng của nhân vật không được vui hoặc là đang suy tư và nghĩ ngợi chuyện gì đó
mang máng nét buồn.
Chẳng hạn, Tachiana mơ ước được sống cùng Ônhêghin, cùng xây đắp tương lai với
chàng. Đó là tâm trạng riêng của Tachiana nhưng dường như là tâm trạng chung của
những người đang yêu. Tuy nhiên đối với Tachiana thì đó như là một giấc mơ xa lắm cho
nên trăng xuất hiện với màu trắng đục – biểu hiện cho sự tan vỡ. Đó như là một điều hiển
nhiên:
“Vừa tư lự nghĩ về chàng, lặng lẽ
Vừa ngước nhìn vầng trăng đục hồi lâu
Và thầm mong một ngày kia có lúc
Được cùng chàng sống cùng nhau hạnh phúc”
Hay:
“Những đêm dài lạnh lẻo giữa mùa đông
Khi thế giới chìm sâu trong bóng tối
Trong ánh trăng sương trắng đục nhờ nhờ”Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ”. Điều này, quả thật là không sai chút nào. Thiên nhiên Nga dưới ánh
trăng và bầu trời rất đẹp nhưng Tachiana không thể nào có cảm giác để đứng ngắm ánh
trăng được, trong tâm hồn cô lúc này chỉ có duy nhất hình ảnh của chàng trai Epghênhi
Ônhêghin mà thôi. Mọi việc diễn ra xung quanh cô xem như vô nghĩa. Thiên nhiên tươi
đẹp nhưng không thể nào xoa dịu được nổi lòng của nàng:
“Trong lúc ấy, chếch bên thềm, mệt mỏi
Trăng vẫn sáng, ngó nhìn qua bóng tối,
Ngắm Tanhia mặt tái nhợt đang ngồi ,
Mái tóc nàng như sóng xõa đang trôi
Mắt đẫm lệ, và bên nàng, bà vú”
Dù bên cạnh nàng là cảnh thiên nhiên hữu tình và bà vú thân yêu đã ở bên cạnh nàng từ
thuở ấu thơ nhưng tất cả cũng chỉ là vô vị. Cảnh nông thôn vui vẻ của các thiếu nữ dưới
ánh trăng ca hát cũng vậy:
“Các cô gái hát giữa đêm khuya vời vợi
Tanhia trong bóng tối im lìm
Nghe họ hát và nóng lòng chờ đợi
- Xem thêm -