Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá hiệu quả chương trình đào tạo cử nhân ngành y sinh học tdtt trường đại ...

Tài liệu đánh giá hiệu quả chương trình đào tạo cử nhân ngành y sinh học tdtt trường đại học tdtt bắc ninh

.PDF
183
524
139

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT BẮC NINH TRƯƠNG ĐỨC THĂNG NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN NGÀNH Y SINH HỌC TDTT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC BẮC NINH - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT BẮC NINH ----------------------- TRƯƠNG ĐỨC THĂNG NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN NGÀNH Y SINH HỌC TDTT Chuyên ngành: Giáo dục thể chất Mã số: 62140103 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS Vũ Chung Thủy 2. PGS.TS Đồng Văn Triệu BẮC NINH – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả luận án Trương Đức Thăng DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT AUN Asian University AUN-QA Asian University – Quality Assurance CNH Công nghiệp hóa CP Chính phủ CTĐT Chương trình đào tạo ĐVHT Đơn vị học trình GDTC Giáo dục thể chất GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo HĐH Hiện đại hóa NQ Nghị quyết PGS.TS Phó giáo sư, tiến sĩ PTCT Phát triển chương trình QĐ Quyết định TDTT Thể dục thể thao tc Tiêu chí TC Tiêu chuẩn TW Trung ương TT Thông tư TTg Thủ tướng VĐV Vận động viên DANH MỤC CÁC ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG cm Centimét g gam kg Kilôgam m Mét s Giây p Phút 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Thể Dục Thể Thao (TDTT) được xác định là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy việc đưa nền TDTT nước nhà phát triển là nhằm mục đích tạo ra những tiền đề cần thiết cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngày nay, nhiệm vụ đào tạo đội ngũ VĐV (VĐV) có thành tích xuất sắc ngang tầm khu vực, châu lục và trên thế giới là một việc cấp thiết, đòi hỏi phải tổ chức qui trình đào tạo dài hạn, có định hướng, có hình thức tổ chức, có phư ơng tiện và phương pháp huấn luyện hiệu quả, trong đó cần đặc biệt quan tâm tới việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thật công nghệ, y học TDTT ... vào trong quá trình huấn luyện thể thao hiện đại. Trong công cuộc đổi mới đất nước, công tác giáo dục và đào tạo bậc đại học của nước ta đang từng bước đi vào chuẩn hoá nội dung đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ theo hướng toàn diện, có chuyên môn sâu, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn đặt ra trong xã hội hiện đại. Vì vậy đổi mới công tác đào tạo cũng chính là nhiệm vụ và yêu cầu bức thiết của công tác giáo dục trong các trường Đại học nói chung, và các trong các trường Đại học TDTT nói riêng. Cùng với sự phát triển của nền TDTT nước nhà, những năm qua trường Đại học TDTT Bắc Ninh không ngừng phát triển và trưởng thành. Từ khi được thành lập cho đến nay công tác đào tạo của nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của các cấp ủ y Đảng và chính quyền, không ngừng mở rộng về qui mô và nâng cao chất lượng đào tạo để xứng đáng là ngôi trường số một của cả nước về đào tạo các chuyên ngành TDTT. Thực hiện chương trình cải cách giáo dục đại học của Chính phủ, đồng thời để tiến kịp trình độ đào tạo cán bộ TDTT của các trường Đại học TDTT trong khu vực và trên thế giới, hiện nay trường Đại học TDTT Bắc Ninh đang tiến hành mở rộng quy mô đào tạo theo hướng đa ngành, đa hệ và đổi mới chương trình đào tạo (CTĐT) định hướng khoa học, dân tộc và 2 hiện đại, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Một trong những kết quả thu được từ công cuộc cải cách và đổi mới đào tạo đó là xây dựng chương trình và tiến hành tổ chức đào tạo hệ Cử nhân TDTT theo 4 ngành (từ năm học 2007 - 2008): Sư phạm TDTT, Huấn luyện thể thao, Y sinh học TDTT và Quản lý TDTT. Để thực hiện tốt mục tiêu đào tạo theo các ngành đào tạo đã được triển khai thì việc xây dựng các mô hình tổ chức đào tạo, nội dung đào tạo và các chỉ tiêu kiểm tra đánh giá năng lực của cử nhân TDTT từng ngành theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc xác định mô hình tổ chức đào tạo, xây dựng nội dung đào tạo và các chỉ tiêu kiểm tra đánh giá năng lực của cử nhân TDTT từng ngành đào tạo trong trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã được các nhà giáo dục, các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu và đưa vào CTĐT cử nhân TDTT thuộc 3 ngành: Sư phạm thể thao, Huấn luyện thể thao và Quản lý TDTT. Kết quả này đã được các nhà chuyên môn đánh giá rất cao và đang được ứng dụng rộng rãi tại các cơ sở đào tạo cử nhân TDTT trong phạm vi cả nước. Đối với công tác đào tạo cử nhân ngành Y sinh học TDTT, năm học 2007 - 2008, Trường Đại học TDTT Bắc Ninh chính thức chiêu sinh khoá đầu tiên đào tạo ngành Y sinh học TDTT theo Quyết định số 462b/QĐ-ĐHI-ĐT của Hiệu trưởng Trường Đại học TDTT 1. Tuy nhiên, trước đó nhà trường đã đào tạo được ba lớp chuyên sâu Y học thuộc các khóa 12,13,14 và mở nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức về Y sinh học TDTT cho cán bộ TDTT, cũng như đào tạo ngành Y sinh học TDTT cho bậc đào tạo sau đại học. Kết quả đào tạo đã đạt được một số thành công nhất định, các sinh viên ra trường đã tích cực tham gia vào các hoạt động trong lĩnh vực TDTT, bước đầu đã có những đóng góp cho sự nghiệp phát triển TDTT nước nhà. Tuy nhiên do ngành đào tạo còn khá mới, vì vậy mà nội dung đào tạo, kế hoạch đào tạo, cũng như hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá năng lực chuyên môn của cử nhân y học TDTT tất yếu còn rất nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, được sự chỉ đạo và quan tâm của Đảng và Nhà nước, TDTT Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ về 3 quy mô và chất lượng. Trong thực tiễn công tác huấn luyện, đào tạo và tuyển chọn VĐV, công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học đã áp dụng nhiều phương pháp, phương tiện huấn luyện, các thiết bị nghiên cứu hiện đại. Trong đó các huấn luyện viên và các nhà chuyên môn, các nhà khoa học đã và đang nỗ lực tiếp cận, ứng dụng kiến thức và các phương tiện nghiên cứu y sinh học vào trong thực tiễn của mọi lĩnh vực hoạt động thể thao. Thực tiễn này đã cho thấy nhu cầu cần thiết của việc đào tạo cử nhân ngành y sinh học TDTT góp phần đáp ứng một phần nhu cầu của thực tiễn công tác TDTT ở nước ta trong giai đoạn mới. Xuất phát từ chính sự bất cập giữa nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn công tác TDTT với năng lực đào tạo còn hạn chế do thiếu kinh nghiệm đào tạo, CTĐT mang tính chủ quan, chưa bám sát nhu cầu thực tiễn của xã hội trong tiến trình xây dựng mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp và kế hoạch giảng dạy, đặc biệt là chưa xác định được đầy đủ các chỉ tiêu, cũng như chưa xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả CTĐT và trình độ năng lực chuyên môn của cử nhân Y sinh học TDTT đã cho thấy vấn đề kiểm chứng hiệu quả đào tạo và phát triển CTĐT có hiệu quả đã trở nên cấp thiết. Vấn đề xây dựng và đổi mới CTĐT trong các lĩnh vực khác nhau của thực tiễn công tác TDTT đã có một số công trình nghiên cứu, tiêu biểu như tác giả Phạm Đình Bẩm (2003), “ Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp giảng dạy đại học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường đại học TDTTI”[1]; Nguyễn Cẩm Ninh (2011), “Nghiên cứu xây dựng nội dung giảng dạy cho cử nhân quản lý TDTT”[38]; Nguyễn Thị Toàn (2010), “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất định hướng đổi mới CTĐT bậc đại học cho học viên hệ vừa làm vừa học chuyên ngành sư phạm TDTT trường Đại học Sư phạm Hà Nội”[46]; Trần Vũ Phương (2015) “Ứng dụng chương trình đổi mới đào tạo chuyên ngành Giáo dục thể chất trình độ cao đẳng ở trường Cao đẳng Tuyên Quang”[39]. …Các đề tài đã đánh giá được thực trạng công tác đào tạo của các cơ sở đào tạo, đồng thời đề xuất các giải pháp đổi mới góp phần nâng cao hiệu quả công tác đào tạo trong thời gian qua. Tuy nhiên 4 việc khảo sát và đánh giá hiệu quả công tác đào tạo ngành Y sinh học TDTT non trẻ vẫn chưa có tác giả nào đề cập tới. Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN NGÀNH Y SINH HỌC TDTTT” 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở kết quả xác định khung các kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần trang bị cho cử nhân Y sinh học TDTT, kết quả đánh giá thực trạng hiệu quả CTĐT và mức độ đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cử nhân y sinh học TDTT, đề tài tiến hành lựa chọn và xây dựng các nội dung hoàn thiện CTĐT theo hướng đáp ứng yêu cầu của xã hội về năng lực chuyên môn của cán bộ y sinh học TDTT trong giai đoạn mới. Đồng thời đề tài lựa chọn và xác định các tiêu chí và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá năng lực chuyên môn của cử nhân y sinh học TDTT nhằm tạo lập cơ sở đánh giá thống nhất về mặt bằng trình độ chung và chất lượng đào tạo cử nhân y sinh học TDTT được đào tạo tại các cơ sở đào tạo trong cả nước. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ: Nhiệm vụ 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn đánh giá hiệu quả CTĐT cử nhân ngành y sinh học TDTT. Nhiệm vụ 2. Đánh giá thực trạng hiệu quả CTĐT cử nhân y sinh học TDTT. Nhiệm vụ 3. Đề xuất nội dung đổi mới nâng cao hiệu quả CTĐT cử nhân y sinh học TDTT. 4. Ý nghĩa khoa học của đề tài Quá trình nghiên cứu luận án đã hệ thống hóa lý thuyết các mô hình phát triển chương trình, đánh giá hiệu quả chương trình, các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá trình độ chuyên môn của cử nhân Y sinh học TDTT, cũng như đổi mới được chương trình đào tạo cử nhân Y sinh học TDTT theo hướng tích cực hóa 5 và đáp ứng nhu cầu xã hội. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Luận án đã đánh giá được thực trạng hiệu quả CTĐT và thực trạng năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu công tác của cán bộ Y sinh học TDTT đã được trường Đại học TDTT Bắc Ninh đào tạo. Luận án đã nghiên cứu lựa chọn được các nội dung đổi mới CTĐT ngành Y sinh học TDTT tại trường Đại học TDTT Bắc Ninh: Nội dung 1: Đổi mới mục tiêu đào tạo Nội dung 2: Đổi mới về nội dung chương trình Nội dung 3: Đổi mới tổ chức đào tạo Nội dung 4: Đổi mới phương thức tuyển sinh Nội dung 5: Tăng cường liên kết đào tạo các lĩnh vực về chuyên ngành Y học TDTT Luận án đã xây dựng được chương trình đào tạo đổi mới ngành Y sinh học TDTT căn cứ vào các quy định của nhà nước và ý kiến của các chuyên gia, nhà tuyển dụng, người học, sinh viên đã ra trường. 6 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục đào tạo bậc đại học Giáo dục đại học hiện nay ở nước ta nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Để giáo dục đại học phát triển chính phủ đã chỉ đạo bằng văn bản để định hướng phát triển cụ thể: Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đại học; điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động và một bộ phận có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Đến năm 2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đủ khả năng tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học đạt khoảng 70%; tỷ lệ sinh viên tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân vào khoảng 350 – 400 [44]. Nghị quyết 29 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã đề ra định hướng dổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đối với đại học đã có định hướng cụ thể “Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”. [5] Đây là kim chỉ nam đối với đổi mới trong các trường đại học từ đó các trường có những hành động cụ thể đối với việc đổi mới để đáp ứng được đào tạo chất lượng nguồn nhân lực trong tình hình mới. 7 1.2. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển TDTT Đường lối, quan điểm của Đảng về công tác TDTT, được hình thành ngay từ những năm đầu của cách mạng nước ta, đã từng bước được bổ sung, hoàn chỉnh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng và luôn luôn là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền TDTT nước nhà. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX trình bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về TDTT đã nêu rõ: Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng cường tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng cường thể lực của thanh niên. Phát triển mạnh TDTT, kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại. Có chính sách và cơ chế phù hợp để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng, đưa thể thao nước ta đạt vị trí cao của khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới [3]. Nghị quyết 08 của Bộ chính trị khóa XI đã khẳng định “Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức, đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao; tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể dục thể thao; đến năm 2020, phấn đấu 90% học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể; các trường học, xã, phường, thị trấn, khu công nghiệp có đủ cơ sở vật chất thể dục, thể thao phục vụ việc tập luyện của nhân dân; trình độ một số môn thể thao trọng điểm được nâng cao ngang tầm Châu Á và thế giới; bảo đảm các điều kiện để sẵn sàng đăng cai tổ chức thành công các sự kiện thể thao lớn của Châu Á và thế giới”[4]. Các quan điểm của Đảng về phát triển TDTT là những định hướng cơ bản để xác định vị trí và mối quan hệ của toàn bộ sự nghiệp TDTT đối với các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội...các mối quan hệ nội tại của TDTT. Vì vậy đó chính là các cơ sở để lựa chọn, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp TDTT trong một thời kỳ tương đối dài. 8 1.3. Công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực Thể dục thể thao trong giai đoạn hiện nay Luật TDTT quy định tại khoản 2 Điều 6 về công tác tổ chức, chỉ đạo, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho phát triển TDTT là một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về TDTT. Để đảm bảo phát triển sự nghiệp TDTT theo đúng định hướng, không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động TDTT, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực rất lớn, đa dạng, phong phú bao gồm nhiều lực lượng lao động khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ và trình độ đào tạo từ cán bộ quản lý cấp cao ở trung ương đến cán bộ quản lý ở cơ sở [42]. Từ cán bộ giảng viên đại học đến giáo viên tiểu học, mầm non, từ huấn luyện viên đội tuyển quốc gia đến hướng dẫn viên thể thao ở cơ sở và các cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học thuộc các lĩnh vực chuyên ngành có liên quan cho đến các lực lượng lao động kinh doanh dịch vụ khác tác nghiệp trong lĩnh vực TDTT. Vì vậy Nhà nước ban hành các chính sách và thống nhất quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển sự nghiệp TDTT [42]. Nhà nước chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho TDTT dựa trên chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở chiến lược chung đó, cơ quan quản lý nhà nước về thể dục, thể thao ở trung ương có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch , kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực TDTT chung cho toàn quốc phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ theo từng đối tượng, vùng lãnh thổ. Quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực được xây dựng một cách tổng thể và chi tiết theo những tiêu chí đáp ứng nhu cầu phát triển sự nghiệp TDTT của cả thời kỳ và từng giai đoạn đã được xác định trong chiến lược và quy hoạch phát triển TDTT của đất nước [11], [42]. Đặc biệt chú trọng ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho các vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn bằng nguồn kinh phí từ ngân sách do các cơ quan nhà nước chủ trì thực hiện. Cơ quan quản lý hành chính Nhà nước về 9 TDTT các cấp chịu trách nhiệm tham mưu, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực TDTT cho các đối tượng thuộc các ngành, lĩnh vực, vùng, miền do địa phương được phân cấp quản lý như: tổ chức và chỉ đạo công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên TDTT cho các nhà trường và cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tổ chức và chỉ đạo công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cộng tác viên thể thao cơ sở. Tổ chức và chỉ đạo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ HLV và cán bộ quản lý thể thao trong lực lượng vũ trang trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ thể thao [3], [42]. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho TDTT mang tính đặc thù của hoạt động thể thao là nhằm điều khiển sự phát triển thể chất nâng, cao sức khoẻ của con người, có tác dụng giáo dục nâng cao khả năng thành tích tối đa của con người nên đòi hỏi phải dựa trên cơ sở khoa học của nhiều chuyên ngành khác nhau về con người như y sinh học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học...[47]. Do đó, để đào tạo được nguồn nhân lực TDTT có chất lượng trước hết phải đào tạo và bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ cao thuộc nhiều lĩnh vực làm nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm của Nhà nước nơi đào tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý, HLV, giáo viên, giảng viên, cán bộ y sinh học TDTT và bác sỹ thể thao có trình độ chuyên môn giỏi. Nhà nước ban hành chính sách đào tạo bồi dưỡng và thu hút các nhà khoa học đầu ngành về làm việc tại các cơ sở đào tạo này [42]. Chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực luôn luôn gắn kết không thể tách rời với chính sách sử dụng cán bộ, lao động hợp lý, đãi ngộ và trả công tương xứng cho từng vị trí công việc được đảm trách. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho TDTT, đồng thời chỉ đạo các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp TDTT [2]. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng nhân lực cho TDTT nêu trên, cơ quan quản lý nhà nước về TDTT ở trung ương có trách nhiệm phối hợp với các bộ ngành có liên quan như: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, 10 Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính… giúp Chính phủ xây dựng quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo cán bộ, HLV, giáo viên GDTC trong cả nước, quản lý thống nhất chương trình khung đào tạo cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về thể thao ở các cấp độ khác nhau đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động trong các cơ sở thể thao [53]. Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo ngoài công lập đào tạo nhân lực cho thể thao trên cơ sở thực hiện quy hoạch chung thống nhất. Liên doanh liên kết với các cơ sở đào tạo cán bộ thể thao nước ngoài để hợp tác đào tạo cán bộ khoa học, nhất là ở các lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu hoặc còn yếu. Cơ quan quản lý nhà nước về TDTT chỉ đạo và phối hợp với các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp về thể thao, mà trước hết và chủ yếu là với Uỷ ban Olympic Việt Nam và các Liên đoàn thể thao quốc gia tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý thể thao, kinh doanh hoạt động thể thao, huấn luyện viên, hướng dẫn viên, kỹ thuật viên chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, cứu hộ, cứu đuối và các loại nhân viên phục vụ khác. Việc chỉ đạo và kết hợp với các tổ chức xã hội và các cơ sở đào tạo ngoài công lập nhằm thực hiện chính sách xã hội hoá trong đào tạo bồi dưỡng nhân lực có trình độ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu của công tác thể thao phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở từng vùng, miền và từng đối tượng khác nhau [42]. Như vậy, Nhà nước đã có sự chỉ đạo về bồi dưỡng nguồn nhân lực cho Ngành TDTT thông qua các văn bản như Chỉ thị 17/CT-TW ngày 23-10-2002 về phát triển TDTT đến năm 2010, Luật TDTT 2006... từ đó Ngành TDTT có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho ngành của mình nhằm phát triển nền TDTT của nước ta. 1.4. Khái quát về lịch sử phát triển, công tác đào tạo cán bộ TDTT tại trường Đại học TDTT Bắc Ninh 1.4.1. Khái quát về lịch sử phát triển, công tác đào tạo cán bộ Thể dục Thể thao tại trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh 11 Trường Đại học TDTT Bắc Ninh là loại hình công lập trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Nhà trường được coi như cơ sở số 1 về đào tạo cán bộ TDTT từ trình độ cử nhân trở lên, xúc tiến công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) của trường và ngành, làm điểm tựa cho các cơ sở, trường đào tạo cán bộ TDTT khác. Ngoài ra trường còn được chọn là nơi đào tạo VĐV trẻ cho đất nước [48]. Với bề dày hơn 50 năm trưởng thành và phát triển, các nhà khoa học và lực lượng nòng cốt của các trường Đại học TDTT trên phạm vi cả nước, các khoa GDTC của các trường đại học và cao đẳng trong cả nước đều hầu hết được đào tạo ở trường Đại học TDTT Bắc Ninh. Sinh viên của Trường được trang bị kiến thức tương đối toàn diện về các lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học Mác Lê nin, y sinh học và những kiến thức chuyên ngành TDTT. Từ đó cán bộ tốt nghiệp có tri thức vững về chính trị, đạo đức và chuyên môn, có khả năng tổ chức vận động phong trào, tổ chức huấn luyện giảng dạy và bồi dưỡng hướng dẫn viên thể thao nhằm tạo mạng lưới rộng khắp về cán bộ đáp ứng mục tiêu GDTC và rèn luyện thể chất của người dân, phát triển con người toàn diện, tạo lực lượng sản xuất góp phần phát triển xã hội [49], [50]. Việc đáp ứng cán bộ TDTT cho nhu cầu xã hội còn làm tăng giá trị văn hoá, tinh thần, tạo một cuộc sống lành mạnh đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Trường đại học TDTT Bắc Ninh ngoài là nơi đào tạo cán bộ TDTT cho đất nước, còn là nơi xúc tiến NCKH, ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao kết quả nghiên cứu, là nơi có tương đối đủ nhân lực, phương tiện khoa học kỹ thuật để nghiên cứu thực tiễn, đúc kết thực tiễn thành lý luận và lấy lý luận để soi chiếu thực tiễn [48]. Với sự định hướng đúng đắn về mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo của Nhà trường, trong những năm qua trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã đạt được kết quả đáng kể về công tác đào tạo. Về quy mô đào tạo, lưu lượng sinh viên các hệ trong nhà trường đạt 5.000 sinh viên, trong đó: đại học chính quy 3.200 sinh viên, đại học vừa làm vừa học 1200 sinh viên; hoàn thiện đại học quy đổi đạt 600 học viên, cao học và nghiên cứu sinh trên 400 học viên. Trong điều kiện 12 hiện nay định hướng của lãnh đạo nhà trường là nâng cao chất lượng đào tạo, vì vậy, chất lượng cán bộ được nhà trường đào tạo đã nhận được sự khẳng định và đánh giá tốt của các cơ sở sử dụng cán bộ, nâng cao uy tín trong hệ thống các trường đào tạo cán bộ TDTT ở Việt Nam [53], [49], [52]. 1.4.2. Khái quát về ngành y sinh học Thể dục Thể thao và công tác đào tạo cán bộ y sinh học Thể dục Thể thao tại trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh. Ngày nay, thành tích thể thao với kỷ lục luôn được lập rồi lại bị “xô đổ” trong thời gian ngắn, điều đó có được là nhờ việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong quá trình tuyển chọn và huấn luyện thể thao. Việc sử dụng các phương pháp, phương tiện y sinh học TDTT ngày càng nhiều hơn và đem lại hiệu quả đáng kinh ngạc trong việc nâng cao thành tích thể thao. Ở các nước có nền TDTT phát triển như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga ... khoa học y sinh học TDTT luôn được đầu tư phát triển nhằm phục vụ cho quá trình tập luyện, huấn luyện thể thao và thi đấu TDTT. Ở nước ta hiện nay, việc ứng dụng các phương pháp, phương tiện trong y sinh học TDTT còn chưa được áp dụng phổ cập, số lượng bác sỹ TDTT và cán bộ y sinh học TDTT còn rất hạn chế, do vậy việc hỗ trợ quá trình tập luyện, huấn luyện và thi đấu thể thao còn chưa đáng kể đã dẫn đến thành tích thể thể thao còn khiêm tốn so với các nước có nền TDTT phát triển. Cho đến trước năm 2007 chưa có cơ sở đào tạo TDTT nào đào tạo lực lượng cán bộ y sinh học TDTT đã tạo ra sự thiếu hụt rất lớn trong thực tiễn công tác TDTT ở Việt Nam. Trước thực tế đó Trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã mở ngành đào tạo mới và thành lập Khoa Y sinh học TDTT vào ngày 04 tháng 9 năm 2007, (trước đây Trường đã đào tạo cán bộ y sinh học TDTT được ba khoá với ba lớp chuyên sâu y học 12, 13 và 14) với mục tiêu đào tạo: Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên kiến thức ngành y sinh học TDTT đáp ứng yêu cầu của công tác huấn luyện, góp phần nâng cao trình độ huấn luyện và thành 13 tích thể thao. Có đủ kiến thức cơ bản trong chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa chấn thương, bệnh lý xuất hiện trong hoạt động TDTT. Về kỹ năng: Biết vận dụng những kiến thức y sinh học TDTT vào thực tiễn công tác giảng dạy và huấn luyện TDTT. Có kỹ năng tổ chức các hoạt động y tế trong tập luyện và thi đấu thể thao. Ứng dụng thành thạo các thành tựu khoa học kỹ thuật y học tiên tiến vào trong công tác chẩn đoán, điều trị chấn thương, phục hồi chức năng cho người tập, tuyển chọn VĐV và phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Việc mở thêm ngành đào tạo y sinh học TDTT phần nào giải quyết đã sự thiếu hụt về cán bộ y sinh học TDTT cho ngành TDTT nước ta hiện nay [51]. 1.5. Một số khái niệm cơ bản trong xây dựng chương trình đào tạo và quả chương trình đào tạo 1.5.1. Một số khái niệm cơ bản trong xây dựng chương trình đào tạo Ở Việt Nam, khái niệm “Chương trình khung” chỉ mới xuất hiện lần đầu tiên trên Luật giáo dục (1998), với việc Quốc hội thông qua Luật Giáo dục. Phương thức quản lý CTĐT tại các cơ sở đào tạo được điều chỉnh theo hướng tăng trách nhiệm quản lý ở cấp Bộ, không chỉ quy định đến khung chương trình mà phải nắm đến tận chương trình khung của tất cả các ngành đào tạo [43] . Chương trình khung: Là văn bản Nhà nước ban hành cho từng ngành đào tạo cụ thể, trong đó quy định cơ cấu nội dung môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ phân bố thời gian đào tạo giữa các môn học cơ bản và chuyên môn, giữa lý thuyết và thực hành, thực tập. Nó bao gồm khung chương trình cùng với những nội dung cốt lõi, chuẩn mực tương đối ổn định theo thời gian và bắt buộc phải có trong CTĐT của tất cả các trường. Căn cứ vào chương trình khung, các trường xác định CTĐT của trường mình. Khác với chương trình khung, CTĐT có thể hàm chứa kiến thức từ một ngành hoặc từ một số ngành [6]. Với khái niệm nêu trên có thể nhận thấy ý nghĩa tương đồng trong thuật ngữ của J.M. Shafritz, 1988, cho rằng “chương trình khung” là những quy định chung về nội dung đào tạo cho tất cả các học sinh, sinh viên thuộc một ngành 14 học cụ thể, cũng tương tự như khái niệm của giáo dục Đại học quốc tế và giáo dục Đại học Nga hiện nay [57]. Khung chương trình: Là văn bản nhà nước quy định khối lượng kiến thức tối thiểu và cơ cấu kiến thức cho các CTĐT. Khung chương trình xác định sự khác biệt về chương trình tương ứng với các trình độ đào tạo khác nhau. Khái niệm CTĐT: Là văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo [54]. Theo Wentling (1993): CTĐT là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo (khoá đào tạo) cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người học sau khoá đào tạo, phác thảo ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, các phương pháp đào tạo và cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ. Theo Tyler (1949) cho rằng, CTĐT về cấu trúc phải có 4 Phần cơ bản : Mục tiêu đào tạo; Nội dung đào tạo; Phương pháp hay quy trình đào tạo; Cách đánh giá kết quả đào tạo. Như vậy CTĐT hay chương trình giảng dạy không chỉ phản ánh nội dung đào tạo mà là một văn bản hay bản thiết kế thể hiện tổng thể các thành phần của quá trình đào tạo, điều kiện, cách thức, quy trình tỏ chức, đánh giá các hoạt động đào tạo để đạt được mục tiêu đào tạo. 1.5.2. Hiệu quả chương trình đào tạo Khái niệm hiệu quả: Nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản trị học quan niệm hiệu quả là một tương quan so sánh giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã được xác định với chi phí 15 bỏ ra để đạt được kết quả đó. Theo Manfred Kuhn: “Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh” [58]. Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát “hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Hiệu quả phản ánh mặt chất lượng các hoạt động, trình độ lợi dụng các nguồn lực trong sự vận động không ngừng của các quá trình, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động của từng nhân tố” [58]. Hiệu quả có thể được đánh giá ở nhiều góc độ, đối tượng, phạm vi và các thời kỳ khác nhau. Tuỳ vào từng góc độ cụ thể mà phân biệt các loại hiệu quả khác nhau như hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội, hiệu quả kinh doanh, hiệu quả đầu tư, hiệu quả ngắn hạn, hiệu quả dài hạn ... Hiệu quả đào tạo: Khi nói đến hiệu quả là nói đến góc nhìn của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư chính cho đào tạo là người học và gia đình, cơ sở đào tạo, Nhà nước và xã hội. Ở mỗi cấp độ, quan niệm về hiệu quả đào tạo của các nhà đầu tư có khác nhau. Ở cấp độ cá nhân người học và phụ huynh, hiệu quả đào tạo thể hiện ở “giá trị gia tăng” về kiến thức, kỹ năng họ nhận được sau quá trình đào tạo, giúp họ có việc làm, thành đạt trong cuộc sống và có khả năng thích ứng với những thay đổi. Học nghề mà không có cơ hội hành nghề, cơ may phát triển, kỹ năng đủ để thích ứng với những thay đổi trong thị trường lao động và cuộc sống thì khó có thể nói là có hiệu quả. Ở cấp độ cơ sở đào tạo, hiệu quả đào tạo thể hiện ở chỗ sử dụng hiệu quả các nguồn lực đào tạo đem lại kết quả đào tạo (số lượng, chất lượng, công tác hỗ trợ trong đào tạo và cơ cấu sinh viên tốt nghiệp) tốt nhất có thể. Ở cấp độ nhà nước và xã hội, hiệu quả đào tạo nghề thể hiện ở chỗ đầu tư của nhà nước và xã hội đảm bảo cung cấp được nguồn nhân lực có chất lượng,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan