Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá hàm lượng kim loại nặng trong nước, trầm tích và khả năng tích lũy tron...

Tài liệu đánh giá hàm lượng kim loại nặng trong nước, trầm tích và khả năng tích lũy trong động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ tại một số sông, hồ ở khu vực hà nội (1)

.PDF
96
702
73

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ---------------------------------- HOÀNG THỊ HOA Ngành : Khoa học môi trƣờng Mã số : 60.44.03.01 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG Thái Nguyên – 2014 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 2 Công trình đƣợc hoàn thành tại: Trƣờng Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thu Hằng Phản biện 1: PGS. TS. Đặng Văn Minh Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Khắc Thái Sơn Luận văn đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại: Trƣờng Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên Vào hồi 10 giờ 30 ngày 30 tháng 11 năm 2014. Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên - Thƣ viện Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển của xã hội thì quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa cũng nhƣ nhu cầu phát triển của nông nghiệp không ngừng gia tăng. Các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp đƣợc xây dựng ngày càng nhiều, các quá trình sản xuất, các sản phẩm phế thải của các nhà máy, xí nghiệp đã làm xấu đi môi trƣờng sống của chúng ta. Các quá trình thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng đã đƣa vào tự nhiên một lƣợng thuốc bảo vệ thực vật. Và cũng từ đó vấn đề ô nhiễm môi trƣờng đặc biệt là ô nhiễm kim loại nặng ngày càng gia tăng, nó đã và đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ trong nƣớc mà cả phạm vi toàn cầu. Nhiều kim loại nặng đóng vai trò là những nguyên tố vi lƣợng cần thiết cho sinh vật. Sự thiếu hụt hay mất cân bằng của nhiều kim loại vi lƣợng trong các bộ phận của cơ thể nhƣ gan, tóc, máu, huyết thanh... là những nguyên nhân hay dấu hiệu của bệnh tật, ốm đau hay suy dinh dƣỡng. Tuy nhiên, một vài trong số đó đƣợc xem là chất độc khi hàm lƣợng tăng cao. Với một hàm lƣợng rất nhỏ các kim loại nặng cũng đủ gây độc cho ngƣời và động vật, gây bệnh ung thƣ thậm chí gây tử vong. Một vài gam thuỷ ngân (Hg) hoặc cađimi cũng đủ gây chết ngƣời, một số kim loại nặng nhƣ: Pb, Hg, Cd,… có thể gây ngộ độc ngay ở nồng độ rất thấp. Kim loại nặng xâm nhập vào không khí, vào nƣớc, vào đất, vào thực phẩm rồi xâm nhập vào cơ thể con ngƣời qua đƣờng ăn uống, hít thở dẫn đến sự nhiễm độc. Kim loại nặng là các kim loại thƣờng có độc tính đối với môi trƣờng và hệ sinh thái. Những kim loại nặng nguy hiểm về phƣơng diện gây ô nhiễm môi trƣờng thƣờng đƣợc biết đến nhƣ: Zn, Cu, Pb, Cd, Hg, Ni, As, Cr,… Các kim loại này có nguồn gốc từ quá trình sản xuất công nghiệp hoá chất, luyện kim, hoạt động khai thác mỏ, các hoá chất dùng trong nông nghiệp, giao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 4 thông vận tải, y tế… Kim loại nặng có thể xâm nhập vào cơ thể con ngƣời chủ yếu thông qua đƣờng tiêu hóa và hô hấp. Tuy nhiên, cùng với mức độ phát triển của công nghiệp và sự đô thị hoá, hiện nay môi trƣờng sống của chúng ta bị ô nhiễm trầm trọng. Các nguồn thải kim loại nặng từ các khu công nghiệp vào không khí, vào nƣớc, vào đất, vào thực phẩm rồi xâm nhập vào cơ thể con ngƣời qua đƣờng ăn uống, hít thở dẫn đến sự nhiễm độc. Do đó việc nghiên cứu và phân tích các kim loại nặng trong môi trƣờng sống, trong thực phẩm và tác động của chúng tới cơ thể con ngƣời nhằm đề ra các biện pháp tối ƣu bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng là một việc vô cùng cần thiết. Nhu cầu về thực phẩm sạch, đảm bảo sức khỏe đã trở thành nhu cầu thiết yếu, cấp bách và đƣợc toàn xã hội quan tâm. Các loài động vật nhuyễn thể nhƣ: trai, ốc, nghêu, sò…cũng là một trong những nguồn thực phẩm thiết yếu và đƣợc ƣa chuộng ở nƣớc ta. Loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ có vai trò làm sạch môi trƣờng, có giá trị kinh tế và giá trị dinh dƣỡng cao song chúng có khả năng đặc biệt trong việc tích tụ những chất gây ô nhiễm nhất định trong mô của chúng vì những đặc tính vốn có nhƣ: lấy thức ăn theo kiểu lọc nƣớc; có khả năng tích lũy một hàm lƣợng lớn các kim loại nặng mà không bị ngộ độc; có lối sống tĩnh tại, di chuyển chậm để đảm bảo rằng chất ô nhiễm mà nó tích tụ có liên quan đến khu vực nghiên cứu; phân bố rộng, có số lƣợng phong phú, dễ thu mẫu; có kích thƣớc phù hợp dễ cung cấp những mô đủ lớn cho việc phân tích… Mặt khác vì sự tích luỹ kim loại nặng trong cơ thể chúng với hàm lƣợng cao hơn nhiều lần so với môi trƣờng bên ngoài, nơi chúng sinh sống nên những loài này tƣợng trƣng cho ô nhiễm của khu vực nghiên cứu. Ví dụ: Ở con sò có thể tích tụ một hàm lƣợng Cd trong mô của chúng cao gấp 100.000 lần so với hàm lƣợng Cd có trong môi trƣờng nƣớc nơi chúng sinh sống (Hoàng Thu Phƣơng, 2011)[14] nên những loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ đã đƣợc nghiên cứu sử dụng làm sinh vật quan trắc môi trƣờng nƣớc bị ô nhiễm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 5 bởi kim loại nặng mang lại hiệu quả cao. Hiện nay, các loài nhuyễn thể nói chung và loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ nói riêng đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều chƣơng trình quan trắc ô nhiễm trên thế giới, các loài nhuyễn thể đã đƣợc sử dụng cho mạng lƣới quan trắc ô nhiễm kim loại nặng toàn cầu (Goldber, 1983). Từ nghiên cứu của Goldber (1975) và Phillips (1976), loài Mytilus galloprovincialis đƣợc sử dụng rộng rãi nhƣ sinh vật chỉ thị ô nhiễm ở các khu vực ven biển dựa trên khả năng tích luỹ các kim loại Hg, Zn, Cu, Cd, Ni, Mn, Cr. Nghiên cứu của Aysun Turkmen và cộng sự ở Vịnh Iskenderun, Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy có sự tích tụ khá cao các kim loại nhƣ: Zn, Ni, Cd, Fe, Cu, Cd, Mn, Cr, Co ở 2 loài Chama pacifica và Ostrea stentina. Ở Việt Nam vấn đề nghiên cứu về sinh vật tích tụ dù còn khá mới mẻ nhƣng cũng đƣợc rất nhiều ngƣời quan tâm, đã có một số nghiên cứu kim loại nặng đƣợc thực hiện trên một số loài hai mảnh vỏ nhƣ: vẹm xanh, nghêu lụa, nghêu trắng, ngao dầu, hến,… Các kim loại nặng đƣợc nghiên cứu là các kim loại nặng có độc tính cao nhƣ: As, Ag, Hg, Cd, Pb, Cu,...Tuy nhiên các nghiên cứu này chƣa nhiều (Hoàng Thu Phƣơng, 2011) [14]. Việc phân tích hàm lƣợng kim loại nặng trong mô của các loài nhuyễn thể, ta có thể đánh giá đƣợc chất lƣợng môi trƣờng chúng sinh sống. Từ đó, việc đánh giá các chất ô nhiễm này dễ dàng hơn nhiều so với các phƣơng pháp phân tích lý hóa. Nhiều kim loại nặng đƣợc đánh giá là độc ở dạng vết và có thể gây ngộ độc tức thời hoặc ảnh hƣởng lâu dài đến sinh vật nhƣ Pb, Cd, As,… Một số kim loại khác với hàm lƣợng nhỏ là nguyên tố vi lƣợng có lợi nhƣng với hàm lƣợng lớn cũng có khả năng gây hại, nhƣ Cu, Zn. Đánh giá hàm lƣợng kim loại nặng trong thực phẩm nói chung và trong các loài nhuyễn thể nói riêng là yêu cầu cần thiết cho việc sử dụng thực phẩm an toàn. Thủ đô Hà Nội là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế xã hội lớn nhất nƣớc ta (cùng với TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng...). Hà nội là thành phố của ao, hồ, sông ngòi... với khoảng 20 hồ trong khu vực nội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 6 thành có diện tích mặt nƣớc khoảng 765 ha. Ao, hồ, sông ngòi là nơi điều hòa khí hậu và là nét đẹp đặc trƣng của thành phố này, nhƣng hiện nay chất lƣợng nƣớc ở hầu hết các hồ nơi đây đang trong tình trạng ô nhiễm nặng do phải chứa đựng một lƣợng lớn nƣớc thải từ khu dân cƣ, từ các nhà máy, xí nghiệp (Bùi Nguyên Phổ, 2012)[16]. Xuất phát từ thực tế đó việc thực hiện đề tài: “Đánh giá hàm lượng kim loại nặng trong nước, trầm tích và khả năng tích lũy trong động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ tại một số sông, hồ ở khu vực ở Hà Nội” là hết sức cần thiết. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Cung cấp số liệu đánh giá tác động của nguồn nƣớc và trầm tích tại khu vực nghiên cứu lên các Nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Góp phần tìm hiểu khả năng áp dụng sinh vật làm chỉ thị sinh học để đánh giá sự ô nhiễm môi trƣờng. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Đánh giá đƣợc các vấn đề cơ bản về hiện trạng khu vực nghiên cứu - Phân tích, đánh giá đƣợc đặc điểm thủy lý hóa các sông, hồ nghiên cứu - Đánh giá đƣợc mức độ ô nhiễm KLN trong nƣớc, trầm tích và khả năng tích lũy của chúng trong động vật Nhuyễn thể hai mảnh sống ở một số lƣu vực sông, hồ tại khu vực nghiên cứu dựa vào tiêu chuẩn Việt Nam. - Mối tƣơng quan giữa hàm lƣợng kim loại nặng trong nƣớc và trầm tích; trầm tích và trong Nhuyễn thể hai mảnh vỏ. 3. Ý nghĩa của đề tài 3.1. Ý nghĩa khoa học Số liệu nghiên cứu của đề tài giúp làm căn cứ xây dựng phƣơng pháp chỉ thị sinh học để nhận biết dấu hiệu ô nhiễm môi trƣờng, là tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo trên diện rộng. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Cung cấp thông tin về tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong nƣớc, trầm tích và trong động vật nhuyễn thể 2 mảnh vỏ tại một số sông hồ của thành phố Hà Nội Kết quả nghiên cứu là cơ sở bƣớc đầu cho việc sử dụng loài trai, hến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 7 sông trong giám sát sinh học kim loại nặng. CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tổng quan về kim loại nặng 1.1.1. Định nghĩa và nguồn phát sinh kim loại nặng Kim loại nặng là những kim loại có tỷ trọng lớn hơn 5g/cm3, bao gồm một số kim loại nhƣ: As, Hg, Cu, Cr, Cd, Co, Pb, Zn, Sb, Mn…Những kim loại nặng nguy hiểm nhất về phƣơng diện gây ô nhiễm môi trƣờng nƣớc là Zn, Cu, Pb, Cd, Hg, Ni, As và Cr. Trong số những kim loại này có Cu, Ni, Cr và Zn là những nguyên tố vi lƣợng cần thiết cho sinh vật thủy sinh, chúng chỉ gây độc ở nồng độ cao [11], [12]. Nguồn phát sinh kim loại nặng: Kim loại nặng hiện diện trong tự nhiên đều có trong đất và nƣớc, hàm lƣợng của chúng thƣờng tăng cao do tác động của con ngƣời. Các kim loại do hoạt động của con ngƣời nhƣ As, Cd, Cu, Ni và Zn thải ra ƣớc tính là nhiều hơn so với nguồn kim loại có trong tự nhiên, đặc biệt đối với chì 17 lần (Kabata-Pendias & Adriano, 1995) [30]. Nguồn kim loại nặng đi vào đất và nƣớc do tác động của con ngƣời bằng các con đƣờng chủ yếu nhƣ bón phân, bã bùn cống và thuốc bảo vệ thực vật và các con đƣờng phụ nhƣ khai khoáng và kỹ nghệ hay lắng đọng từ không khí (Lê Văn Khoa, 1995) [8]. - Nguồn tự nhiên: Kim loại nặng phát hiện ở mọi nơi, trong đá, đất và xâm nhập vào thủy vực qua các quá trình tự nhiên, phong hóa, xói mòn, rửa trôi. - Nguồn nhân tạo: Sự gia tăng tích lũy kim loại trong môi trƣờng không chỉ từ các nguồn tự nhiên, mà còn từ hoạt động công nghiệp của con ngƣời. Việc đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch làm giải phóng khoảng 20 loại kim loại độc hại quan trọng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 8 vào môi trƣờng bao gồm asen, beri, cadimi, chì, và niken (Goyer, 1996) [29]. Các sản phẩm công nghiệp và việc sử dụng các vật liệu công nghiệp có thể chứa hàm lƣợng cao các nguyên tố kim loại độc hại. Ví dụ, thủy ngân đƣợc sử dụng để sản xuất clo và soda trong công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, công nghiệp sản xuất pin, bóng đèn huỳnh quang, công tắc điện, sơn và các sản phẩm nông nghiệp, thuốc chữa răng, và dƣợc phẩm. (Mailman, 1994) [34] Các kim loại nặng có trong các sản phẩm phân bón bao gồm cadimi, crom, đồng, mangan, molipden, niken và kẽm. Các nguồn chính của asen trong môi trƣờng là từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các sản phẩm bảo vệ thực vật khác. Chì và asen bên cạnh việc sử dụng trong công nghiệp nó còn đƣợc sử dụng trong thuốc trừ sâu. Thuốc diệt nấm có chứa thủy ngân cũng góp phần làm ô nhiễm môi trƣờng. Cuối cùng, rất nhiều các kim loại này tích lũy trong đất nông nghiệp dẫn đến tạo ra sự nguy hiểm đối với thực vật và động vật... [1], [2]. 1.1.2. Độc tính của kim loại nặng Kim loại nặng không bị phân hủy sinh học [33], không độc khi ở dạng nguyên tố tự do nhƣng nguy hiểm đối với sinh vật sống khi ở dạng cation do khả năng gắn kết với các chuỗi cacbon ngắn dẫn đến sự tích tụ trong cơ thể sinh vật sau nhiều năm (Shahidul Islam Md, 2004)[35]. Đối với con ngƣời, có khoảng 12 nguyên tố kim loại nặng gây độc nhƣ chì, thủy ngân, nhôm, arsenic, cadmium, nickel… Một số kim loại nặng đƣợc tìm thấy trong cơ thể và thiết yếu cho sức khỏe con ngƣời, chẳng hạn nhƣ sắt, kẽm, coban, mangan, molipden và đồng mặc dù với lƣợng rất ít nhƣng nó hiện diện trong quá trình chuyển hóa. Tuy nhiên, ở mức thừa của các nguyên tố thiết yếu có thể nguy hại đến đời sống của sinh vật. Các nguyên tố kim loại còn lại là các nguyên tố không thiết yếu và có thể gây độc tính cao khi hiện diện trong cơ thể, tuy nhiên tính độc chỉ thể hiện khi chúng đi vào chuỗi thức ăn. Các nguyên tố này bao gồm thủy ngân, nickel, chì, asen, cadimi, nhôm, platin và đồng ở dạng ion kim loại. Chúng đi vào cơ thể qua các con đƣờng hấp thụ của cơ thể nhƣ hô hấp, tiêu hóa và qua da. Nếu kim loại nặng đi vào cơ thể và tích lũy bên trong tế bào lớn hơn sự phân giải chúng thì chúng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 9 sẽ tăng dần và sự ngộ độc sẽ xuất hiện (Foulkes, 2000). Do vậy ngƣời ta bị ngộ độc không những với hàm lƣợng cao của kim loại nặng mà cả khi với hàm lƣợng thấp và thời gian kéo dài sẽ đạt đến hàm lƣợng gây độc. Tính độc hại của các kim loại nặng đƣợc thể hiện nhƣ sau [27]:  Một số kim loại nặng có thể bị chuyển từ độc thấp sang dạng độc cao hơn trong một vài điều kiện môi trƣờng, ví dụ thủy ngân.  Sự tích tụ và khuếch đại sinh học của các kim loại này qua chuổi thức ăn có thể làm tổn hại các hoạt động sinh lý bình thƣờng và sau cùng gây nguy hiểm cho sức khỏe của con ngƣời.  Tính độc của các nguyên tố này có thể ở một nồng độ rất thấp khoảng 0.1-10 mg/L Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ trích giới thiệu độc tính của một số kim loại thuộc chƣơng trình nghiên cứu đánh giá môi trƣờng của EU (2001) cũng nhƣ của nhiều quốc gia khác trên thế giới. - Độc tính của Mangan (Mn): Mn là kim loại có trong tự nhiên, mọi ngƣời đều bị nhiễm hàm lƣợng nhỏ Mn có trong không khí, thức ăn, nƣớc uống. Mn là kim loại vết cần thiết cho sức khỏe con ngƣời. Mn có thể tìm thấy trong một số loại thức ăn, ngũ cốc, trong một số loài thực vật nhƣ cây chè. Ngƣời bị nhiễm Mn trong một thời gian dài thƣờng mắc các bệnh thần kinh, rối loạn vận động, nhiễm độc mức hàm lƣợng cao kim loại này sẽ gây các bệnh về hô hấp. - Độc tính của Đồng (Cu): Đồng đƣợc dùng nhiều trong sơn chống thấm nƣớc trên tàu thuyền, các thiết bị điện tử, ống nƣớc. Nƣớc thải sinh hoạt là nguồn chính đƣa Cu vào nƣớc. Cu tồn tại ở hai dạng là: dạng hòa tan và các hạt nhỏ (Phạm Luận, 2004)[9]. Đồng cần thiết cho chức năng hô hấp của nhiều sinh vật sống và các chức năng enzym khác. Cu đƣợc lƣu giữ trong gan tủy sống của ngƣời. Cu với hàm lƣợng quá cao sẽ gây hƣ hại gan, thận, hạ huyết áp, hôn mê, đau dạ dày, thậm chí tử vong. Trai, ốc thƣờng tích tụ lƣợng lớn Đồng trong cơ thể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 10 của chúng. - Độc tính của Kẽm (Zn) Kẽm là nguyên tố cần thiết cho tất cả cơ thể sống, với con ngƣời hàng ngày cần 9 mg Zn cho các chức năng thông thƣờng của cơ thể. Nếu thiếu Zn sẽ dẫn đến suy giảm khứu giác, vị giác và suy giảm chức năng miễn dịch của cơ thể. Nguồn ô nhiễm kẽm chính là công nghiệp luyện kim, công nghiệp pin, các nhà máy rác, các sản phẩm chống ăn mòn, sơn, nhựa, cao su. Cơ thể con ngƣời có thể tích tụ Zn và nếu Zn tích tụ với hàm lƣợng quá cao thì chỉ trong thời gian ngắn sẽ gây bệnh nôn mửa, đau dạ dày. Nƣớc chứa hàm lƣợng Zn cao rất độc đối sinh vật. Trai, ốc cũng tích tụ một lƣợng lớn Zn trong cơ thể chúng. - Độc tính của Asen (As) Asen sinh ra từ các dây chuyền sản xuất hóa phẩm, nhà máy nhiệt điện dùng than, có trong chất làm rụng lá, thuốc sát trùng, một số loại thủy tinh, chất bảo quản gỗ và thuốc bảo vệ thực vật. Sự tích tụ cũng nhƣ tác động của As đến cơ thể sống phụ thuộc vào dạng tồn tại của nó. Trong khi các hợp chất As vô cơ rất độc cho hầu hết cơ thể sống thì các hợp chất hữu cơ của nó chỉ gây độc nhẹ. Asen có thể gây nôn mửa, phá hủy các phân tử ADN và gây ung thƣ. FAO/ WHO đã đƣa ra giới hạn chấp nhận đƣợc của hàm lƣợng As vô cơ hấp thu hàng tuần là 15µg/kg trọng lƣợng cơ thể. Asen đƣợc quy định là chất độc hại bảng A, tổ chức nghiên cứu ung thƣ thế giới IARC đã xếp Asen vào nhóm các chất gây ung thƣ cho con ngƣời. Nhiễm độc Asen gây ung thƣ da, làm tổn thƣơng gan, gây bệnh dạ dầy, bệnh ngoài da, bệnh tim mạch…. Asen xâm nhập vào cơ thể qua 2 con đƣờng: Đường tiêu hóa: Nhận đƣợc chủ yếu thông qua thực phẩm mà nhiều nhất là trong đồ ăn biển đặc biệt là động vật nhuyễn thể. Hoặc do tiếp xúc với thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất, thuốc, nƣớc uống có hàm lƣợng As cao… Đường hô hấp: As lắng đọng trong không khí gây tác hại trực tiếp cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 11 con ngƣời qua đƣờng hô hấp. Ngoài ra, Asen còn xâm nhập vào cơ thể ngƣời qua tiếp xúc với da. Asen ở các trạng thái tồn tại khác nhau thì cũng khác nhau về độc tính đối với sức khỏe con ngƣời. Hàm lƣợng Asen 0.01 mg/kg có thể gây chết ngƣời. Các hợp chất As(III) có độc tính mạnh nhất (thƣờng gọi là thạch tín). Khi xâm nhập vào cơ thể As(III) sẽ kết hợp với các nhóm - SH của Enzim trong ngƣời làm mất hoạt tính của chúng (Phạm Kim Phƣơng và cộng sự, 2008) [15]. - Độc tính của Cadimi (Cd) Nguồn ô nhiễm Cd xuất phát từ ô nhiễm không khí, khai thác mỏ, pin Ni- Cd, nhà máy luyện kim [15]. Nguồn chính thải Cd vào nƣớc là các điện cực dùng trên tàu thuyền. Cd tồn tại chủ yếu dƣới dạng hòa tan trong nƣớc. Cadmi là nguyên tố rất độc. Giới hạn tối đa cho phép của cadmi (Carles Sanchiz và cs, 2000) [29]. + Trong nước : 0,01 mg/l (hay 10ppb), + Trong không khí : 0,001 mg/m3, + Trong thực phẩm : 0,001- 0,5 mg/kg. Trong tự nhiên cadmi thƣờng đƣợc tìm thấy trong các khoáng vật có chứa kẽm. Nhiễm độc cadmi gây nên chứng bệnh giòn xƣơng. Ở nồng độ cao, cadmi gây đau thận, thiếu máu và phá huỷ tuỷ xƣơng. Phần lớn cadimi thâm nhập vào cơ thể con ngƣời đƣợc giữ lại ở thận (khoảng 1%), phần còn lại đƣợc đào thải, do cadmi liên kết với protein tạo thành metallotionein có ở thận. Phần còn lại đƣợc giữ lại trong cơ thể và dần dần đƣợc tích luỹ cùng với tuổi tác. Khi lƣợng cadmi đƣợc tích trữ lớn, nó có thể thế chỗ ion Zn2+ trong các enzim quan trọng và gây ra rối loạn tiêu ho á và các chứng bệnh rối loạn chức năng thận, thiếu máu, tăng huyết áp, phá huỷ tuỷ sống, gây ung thƣ [37]. Nhiễm độc cấp tính Cd có các triệu chứng giống nhƣ cúm, sốt, đau đầu, đau khắp mình mẩy. Nhiễm độc mãn tính Cd gây ung thƣ (phổi, tuyến tiền liệt). EU đã đƣa ra giới hạn trên của Cd là 1,0 mg/ kg trọng lƣợng tƣơi trai, ốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 12 loại dùng làm thực phẩm cho ngƣời [37]. - Độc tính của Chì (Pb) Pb có trong vũ khí đạn dƣợc, gốm sứ, xăng dầu, thủy tinh chì. Chì cũng đƣợc dùng nhiều trong vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí, pin. Pb tác động đến hệ thần kinh, làm giảm sự phát triển não của trẻ nhỏ, gây rối loạn nhân cách ở ngƣời lớn, giảm chỉ số thông minh (IQ). Nó gây áp huyết cao, bệnh tim, gan và bệnh thận mãn tính.Trai, ốc hấp thụ Pb từ nƣớc, thức ăn phản ánh mức độ ô nhiễm môi trƣờng EU đã đƣa ra giới hạn trên cho hàm lƣợng Pb trong trai, ốc là 1,5 mg/kg trọng lƣợng tƣơi (loại dùng làm thực phẩm cho ngƣời) [1], [2]. Trong sản xuất công nghiệp thì Pb có vai trò quan trọng, nhƣng đối với cơ thể thì chƣa chứng minh đƣợc Pb có vai trò tích cực gì. Song độc tính của Pb và các hợp chất của nó đối với cơ thể ngƣời và động vật thì quá rõ. Không khí, nƣớc và thực phẩm bị ô nhiễm Pb đều rất nguy hiểm cho mọi ngƣời, nhất là trẻ em đang phát triển và động vật. Chì có tác dụng âm tính lên sự phát triển của bộ não trẻ em, Pb ức chế mọi hoạt động của các enzym, không chỉ ở não mà còn ở các bộ phận tạo máu, nó là tác nhân phá hủy hồng cầu. Khi hàm lƣợng Pb trong máu khoảng 0,3 ppm thì nó ngăn cản quá trình sử dụng oxi để oxi hóa glucoza tạo ra năng lƣợng cho quá trình sống, do đó làm cho cơ thể mệt mỏi. Ở nồng độ cao hơn (>0,8 ppm) có thể gây nên thiếu máu do thiếu hemoglobin. Hàm lƣợng chì trong máu nằm trong khoảng (>0,50,8 ppm) gây ra sự rối loạn chức năng của thận và phá hủy não. Xƣơng là nơi tàng trữ, tích tụ chì trong cơ thể, ở đó chì tƣơng tác với photphat trong xƣơng rồi truyền vào các mô mềm của cơ thể và thể hiện độc tính của nó [37]. Vì thế tốt nhất là tránh những nơi có Pb ở bất kì dạng nào, đồng thời trong dinh dƣỡng chú ý dùng loại thực phẩm có hàm lƣợng Pb dƣới quy định cho phép và có đủ Ca và Mg để hạn chế tác động của Pb. Vì dù chúng ta không muốn thì cũng luôn có một lƣợng Pb rất nhỏ nhất định vẫn thâm nhập vào cơ thể của chúng ta qua đƣờng ăn uống và hít thở. Vì thế nên uống sữa, ăn nhiều rau xanh, các loại thực phẩm và đồ uống giàu vitamin B1 và vitamin Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 13 C thì có lợi cho việc chống lại và hạn chế ảnh hƣởng của Pb đối với cơ thể. 1.2. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trên thế giới và Việt Nam 1.2.1. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trên thế giới Các khu vực khai thác mỏ, khoáng sản, các khu công nghiệp và các thành phố lớn là những nguồn phát thải ra một lƣợng lớn KLN, chúng có khả năng tồn tại trong môi trƣờng, vấn đề không đáng lo ngại nhiều nếu chúng không xâm nhập đƣợc vào cơ thể sinh vật và hệ sinh thái. Điều đáng quan tâm là KLN có tính bền vững khó phân hủy, có khả năng xâm nhập và tích lũy đến mức độ gây độc cho con ngƣời, sinh vật và hệ sinh thái. Từ mức độ nhiễm chì trong đất trồng đến các độc tố trong nƣớc và không khí bị nhiễm phóng xạ, Học viện Blacksmith đã đƣa ra các khu vực "thảm họa sinh thái học’’ của thế giới. Năm 2000, vụ tai nạn hầm mỏ xảy ra tai công ty Aurul (Rumani) đã thải ra 50-100 tấn xianua và kim loại nặng (nhƣ đồng) vào dòng sông gần Baia Mare(thuộc vùng Đông- Bắc). Sự nhiễm độc này đã khiến các loài thuỷ sản ở đây chết hàng loạt, tổn hại đến hệ thực vật và làm bẩn nguồn nƣớc sạch, ảnh hƣởng đến cuộc sống của 2,5 triệu ngƣời. Ở các khu vực luyện kim, vùng khai thác Pb thì hàm lƣợng Pb trong đất khoảng 1500 µg/g, cao gấp 15 lần so với mức độ bình thƣờng nhƣ khu vực xung quanh nhà máy luyện kim ở Galena, Kansas (Mỹ), hàm lƣợng chì trong đất 7600 µg/g. Hàm lƣợng Pb trong bùn cống, rãnh ở một số thành phố công nghiệp tại Anh dao động từ 120 µg/g - 3000 µg/g (Berrow và Webber, 1993), trong khi tiêu chuẩn cho phép tại đây là không quá 1000 µg/g. Tại La Oroya – một thành phố khai mỏ của Peru gần nhƣ 100% trẻ em ở đây có hàm lƣợng chì trong máu vƣợt mức cho phép của tất cả các loại tiêu chuẩn trên thế giới. Còn ở Kabwe (Zambia) các mỏ khai thác và lò nấu chì đã ngừng hoạt động từ lâu, nhƣng nồng độ chì ở đây vẫn ở mức khủng khiếp. Tính trung bình thì trẻ em ở Kabwe có nồng độ chì cao gấp 10 lần mức cho phép của Cơ quan bảo vệ môi trƣờng Mỹ và có thể gây tử vong. Khi các chuyên gia của Mỹ lấy mẫu máu của trẻ em tại Kabwe để phân tích, các thiết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 14 bị của họ trục trặc liên tục vì mọi chỉ số đều vƣợt ngƣỡng tối đa. Tại Norilsk (Nga) các cơ sở khai thác và chế biến kim loại đã thải ra môi trƣờng một lƣợng lớn các KLN vƣợt giới hạn cho phép, khu vực này là nơi có các tổ hợp luyện kim lớn nhất thế giới với hơn 4 triệu tấn Cd, Cu, Pb, Ni, As, Se và Sn đƣợc khai thác mỗi năm. Thiên Anh (Trung Quốc) là một thành phố công nghiệp, Thiên Anh chiếm khoảng hơn một nửa sản lƣợng chì của Trung Quốc. Thứ kim loại độc hại này ngấm vào nƣớc và đất trồng của Thiên Anh và ngấm vào máu trẻ em sinh ra tại đây. Đó có thể là nguyên nhân dẫn tới việc các em nhỏ ở Thiên Anh có chỉ số IQ thấp. Qua kiểm tra, lúa mỳ trồng ở Thiên Anh chứa lƣợng chì cao gấp 24 lần chuẩn của Trung Quốc. Kabwe, Zambia khi các mỏ chì lớn đƣợc phát hiện gần Kabwe năm 1902, Zambia là một thuộc địa của Anh, và có rất ít quan tâm tới ảnh hƣởng của kim loại độc hại với ngƣời dân nơi đây. Đáng buồn thay, tình trạng này tới nay hầu nhƣ không đƣợc cải thiện. Và cho dù công việc khai thác, chế biến chì không còn hoạt động nhƣng mức ô nhiễm chì ở Kabwe là rất lớn. Tính trung bình, mức nhiễm chì ở trẻ em cao hơn chuẩn cho phép của Cơ quan Bảo vệ môi trƣờng Mỹ từ 5-10 lần, và có thể thậm chí còn cao hơn mức gây tử vong. Song cũng có một tia hy vọng khi Ngân hàng Thế giới gần đây đã thông báo một dự án làm sạch môi trƣờng trị giá 40 triệu USD cho thành phố. Và ở Châu Á là một trong những nơi có tình trạng ô nhiễm KLN cao trên trên thế giới, trong đó đặt biệt là Trung Quốc với hơn 10% đất bị ô nhiễm Pb, tại Thái Lan theo Viện Quốc Tế quản lý nƣớc thì 154 ruộng lúa thuộc tỉnh Tak đã nhiễm Pb cao gấp 94 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Tuy vậy tại các nƣớc phát triển vẩn phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm mà các ngành công nghiệp khác gây ra (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2009)[7], (Munir Ziya Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 15 Lugal Goksu và cộng sự, 2003) [32]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 16 1.2.2. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng ở Việt Nam Ở nƣớc ta trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của công nghiệp và đô thị đã làm gia tăng KLN vào môi trƣờng nƣớc. Theo kết quả quan trắc và phân tích môi trƣờng, ở các vùng ven biển gần các thị trấn và trung tâm công nghiệp hàm lƣợng các KLN nhƣ Cu, Pb, Cd, Co lớn hơn nhiều so với mức tự nhiên của chúng có trong môi trƣờng. Các điều tra sơ bộ ở một số địa phƣơng cho thấy, hàm lƣợng Asen trong nƣớc ngầm ở nhiều nơi vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép đối với nƣớc ăn uống và sinh hoạt. Hàm lƣợng Asen ở một số điểm cao hơn gấp nhiều lần mức cho phép nhƣ Quỳnh Lôi (Hà Nội) gấp 30 lần, Lâm Thao (Phú Thọ) gấp 50 – 60 lần, Lý Nhân (Bình Lục, Hà Nam) gấp 50 lần. Riêng tại Hà Nội, 69% mẫu nƣớc tầng trên và 48% mẫu nƣớc tầng dƣới đƣợc kiểm nghiệm có nồng độ Asen cao hơn tiêu chuẩn. Tỷ lệ Asen trong nƣớc sông Hồng và các hồ khu khu vực ngoại thành cũng không đủ tiêu chuẩn làm nƣớc ăn uống và sinh hoạt (Hoàng Thanh Hải, 2013) [3]. Do phát triển các hoạt động công nghiệp, khai thác khoáng sản, sản xuất nông nghiệp và phát triển đô thị dẫn đến một số lƣu vực sông đã có dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng khá nghiêm trọng, nhƣ trên sông Nhuệ - Đáy một số cơ sở sản xuất cơ khí đã thải ra môi trƣờng với hàm lƣợng KLN vƣợt TCCP rất nhiều lần: Cr (IV) 420 lần, Cr (III) 18 – 100 lần, Pb 6 – 24 lần, Zn 6 – 32 lần gây ảnh hƣởng lớn đến hệ sinh thái, hoạt động sản xuất và sức khỏe ngƣời dân (Nguyễn Kim Thùy, 2011) [20]. Theo báo cáo của UBND thành phố Đà Nẵng cho biết hạ lƣu sông Cu Đê có những dấu hiệu ô nhiễm đáng lo ngại do tiếp nhận nguồn nƣớc thải của KCN Hòa Khánh và KCN Liên Chiểu với các thông số Cd vƣợt 1,4 - 1,6 lần, Cr (IV) vƣợt 3 lần, nồng độ Pb trong không khí vƣợt tiêu chuẩn đến 11 lần. Hậu quả làm cá chết hàng loạt trên sông, sản lƣợng nuôi tôm bị giảm sút, hơn 9 ha đất trồng lúa bị bỏ hoang, ảnh hƣởng lớn đến nguồn nƣớc và đời sống của ngƣời dân địa phƣơng (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2009) [5]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 17 Tình trạng ô nhiễm Pb cũng gia tăng nhanh chóng trong môi trƣờng, mức độ ô nhiễm Pb nghiêm trọng nhất vẫn là các thành phố lớn, các khu dân cƣ, khu công nghiệp. Kết quả phân tích cho thấy hàm lƣợng Pb ở Sông Thị Vải vƣợt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) tới 4 - 5 lần. 70 - 80%/năm. Lƣợng rác thải còn lại tồn đọng ở các nƣớc ao hồ, ngõ (Trần Thị Phƣơng, 2012) [13]. Tại Thành phố Đà Nẵng, với 6 khu công nghiệp và 300 doanh nghiệp đang hoạt động, có tốc độ phát triển công nghiệp nhanh nhƣng đi kèm với nó là dấu hiệu ô nhiễm môi trƣờng ngày một gia tăng. Khu vực hạ lƣu sông Cu Đê nơi nhận nguồn nƣớc thải của khu công nghiệp Hòa Khánh và KCN Liên Chiểu có hàm lƣợng KLN vƣợt từ 1 - 10 lần Tiêu chuẩn cho phép (Hoàng Thu Phƣơng, 2011) [6]. Các dẫn liệu trên cho thấy tình hình ô nhiễm kim loại nặng trên thế giới và Việt Nam đã và đang gây ảnh hƣởng rất lớn đến sức khỏe và chất lƣợng cuộc sống con ngƣời. Nghiên cứu công cụ nhằm nâng cao hiệu quả đánh giá ô nhiễm kim loại nặng là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn, nhằm quan trắc và kiểm soát các ảnh hƣởng của nó đến đời sống con ngƣời và môi trƣờng. 1.3. Tình hình nghiên cứu sự tích lũy kim loại nặng trong động vật hai mảnh vỏ trên thế giới và Việt Nam 1.3.1. Vài nét về loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ Bivalvia theo tiếng La-tinh có nghĩa là hai mảnh vỏ, một số tác giả sử dụng tên Pelecypoda theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là chân hình rìu. Đặc điểm nhận dạng là có hai mảnh vỏ và cơ thể dẹp bên. Bivalvia là lớp lớn thứ hai trong ngành Mollusca, với hơn 7.000 loài bao gồm Trai(clam), Điệp (scallop), Vẹm (mussel) và Hàu (oy ster). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 18 Động vật hai mảnh thƣờng đƣợc sử dụng để đánh giá ô nhiễm kim loại nặng vì chúng đã đƣợc định loại rõ ràng, dễ nhận dạng, có kích thƣớc vừa phải, số lƣợng nhiều, dễ tích tụ chất ô nhiễm, có đời sống tĩnh tại và có khả năng sống dài. Loài nhuyễn thể có hai vỏ cứng nhƣ trai, trùng trục…là các loài thích hợp dùng làm chỉ thị sinh học để phân tích xác định lƣợng vết các kim loại [5], [16], [28]. Chúng có khả năng tích tụ các kim loại vết nhƣ Cd, Hg, Pb …với hàm lƣợng lớn hơn so với khả năng đó ở cá và tảo [8], [29], [30]. Trai, ốc có thể tích tụ Cd trong mô của chúng ở mức hàm lƣợng cao hơn gấp 100.000 lần mức hàm lƣợng tìm thấy trong môi trƣờng xung quanh (Robert AHC và cộng sự, 1994) [34]. Chúng phân bố ở các khu vực địa lý rộng, thích ứng đƣợc với sự thay đổi nhiệt độ cũng nhƣ các điều kiện môi trƣờng khác. Chúng có đủ loại kích thƣớc, sống cố định và phù hợp với việc xử lý trong phòng thí nghiệm, cũng có thể nuôi cấy chúng ở các môi trƣờng khác nhau (Đặng Đình Bạch và cộng sự, 2006)[1]. Mặc dù các loài này đáp ứng đƣợc những tiêu chuẩn khắt khe ở trên nhƣng một số nhân tố sinh học, địa hóa cũng gây ra những biến động về mức ô nhiễm ở trai, hến. Các yếu tố kích thƣớc, lƣợng thịt, mùa sinh sản, nhiệt độ, pH của môi trƣờng là những yêu tố ảnh hƣởng tới sự tích tụ chất ô nhiễm trong cơ thể chúng. Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về hàm lƣợng kim loại nặng trong mô các loài thân mềm có vỏ cứng, các chƣơng trình kiểm tra, đánh giá môi trƣờng quốc tế đã thiết lập một số tiêu chuẩn lấy mẫu và xử lý mẫu để giảm thiểu sai số nhƣ: mùa lấy mẫu, lấy mẫu theo độ sâu, kích thƣớc của loài đƣợc lựa chọn làm chỉ thị sinh học (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2009) [5]. Theo một số tác giả thì loài nhuyễn thể có hai vỏ cứng nhƣ trai, trùng trục hay ốc là các loài thích hợp dùng làm chỉ thị sinh học đối với lƣợng vết các kim loại. Chúng có khả năng tích tụ các kim loại lƣợng vết nhƣ Pb, Cd, Hg… với hàm lƣợng lớn. Trai, ốc có thể tích tụ Cd trong mô của chúng ở mức hàm lƣợng cao hơn gấp 100.000 lần mức hàm lƣợng tìm thấy trong môi trƣờng xung quanh (Trần Thị Phƣơng, 2012) [13]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 19 Việc nghiên cứu sử dụng các sinh vật tích tụ để đánh giá ô nhiễm kim loại nặng ở trong nƣớc là vấn đề có tính thực tiễn cao nhằm xây dựng chỉ thị sinh học riêng phù hợp với điều kiện nƣớc ta, hạn chế những tác động xấu của kim loại nặng tới môi trƣờng và sức khỏe cộng đồng. Mặt khác, các loài động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ nhƣ trai, hến, trùng trục .. cũng là một trong những nguồn thực phẩm thiết yếu và đƣợc ƣu chuộng ở nƣớc ta. Tuy nhiên trong những năm gần đây một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loài động vật này có thể tích tụ một số chất ô nhiễm đặc biệt là các kim loại nặng trong cơ thể chúng với hàm lƣợng cao hơn nhiều lần so với hàm lƣợng ở bên ngoài (Trần Thị Phƣơng, 2012) [13]. 1.3.2. Tình hình nghiên cứu sự tích lũy kim loại nặng trong động vật hai mảnh vỏ trên thế giới Loài hai mảnh vỏ là một thành phần quan trọng của hệ sinh vật đáy có đời sống tĩnh, phân bố rộng, kích thƣớc tƣơng đối lớn, việc lấy mẫu dễ dàng. Các KLN tích lũy trong bộ phận cơ thể đƣợc hấp thụ từ bùn đáy, nƣớc và thức ăn, nên chúng có thể phản ánh đƣợc mức độ và sự tác động của ô nhiễm kim loại nặng đến môi trƣờng và hệ sinh thái. Từ những năm 40 của thế kỷ XX, đã có những nghiên cứu về sự tích lũy của KLN trong mô của các loài động vật thân mềm. Sự tập trung cao của hàm lƣợng dạng vết của các KLN đƣợc tìm thấy trong một vài loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Nghiên cứu của Goldberg (1975) và Phillips (1976), loài Mytilus galloprovincialis đƣợc sử dụng rộng rãi nhƣ sinh vật chỉ thị ô nhiễm ở các khu vực ven biển dựa trên khả năng tích lũy các kim loại Hg, Cd, Pb, Zn, Cu, Ni, Mn, Cr. Nghiên cứu của Aysun Turkmen và cộng sự ở Vịnh Iskenderun, Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy có sự tích lũy khá cao các kim loại nhƣ Zn, Ni, Cd, Fe, Cu, Cd, Mn, Cr, Co ở hai loài Chama pacifica và Ostrea stentina. Nghiên cứu của el - Sikaily A và cộng sự ở một số vùng duyên hải Địa Trung Hải và duyên hải biển Đỏ thuộc Ai Cập, cho thấy rằng Cd, Co, Cu, Fe, Mn, Ni, Pb và Zn đƣợc tích lũy khá cao trong Modiolus auriculatus và Donax trunculu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 20 Theo nghiên cứu của L.Rojas de Astudillo và cs. (2005) ở vùng biển của Trinidad và Venezuela nghiên cứu về sự tích lũy KLN trong 2 loài Crassostrea spp và Perna viridis cho thấy có sự tích lũy các kim loại Cd, Cu, Cr, Hg, Ni, Zn trong mô cơ thể chúng. Một số nghiên cứu khác ở Canada, Brazil, Ghana, Thái Lan, Malaysia, Philipin... cho thấy khả năng tích lũy KLN ở các loài nhuyễn thể khá cao (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2009) [7]. Theo Munir Zuya Lugal (2005) sử dụng những sinh vật tích tụ cụ thể là các loài 2 mảnh vỏ làm sinh vật chỉ thị quan trắc là rất hiệu quả. Vì chúng có khả năng tích lũy KLN trong mô cao hơn gấp nhiều lần so với môi trƣờng mà chúng sinh sống. Ví dụ: Sò, hến có khả năng tích lũy Cd trong mô cao gấp 100.000 lần trong môi trƣờng chúng sinh sống. Tính độc hại của nó còn tồn tại lâu dài qua chuỗi thức ăn, là sự đe dọa đến hệ sinh thái và sức khỏe con ngƣời. Quá trình và mức độ tích lũy KLN trong mô của các loài nhuyễn thể phụ thuộc vào đặc điểm dinh thái riêng của từng loài, cơ chế lấy thức ăn, dạng tồn tại của kim loại, kích thƣớc của loài nhuyễn thể (Munir Ziya Lugal Goksu và cộng sự, 2003) [32]. Động vật hai mảnh vỏ thƣờng đƣợc sử dụng để đánh giá ô nhiễm kim loại nặng vì chúng có nhiều ƣu điểm nhƣ phân bố rộng, số lƣợng nhiều, dễ định dạng, tích tụ cao các chất ô nhiễm, có đời sống tĩnh tại nên dễ thu mẫu. Những loài động vật hai mảnh vỏ đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều chƣơng trình quan trắc ô nhiễm trên thế giới (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2009) [7]. 1.3.3. Tình hình nghiên cứu sự tích lũy kim loại nặng trong động vật hai mảnh vỏ ở Việt Nam Vấn đề nghiên cứu về sinh vật tích tụ còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của Đào Việt Hà (2002), hàm lƣợng KLN trong Vẹm xanh (Perna viridis) tại Đầm Nha Phu (Khánh Hòa) là: từ 0,003 - 0,21 ug/g (tính theo khối lƣợng tƣơi) đối với Cd; từ 0,14 - 1,114 ug/g đối với Pb; và từ 0,54 - 1,81 ug/g đối với Cu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan