Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học đề cương ngữ văn 10 kì 1...

Tài liệu đề cương ngữ văn 10 kì 1

.DOC
62
4626
85

Mô tả:

Đề cương văn 10, Học kì 1 Người soạn : Cô Thu Trang GV trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình ĐỀ CƯƠNG NGỮ VĂN 10, HỌC KÌ 1 DANH SÁCH CÁC BÀI TRỌNG TÂM CẦN ÔN TÂÂP 1. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ 2. Khái quát văn học dân gian VN 3. Văn bản 4. Chiến thắng Mtao Mxây 5. Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ 6. Tấm Cám 7. Tam đại con gà; Nhưng nó phải bằng hai mày 8. Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa 9. Ca dao hài hước 10.Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt 11.Tỏ lòng 12.Cảnh ngày hè 13.Nhàn 14.Đọc " Tiểu Thanh kí" 15.Thực hành pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ Bài Cảm xúc mùa thu, Tại lậu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng, Thơ Hai Kư của Ba Sô và các bài đọc thêm khả năng thi thấp, các em tự ôn nhé. Lưu ý : Mỗi tỉnh thi theo đề riêng nên đề cương của cô Thu Trang chỉ mang tính tham khảo, không phải là giới hạn ôn thi nhé ĐỊNH HƯỚNG CÁCH ÔN TÂẬP THEO CẤU TRÚC ĐỀ THI Đề thi thường có 2 phần : 1. Đọc hiểu : Phần đọc hiểu, các em tải miễn phí tài liê Ậu tại đây nhé : http://thutrang.edu.vn/webstite-chia-se-tai-lieu-cua-thu-trang 2. Làm văn : Ở lớp 10, các em ôn tâ pẬ 2 dạng :văn tự sự ( kể chuyê nẬ ) và Nghị luâ nẬ ( phân tích các bài thơ ) I.Các dạng đề văn tự sự lớp 10  Dạng 1: Kể lại một câu chuyện đã được học bằng lời văn của em Đây là dạng bài đơn giản nhất, học sinh chỉ cầm nắm được cốt truyện là có thể làm được. Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 1 Đề cương văn 10, Học kì 1 Diễn đạt sự việc bằng lời văn của cá nhân cho linh hoạt trong sáng. Ví dụ : Nhập vai nhân vật An Dương Vương, kêt lại Truyện an Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy theo ngôi kể thứ nhất.  Dạng 2: Kể sáng tạo, ví dụ : Kể lại kỉ niệm về người thân trong gia đình Chú ý tránh nhầm sang tả người thân ,tránh sa đà vào bày tỏ tình cảm của cá nhân về nhân vật đó. Ví dụ 2 : -Thay đổi hay thêm phần kết cho Truyện an Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy -Hình dung cuộc gặp gỡ dưới thủy cung của hai nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy trong Truyện an Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy. -Tưởng tượng gặp gỡ những người anh hùng trong giấc mơ…. II> Cách làm bài văn tự sự: Hình thành ý tưởng, dự kiến cốt truyện +Hình thành ý tưởng Định ra một chủ đề, một nội dung gắn liền với chủ đề ấy Ví dụ: Nguyên Ngọc định ra việc viết một câu chuyện về cuộc khởi nghĩa của anh Đề, về cuộc đời, số phận của anh Đề trong mối liên hệ với cuộc đời, số phận chung của dân tộc, đất nước. +Dự kiến cốt truyện – Chọn và xây dựng quan hệ giữa các nhân vật -Chọn và triển khai tình huống -Chọn chi tiết 2. Lập dàn ý Dàn ý chung a) Mở bài Giới thiệu câu chuyện (hoàn cảnh, không gian, thời gian, nhân vật…) b) Thân bài Những sự việc, chi tiết chính theo diễn biến của câu chuyện c) Kết bài Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 2 Đề cương văn 10, Học kì 1 Kết thúc câu chuyện (nêu cảm nghĩ của nhân vật hoặc một chi tiết đặc sắc, có ý nghĩa). Lưu ý: muốn lập dàn ý, cần dự kiến đề tài, xác định các nhân vật, chọn và sắp xếp các sự việc, chi tiết tiêu biểu một cách hợp lí. Bài tập vận dụng : Bạn bè thường giễu cợt tôi :”Đồ cha câm điếc”. Tôi muốn mình có một người cha tốt hơn, không phải là một người cha bị câm điếc. Tôi chẳng cần gì hết. Tôi không muốn sống trên đời này nữa… Dựa theo những lời tâm sự trên, anh/ chị hãy viết một bài văn tự sự theo ngôi kể thứ nhất. hãy kể về số phận, sự ân hận của một người con đã đối xử không tốt với cha mình chỉ vì cha bị câm điếc Hướng dẫn làm bài: 1. Hình thành ý tưởng, dự kiến cốt truyện +Hình thành ý tưởng: Sẽ kể về câu chuyện mình đối xử không tốt với người cha bị câm điếc +Dự kiến cốt truyện : Sẽ mở đầu câu chuyện như thế nào?diễn biến ra sao?chuyện kết thúc như thế nào? -Hình dung diễn biến các sự việc xảy ra giữa tôi và cha -Chọn và triển khai tình huống : con đã có những hành động đối xử như thế nào đối với người cha bị câm điếc của mình ?Bạn bè giễu cợt ra sao? -Chọn chi tiết :Những cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ của cha và con khi giao tiếp ( lưu ý đây là người cha bị câm điếc ) 2. Lập dàn ý a) Mở bài Giới thiệu câu chuyện: Hoàn cảnh diễn ra câu chuyện :Chuyện diễn ra ở đâu? khi nào? Chọn nhân vật : nhân vật chính là tôi, người cha, bạn bè, ngoài ra còn có những nhân vật phụ tùy theo diễn biến cốt truyện b) Thân bài Những sự việc, chi tiết chính theo diễn biến của câu chuyện: Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 3 Đề cương văn 10, Học kì 1 Giai đoạn đầu: tôi sống tiêu cực buồn chán vì bị bạn bè chê cười +Giới thiệu về người cha câm điếc +Kể sơ qua về hoàn cảnh gia đình : anh chị em, mẹ , cha bị câm điếc +Bạn bè giễu cợt như thế nào? +Thái độ của tôi khi bị họ giễu cợt : tôi xấu hổ, tức giận như thế nào?tôi than thân trách phận mình, về nhà đối xử không tốt với cha… +Thái độ , hành động của cha như thế nào? +Những dằn vặt, đau khổ, chán nản của nhân vật tôi: tôi không muốn sống trên đời này nữa Giai đoạn sau: Tôi nhận ra lỗi lầm và cảm thấy ân hận +Nguyên nhân khách quan : tôi được mọi người giải thích->> thấu hiểu , thương cha và ân hận vì mình đã đối xử không tốt với cha +Nguyên nhân chủ quan : do bản thân tôi tự nhận ra lỗi lầm và sửa chữa +Thái độ và hành động của tôi bày tỏ sự ân hận: tôi kính trọng, quan tâm , chăm sóc cha nhiều hơn +Niềm vui của cha khi tôi thay đổi thái độ… c) Kết bài Kết thúc câu chuyện :nêu cảm nghĩ của nhân vật ( tôi tự hào vì có người cha tốt, mặc dù cha không thể nghe , không thể nói nhưng cha là người yêu thương tôi nhất, cha luôn quan tâm và thấu hiểu tôi…) Phần kết bài có thể đưa vào một chi tiết đặc sắc, có ý nghĩa Lưu ý : Người cha bị câm điếc nên chỉ giao tiếp được bằng cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, nụ cười…Các em cần hình dung các cử chỉ của người câm để miêu tả sao cho chân thực ÔN TÂÂP CÁC BÀI CỤ THÊ 1. HOẠT ĐÔÂNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ Câu hỏi :  Thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ? Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ được diễn ra bởi những quá trình nào?  Các nhân tố trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ? Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 4 Đề cương văn 10, Học kì 1  Thông qua bài ca dao dưới đây, con người cũng đã thực hiện một hoạt động giao tiếp. Hãy phân tích các nhân tố giao tiếp: - Người nói là ai và nói với ai? - Cuộc giao tiếp diễn ra trong hoàn cảnh cụ thể nào? - Người nói nói về vấn đề gì? - Câu nói nhằm mục đích gì? - Cách nói có hấp dẫn và có thuyết phục người nghe không? Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần - Hoạt động giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin của con người trong xã hội được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ (dạng nói hoặc dạng viết) nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, về tình cảm, về hành động... - Mỗi hoạt động giao tiếp gồm hai qua trình: tạo lập văn bản (do người nói hoặc người viết thực hiện) và lĩnh hội văn bản (do người đọc hoặc người nghe thực hiện). Hai quá trình này diễn ra trong quan hệ tương tác. Các nhân tố của hoạt đô nẬ g giao tiếp băng ngôn ngữ : Nhân vật giao tiếp : Ai nói, ai viết, nói với ai, viết cho ai ? Hoàn cảnh giao tiếp : Nói, viết trong hoàn cảnh nào, ở đâu, khi nào ? Nội dung giao tiếp : Nói, viết cái gì, về cái gì ? Mục đích giao tiếp : Nói, viết để làm gì, nhằm mục đích gì ? Phương tiện và cách thức giao tiếp : Nói viết như thế nào, bằng phương tiện gì ? b. Bài ca dao là một hoạt động giao tiếp - người nói là người nông dân đang cày ruộng, nói với những người khác (đại từ ai chỉ tất cả mọi người) - Hoàn cảnh cụ thể: Lúc người nông dân đang cày ruộng vất vả, vào buổi trưa nóng bức. - Nội dung vấn đề: Nói về mối quan hệ giữa bát cơm đầy, dẻo thơm và sự làm việc vất vả, đắng cay. - Mục đích: Nhắc nhở mọi người phải có ý thức trân trọng, nâng niu thành quả lao động mà mình đã đổ ra biết bao công sức mới có được thành quả đó. - Cách nói rất cụ thể, có hình ảnh nên hấp dẫn và có sức thuyết phục. 2. KHÁI QUÁT VĂN HỌC DÂN GIAN VIÊÂT NAM Câu hỏi : Nêu Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian VN? Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam? Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Trả lời : Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 5 Đề cương văn 10, Học kì 1 Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian - Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng. Thực chất của quá trình truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng miệng cho người khác. Văn học dân gian khi được phổ biến lại, đã thông qua lăng kính chủ quan (bộ não người) nên thường được sáng tạo thêm. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian (từ vùng này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trước đến đời sau). Quá trình truyền miệng thường được thực hiện thông qua diễn xướng - tức là hình thức trình bày tác phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể). - Văn học dân gian là kết quả của những quá trình sáng tác tập thể. Tập thể là tất cả mọi người, ai cũng có thể tham gia sáng tác. Nhưng quá trình này, lúc đầu do một người khởi xướng lên, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác (địa phương khác, thời đại khác) tham gia sửa chữa, bổ sung cho tác phẩm biến đổi dần. Quá trình bổ sung này thường làm cho tác phẩm phong phú hơn, hoàn thiện hơn. Mỗi cá nhân tham gia vào quá trình sáng tác này ở những thời điểm khác nhau. Nhưng vì truyền miệng nên lâu ngày, người ta không nhớ được và cũng không cần nhớ ai là tác giả. Tác phẩm dân gian vì thế đã trở thành của chung, ai cũng có thể tùy ý thêm bớt, sửa chữa. - Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Sinh hoạt cộng đồng là những sinh hoạt chung của nhiều người như lao động tập thể, vui chơi ca hát tập thể, hội hè... Trong những sinh hoạt này, tác phẩm văn học dân gian thường đóng vai trò phối hợp hoạt động, tạo nhịp điệu cho hoạt động (những bài hò : hò chèo thuyền, hò đánh cá,...). Không những thế, văn học dân gian còn gây không khí để kích thích hoạt động, gợi cảm hứng cho người trong cuộc (ví dụ những câu chuyện cười được kể trong lao động giúp tạo ra sự sảng khoái, giảm bớt sự mệt nhọc trong công việc). Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam Thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo, Những giá trị cơ bản của văn học dân gian - Văn học dân gian là kho trí thức vô cùng phong phú về đời sống của các dân tộc (kho trí khôn của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã hội, con người). Kho tri thức này phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân ta đúc kết từ thực tế. Vào trong các tác phẩm, nó được mã hoá bằng những ngôn từ và hình tượng nghệ thuật tạo ra sức hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền cùng năm tháng. - Văn học dân gian ngợi ca, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con người. Vì thế, nó có giá trị giáo dục sâu sắc về truyền thống dân tộc (truyền thống yêu nước, đức kiên trung, lòng vị tha, lòng nhân đạo, tinh thần đấu tranh chống cái ác, cái xấu,...). Văn học dân gian cũng vì thế mà góp phần hình thành những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ xưa và nay. Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 6 Đề cương văn 10, Học kì 1 - Văn học dân gian có giá trị to lớn về nghệ thuật. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân nước nhà. Nó đã trở thành những mẫu mực để đời sau học tập. Nó là nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết. 3. VĂN BẢN Trình bày khái niê Ậm và các đặc điểm của văn bản? Văn bản là sản phẩm của hoạt đô nẬ g giao tiếp bằng ngôn ngữ, gồm 1 hay nhiều câu, nhiều đoạn và có những đă Ậc điểm cơ bản sau đây : - Mỗi văn bản tập trung thể hiện một chủ đề và triển khai chủ đề một cách trọn vẹn. - Các câu trong văn bản có sự liên kết chặt chẽ, kết cấu mạch lạc. - Mỗi văn bản có dấu hiệu biểu hiện tính hoàn chỉnh về nội dung. - Mỗi văn bản nhằm thực hiện một ( hoặc một số ) mục đích giao tiếp nhất định. 4. CHIẾN THẮNG MTAO- MXÂY KIẾN THỨC CƠ BẢN : Kiến thức cơ bản về bài Chiến thắng Mtao Mxây- trích sử thi Đăm Săn 1. Khái quát Sử thi còn gọi là anh hùng ca, là thể loại tự sự dài (thường là thơ) xuất hiện rất sớm trong lịch sử của các dân tộc nhằm ngợi ca sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử. Về kết cấu, sử thi là một câu chuyện được kể lại có đầu có đuôi với quy mô lớn. Các nhân vật chính của sử thi là những anh hùng, tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho ý chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng được miêu tả trong vẻ đẹp kì diệu khác thường. I-li-át, ô-đi-xê của Hi Lạp ; Ma-ha-bha-ra-ta, Ra-ma-ya-na của Ân Độ ; Đăm Săn, Đăm Di, Xinh Nhã, Khinh Dú (Ê-đê), Đăm Noi (Ba-na) của Việt Nam ; … là những tác phẩm sử thi đồ sộ còn lưu giữ được đến nay. Sử thi anh hùng Tây Nguyên phản ánh cuộc sống Tây Nguyên ở giai đoạn tiền giai cấp, khi xã hội cộng sản nguyên thuỷ tan rã, nhưng xã hội phong kiến chưa hình thành. Sự phân hoá giàu nghèo trong đời sống xã hội chưa sâu sắc, cá nhân hoàn toàn gắn bó với cộng đồng thị tộc, quyền lợi và khát vọng của mỗi cá nhân hoàn toàn thống nhất với quyền lợi và khát vọng của cộng đồng, ở giai đoạn lịch sử đó, các xung đột vũ trang thường xảy ra giữa các bộ tộc để tranh giành đất đai, của cải và thế lực. Tham gia chiến đấu và quyết tâm chiến thắng vì quyền lợi của cả bộ tộc trở thành nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người. Trong đời sống xã hội, lao động và chinh phục thiên nhiên Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 7 Đề cương văn 10, Học kì 1 đem lại phồn vinh cho bộ tộc mỗi thành viên coi đó là bổn phận và tự giác làm hết mình. Đó là cơ sở lịch sử, xã hội nảy sinh và nuôi dưỡng những thiên sử thi anh hùng! Sô’phận, tính cách anh hùng của nhân vật anh hùng trong sử thi phản ánh số phận và tính cách của chính bộ tộc ấy. Nhìn chung, sử thi anh hùng Tây Nguyên có ba đề tài chính là hôn nhân chiến tranh và lao động xây dựng, trong đó, đề tài chiến tranh là đề tài trung tâm, quan trọng hơn hai đề tài kia, thu hút và hàm chứa hai đề tài đó. Về phương diện nghệ thuật, sử thi anh hùng Tây Nguyên mang những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật sử thi nói chung : dung lượng đồ sộ, kết cấu trùng điệp, chia thành chương khúc, ngôn ngữ trang trọng, giàu định ngữ, nhiều hình ảnh so sánh, phóng đại tương phản, tượng trưng,… đó là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, bay bổng hồn nhiên đậm màu sắc thần thoại- Sử thi anh hùng sử dụng lối văn xuôi có vần và nhịp điệu cân xứng, đầy biến hoá : lúc trầm bổng, du dương, lúc hoành tráng, lúc trữ tình sâu lắng, thiết tha,… phù hợp với đặc điểm diễn xướng được kể -hát theo làn điệu của thể loại này. HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH 1. Cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây a. Nguyên nhân chiến tranh Tù trưởng Mtao Mxây lừa lúc Đăm Săn cùng dân làng làm rẫy, đã kéo đến cướp phá buôn làng và bắt Hơ Nhị về làm vợ. Danh dự của một tù trưởng và bộ tộc bị xúc phạm, hạnh phúc của gia đình và buôn làng bị đe doạ, người anh hùng Đăm Săn buộc phải cầm khiên, giáo đứng lên chiên đấu. Cuộc chiến đấu của Đăm Săn là cuộc chiên đấu chính nghĩa, vì thế, dân làng theo chàng đi đánh Mtao Mxây. Đăm Săn không chỉ có sức khoẻ, võ nghệ cao cường, có khiên giáo trong tay mà còn có cả chính nghĩa, lí tưởng chiên đấu nên đã được tiếp thêm sức mạnh để quyết chiên quyết thắng. b. Diễn biến trận đánh Đăm Săn khiêu chiến và thái độ ngạo mạn của Mtao Mxây : + Nếu như Mtao Mxây hèn hạ, lừa lúc Đăm Săn và dân làng đi àm rẫy để cướp phá thì Đăm Săn đến tận nhà Mtao Mxây lúc hắn đang ở nhà, gọi hắn xuống để giao chiến. Mtao Mxây là một tù trưởng hung bạo, một tên kẻ cướp ; còn Đăm Săn là tù trưởng anh hùng, tư thế và hành động đàng hoàng. Sự kiện Đăm Săn tới nhà Mtao Mxây khiêu chiến thể hiện sự tương phản trong nhân cách hai nhân vật này. Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 8 Đề cương văn 10, Học kì 1 Chàng gọi Mtao Mxây là “diêng” với hàm ý mỉa mai. (Diêng : chỉ người bạn kết nghĩa). Đăm Săn và Mtao Mxây đã từng là “diêng” của nhau, là bạn kết nghĩa của nhau. Thế mà nay Mtao Mxây đến cướp phá buôn làng của Đăm Săn, cướp vợ của Đăm Săn. Mtao Mxây là kẻ phản bội tình bạn. Vì thế không thể nói chuyện bằng lời mà phải “đọ dao” mới giải quyết được. + Lúc đầu, Mtao Mxây từ chối. Là kẻ gây tội ác nên hắn tỏ ra sợ hãi trước lời đe doạ trừng phạt, nhưng vẫn trắng trỢn chọc tức Đăm Săn : “Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà”. + Như lửa đổ thêm dầu, thái độ ngạo mạn của Mtao Mxây khiến Đăm Săn nổi cơn thinh nộ. Lời của Đăm Săn như ra lệnh, quyết liệt hơn lần trước : “Xuống đi, ơ Diêng…”.Thái độ của Đăm Săn rất dứt khoát, dồn kẻ thù vào cuộc giao đấu. Mtao Mxây phải lựa chọn một trong hai con đường : một là chết thiêu cùng với ngôi nhà, hai là bước vào giao đấu. + Mtao Mxây tỏ ra rất tầm thường, hắn từ trên sàn nhà xuống với nỗi lo bị đánh lén. Nhưng Đăm Săn đàng hoàng, không thèm đâm “con lợn nái… dướị đất”, không thèm đâm “con trâu… trong chuồng”, chỉ đâm kẻ thù khi chúng đang múa khiên và tay đang cầm giáo, cầm gươm. + Mtao Mxây hiện ra với dáng vẻ dữ tợn như một vị ác thần, tay cầm khiên “tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng”, lòng đầy lo sợ, nên “tần ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo”. Nhưng hắn vẫn phải bước vào cuộc giao đấu. Hiệp đấu thứ nhất : + Vào cuộc giao đấu, Đăm Săn với tinh thần thượng võ, nhường cho địch thủ quyền chủ động tẩn công. Mtao Mxây đùn đây, cất lời huênh hoang để đánh đòn tâm lí với Đăm Săn. Hắn khoe sức mạnh, khỏe miếng võ của hắn là võ gia truyền, học được từ thần thánh, thậm chí còn đem khoe cả bản chất tàn bạo của mình với mục đích uy hiếp Đăm Săn. Mtao Mxây đánh múa khiên, tỏ ra rất kém cỏi khiến cho Đăm Săn thấy buồn cười, phải cất tiếng mỉa mai : “Ngươi múa chơi đây phải không, diêng?”. Trước sức mạnh tấn công của Đăm Săn, hắn chỉ biết chạy, khi tung đòn lại không trúng đích. Kẻ tàn bạo phi nghĩa thật thảm hại khi đối mặt với người anh hùng vượt trội về tài năng và phẩm chất, chiên đâu vì chính nghĩa. + Đăm Săn vào trận với tư thế của người anh hùng, với tư cách người đi hỏi tội và trừng phạt kẻ có tội. Chàng chiến đấu để bảo vệ danh dự, cứu vợ và bảo vệ yên bình cho bộ tộc. Sức mạnh của chàng chính là sức mạnh của cộng đồng, được kết tinh từ những khát vọng, ước mong cho cuộc sống bình yên, thịnh vượng. Tác giả dân gian đã Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 9 Đề cương văn 10, Học kì 1 thể hiện sức mạnh của dũng sĩ Đăm Săn trong cảm hứng sử thi đẫm chất hùng ca. cảnh Đăm Săn múa khiên được miêu tả đầy hào hứng : “Đăm Săn rung khiên múa. Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốíc tới nữa, chàng vượt một đồi lổ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”. Sức mạnh của Đăm Săn trong trận chiên đấu có thể ví với sức manh của tự nhiên, trời đất và vũ trụ. + Cuộc chiến diễn ra rất quyết liệt. Mtao Mxây đã đuốĩ sức, hắn bảo Hơ Nhị quăng cho hắn một miêhg trầu. Nhưng Đăm Săn nhanh hơn đoạt được miếng trầu ấy. Chàng nhai trầu và sức lực tăng lên gấp bội, chàng tiếp tục chiến đấu với sức mạnh mới. Sự xuất hiện của nàng Hơ Nhị và miếng trầu vào thời điểm cuộc chiến đang quyết liệt có ý nghĩa đặc biệt. Nàng là vỢ chính thức của Đăm Săn. Nay nàng đang lâm vào cảnh bị bắt cóc. Đối với Mtao Mxây, nàng chỉ là một thứ của cải mà hắn đoạt được sau vụ cướp bóc chứ giữa nàng và hắn không có chút tình nghĩa vỢ chồng. Miếng trầu “nên duyên vợ chồng” của Hơ Nhị với Đăm Săn không thể trao vào tay kẻ thù. Hơ Nhị trở thành trợ thủ trao vật thần kì cho Đăm Săn. Tình yêu đã tiếp thêm sức mạnh cho chàng, chàng phóng giáo trúng đùi Mtao Mxây nhưng không thủng. Hiệp đấu thứ hai : + Đăm Săn đã làm tất cả những gì có thể nhưng chưa giành được chiến thắng vì Mtao Mxây được bảo vệ bởi lớp áo giáp sắt. Đăm Săn thấm mệt, chàng vừa chạy vừa ngủ, mộng thấy ông Trời. Chi tiết này có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện quan niệm về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân vật anh hùng chống lại đối thủ luôn được sức mạnh siêu nhiên trợ giúp. Chi tiết trợ giúp của ông Trời rất gần với sự tham gia của các vị thần trên đỉnh ô-lim-pi-a vào cuộc chiến thành Tơ-roa được ghi lại trong hai trường ca I-liát và Ô-đi-xê. + Hiệp đấu thứ hai kết thúc với chiến thắng vẻ vang của Đăm Săn. Mtao Mxây thất thế chạy trốn thật thảm hại. Hắn rúc vào cả chuồng lợn, chuồng trâu và cất lời cầu xin Đăm Săn : “ơ diêng, ơ điêng, để ta làm lễ cầu phúc cho điêng một trâu ! Ta cho thêm díêngmột voi.”. + Trước khi đâm chết và cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường, Đăm Săn đã tuyên án hắn. Tội ác của Mtao Mxây trời không dung, đất không tha, dù ở thời nào con người cũng không chấp nhận. Hắn đáng bị trừng phạt như vậy. Việc bêu đầu hắn ngoài đường là để răn đe những kẻ nào rắp ranh phản bạn và cướp phá buôn làng. Hành Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 10 Đề cương văn 10, Học kì 1 động của Đăm Săn không thể hiện sự dã man, khát máu nên được dân chúng tán thành, ủng hộ. 2. Đăm săn chiến thắng trở về a. Thái độ và hành động của Đăm Săn với tôi tớ của Mtao Mxây Mục đích của cuộc chiến là bảo vệ danh dự của tù trưởng anh hùng, danh dự của bộ tộc, là để cứu vợ, trừng phạt kẻ cướp, đem lại sự yên ổn cho dân Mục đích cao cả ây, Đăm Săn đã đạt được. Chàng có thể kéo quân trở về trong hào quang chiên thắng. Trong toàn bộ tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng, qua lời người dẫn truyện và lời nói của Đăm Săn, không có chi tiết nào nói về việc Đăm Săn gây chiếh để cướp bóc và chiếm đoạt nô lệ. Đó không phải là mục đích chiến đấu của chàng. Khi tù trưởng Mtao Mxây đã bị tiêu diệt, tôi tớ của hắn như rắn không đầu (họ cần một tù trưởng anh hùng bảo vệ và dẫn dắt, cần có một cộng đồng để hoà nhập, để có cuộc sống yên vui, thịnh vượng) ; Đăm Săn không cưỡng bức, không ép buộc tôi tớ của Mtao Mxây theo mình. Chàng kêu gọi và cho họ quyền tự định đoạt số phận của mình. Lòng nhân hậu, đức khoan dung của Đăm Săn đã giảm bớt nỗi đau khổ cho dân làng trong chiến tranh và hoàn toàn thuyết phục họ tự nguyện theo chàng. b. Thái độ và hành động của tôi tớ, dân làng Mtao Mxây Đây là chiến tranh giữa các nhóm đồng tộc, cho nên sau khi tù trưởng thù địch bị tiêu diệt thì tù trưởng chiến thắng có thể dung nạp tôi tớ của kẻ thù, cũng như người dân phía bên kia có thể hoà nhập vào bộ tộc mới một cách nhanh chóng. Vì thế, khi nghe lời kêu gọi của Đăm Săn và cảm phục trước khí phách anh hùng, tài năng, sức manh của Đăm Săn, cảm mến đức khoan dung của chàng, tôi tớ, dân làng Mtao Mxây đã tự nguyện theo Đăm Săn để bắt đầu một cuộc sống mới. Tác giả dân gian miêu tả cảnh “chuyên nhà” của họ với một cảm xúc hào hứng, say mê : “Đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiên như mối. Bà con xem, thế là Đăm Săn nay càng thêm giàu có, chiêng lắm la nhiều. Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nừớc, như vò vẽ đi chuyên hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước”. Qua đây, ta càng thấy vai trò quyết định của thủ lữửi trong chiến tranh và đời sông xã hội thời bộ lạc, thấy được sự thông nhất cao độ giữa cá nhân anh hùng sử thi với cộng đồng bộ tộc. 3. Lễ ăn mừng chiến thắng Trong đoạn trích có hai cảnh được miêu tả rõ rệt : cảnh chiến tranh và cảnh ăn mừng chiến thắng. Tác giả dân gian đã miêu tả cảnh ăn mừng chiến thắng với cảm hứng mê say, nhiệt thành, thể hiện thái độ, cách nhìn nhận về ý nghĩa thời đại của chiến tranh bộ tộc và tầm vóc lịch sử của người anh hùng sử thi trong sự phát triển của cộng đồng. Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 11 Đề cương văn 10, Học kì 1 Lễ cúng người chết và thần linh, lễ ăn mừng chiến thắng Đã có chiến tranh, tất yêu có đổ máu ỏ cả hai phía. Tác gia dân gian không miêu tả tỉ mỉ, rùng rỢn cảnh máu đổ, nhưng người đọc phải ngâm hiêu điều này. Tưởng nhớ và biết ơn người hi sinh là việc nghĩa. Lễ cứng người chêt sau chiên thắng là một nghi lễ mang tính nhân đạo (đã được ông Trời, các vị thần linh và hương hồn của tổ tiên, ông bà tiếp thêm sức mạnh chiên thắng thì cũng phải biết ghi lòng tạc dạ). Lễ cúng thần linh, tạ ơn tổ tiên là nghi lễ tri ân rất thiêng liêng thể hiện ý thức xây đắp truyền thống của các tộc người Tây Nguyên. Nghi lễ này mang ý nghĩa chiến tranh bộ tộc và tầm vóc lịch sử của người anh hùng trong sự phát triển của bộ tộc. Chiến tranh thời bộ tộc không nhằm hủy diệt sự sống mà là một việc tất yếu để bảo vệ và phát triển cuộc sống trong hoà bình. Vì vậy, sau chiến thắng của Đăm Săn, khi tiếng khiên giáo vừa dứt, cái ác, cái xâu, cái ti tiện, thấp hèn bị quét sạch, thì cuộc sống lại tưng bừng như hội. Lễ vật cúng thần, cúng tổ tiên thật hậu để mong muốn những điều thánh thiện : cầu sức khoẻ, cầu bình yên, cầu thịnh vượng. Lễ ăn mừng thật tưng bừng, đầy đủ vật chất, sang trọng về tinh thần, tràn ngập niềm vui, cả một cộng đồng hoà nhập thành một khối trong niềm vui ở tương lai. + Tiếng cồng chiêng thể hiện sức mạnh tình thần, niềm vui sông của cộng đồng. + Khách khứa, dân làng, tôi tớ của Đăm Săn “đông nghịt” được đón tiếp trọng thể và ăn uống no say thoả thích. Khẳng định tầm vóc lịch sử của người anh hùng trong sự phát triển của cộng đồng Đăm Săn là niềm tự hào của bộ tộc, là kết tính vẻ đẹp, tài năng, sức manh, ý chí của cộng đồng. Trong bối cảnh của ngày hội chiến thắng, chàng hiện lên thật đẹp, vẻ đẹp của một dũng sĩ. Sức mạnh của Đăm Săn “ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tưa sâm dậy”. Đăm Săn có lòng dũng cam vô song, là một nhân cách vẹn toàn, luôn đi đầu trong công việc. Đăm Săn chiến thắng Mtao Mxây, chàng vừa bảo vệ được hạnh phúc gia đình, vừa mang lại sự giàu mạnh và uy danh cho cộng đồng. Đăm Săn có sức lôi cuốn các nhân vật quần chúng. Mối quan hệ qua lại giữa vai trò của cá nhân và cộng đồng tạo nên ý nghĩa biểu trưng của hình tượng anh hùng sử thi : sức mạnh, lí tưởng của Đăm Săn biểu trưng cho sức mạnh và lí tưởng của cộng đồng. 4. Những điểm nổi bật về nghệ thuật sử thi thể hiện trong đoạn trích Nghệ thuật xây dựng nhân vật sử thi Mỗi nhân vật sử thi đều có vai trò đối với diễn biến của các sự kiện sử thi. Nhân vật Mtao Mxây với hành động cướp bóc buôn làng của Đăm Săn, bắt cóc vợ Đăm Săn là nguyên nhân của cuộc chiến. Mtao Mxây thuộc loại nhân vật phản diện. Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 12 Đề cương văn 10, Học kì 1 Nhân vật Đăm Săn là nhân vật trung tâm của sử thi, quyết định sự diễn biến của cốt truyện sử thi, có sức thuyết phục, lôi cuốn các nhân vật quần chúng. Nhân vật ông Trời và Hơ Nhị đóng vai trò nhân vật trợ thủ của anh hùng. Ông Trời là nhân vật trợ thủ thần kì, Hơ Nhị là nhân vật trợ thủ trao vật thần kì. Hành động trợ thủ của những nhân vật này thê hiện quan niệm về cuộc chiến đấu chírth nghĩa của nhân vật anh hùng. Nhân vật quần chúng đóng vai trò hậu thuẫn cho nhân vật anh hùng, bị lôi cuốn bởi những phẩm chất phi phàm của nhân vật anh hùng. Mối quan hệ giữa nhân vật anh hùng và nhân vật quần chúng tạo nên ý nghĩa biểu trưng : người anh hùng sử thi biểu trưng cho sức mạnh, lí tưởng của cả cộng đồng. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của sử thi anh hùng Ngôn ngữ của người kể khá sinh động, lỉnh hoạt. Khi miêu tả nhà Mtao Mxây, chân dung Mtao Mxây, động tác chiến đấu và diễn biến của giao tranh, miêu tả vẻ đẹp của Đăm Săn, khung cảnh tôi tớ theo Đăm Săn và không khí lễ hội chiên thắng,.. ; tác giả dùng ngôn ngữ lúc thì trang trọng, giàu hình ảnh nhịp điệu, lúc thì dùng phép so sánh, phóng đại. Ngôn ngữ đôì thoại của các nhân vật được sử dụng nhiều và linh hoạt, giàu tính kịch. Những câu ra lệnh, kêu gọi tạo nên không khí hùng tráng. Trong ngôn ngữ người kể chuyện có xen vào ngôn ngữ đối thoại của người kể để lôi cuốn người nghe, truyền cảm xúc cho người nghe. BÀI TÂÂP: Sau khi học đoạn trích “ Chiến thắng Mtao Mxây ” (trích sử thi Đăm Săn). Anh ( chị ) hãy tưởng tượng mình là Đăm Săn để kể lại trận đánh với Mtao Mxây? 1. Mở bài: a. Đăm Săn tự giới thiệu về mình và kể về hoàn cảnh dẫn đến cuộc chiến. b. Đăm Săn giới thiệu chung về việc mình chiến thắng Mtao Mxây. 2. Thân bài: Đăm Săn kể lại diễn biến trận đánh: a. Đăm Săn khiêu chiến và sự đáp lại của Mtao Mxây: - Đăm Săn khiêu chiến với một thái độ quyết liệt và tự tin ở tài năng của mình. - Mtao Mxây tỏ ra ngạo nghễ, chọc tức, nhưng liền sau đó tỏ ra run sơ, do dự, đắn đo. b. Trình bày diễn biến cuộc chiến qua bốn hiệp: - Hiệp một: + Trong khi Mtao Mxây múa khiên trước, Đăm Săn vẫn giữ thái độ bình tĩnh, thản nhiên →Thể hiện bản lĩnh của Đăm Săn. + Mtao Mxây đã lộ rõ sự kém cỏi nhưng vẫn nói những lời huênh hoang. - Hiệp hai: Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 13 Đề cương văn 10, Học kì 1 + Đăm Săn múa khiên làm cho Mtao Mxây hốt hoảng trốn chạy với bước cao bước thấp →Thể hiện sức mạnh của Đăm Săn và sự yếu sức của Mtao Mxây. + Mtao Mxây cầu cứu HơNhị quăng cho miếng trầu→càng yếu sức. + Đăm Săn đớp được miếng trầu→sức chàng tăng lên. - Hiệp ba: + Đăm Săn múa dũng mãnh hơn và đuổi theo Mtao Mxây. + Đăm Săn đâm trúng Mtao Mxây nhưng áo của hắn không thủng. Chàng phải cầu cứu thần linh. - Hiệp bốn: Đăm Săn được thần linh giúp sức, đuổi theo và giết chết kẻ thù. 3. Kết bài: Kể kết thúc cuộc chiến ... Đã từ lâu, tù trưởng Mtao Mxây nổi tiếng giàu có khắp vùng cao nguyên hùng vĩ. Hắn cậy thế mạnh nên cho đám đầy tớ đến cướp vợ tôi là Hơ Nhị mang về nhà trong lúc tôi đi vắng. Nghe tin, tôi vội vã vác khiên đi tìm hắn. Nhà Mtao Mxây rất lớn, đầu sàn hiên đẽo hình mặt trăng, đẩu cầu thang đẽo hình chim ngói. Ngôi nhà của lão tù trưởng này quả là đẹp. cầu thang rộng bằng một lá chiếu, người nối đuôi nhau lên xuống mà khiêng một ché rượu lớn vẫn không sợ chật. Tôi bắc tay lên miệng gọi to: "Mxây xuống đây! Ta thách nhà ngươi đọ dao với ta đấy!”. Mxây nói vọng ra: “Ta không xuống đâu. Tay ta còn đang bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà !” Tôi tức giận thét lên: “Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên của nhà ngươi bổ đôi, ta sẽ lấy cái cầu thang của nhà ngươi chẻ ra kéo lửa, ta hun cối nhà của ngươi cho mà xem!". Mxây biết tính tôi xưa nay nói là làm nên hoảng hốt hứa rằng từ từ sẽ xuống, chỉ xin tỏi đừng đâm hẳn lúc hắn xuống cầu thang. Tôi cười nhạt bảo rằng đến con lợn nái của hắn ở dưới đất tôi cũng chẳng thèm đâm nữa là. Mtao Mxây buộc phải ra mặt. Bà con trong buôn kéo đến xem rất đông. Cái khiên của hắn tròn như đầu cú, lưỡi gươm của hắn óng ánh bày sắc cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một hung thần. Hắn đóng cái khố sọc gấp bỏ múi, mặc một cái ảo dày nút, đi từ nhà trong ra nhà ngoài, dáng tần ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo giữa một đám đông mịt mù như sương sớm. Tôi thách thức: “Ngươi múa trước đi!”. Hắn đáp: “Ngươi mới là người mua trước. Ta như gà làng mới mọc cựa kli-ê, như gà rửng mới mọc cựa ê-chăm chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh". Tôi giục thêm lần nữa, Mtao Mxây rung khiên múa. Cái khiên của hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô. Mặc cho hắn múa, tôi không nhúc nhích. Tôi bật cười khinh bỉ: “Ngươi múa một mình, múa kêu lạch xạch như quả mướp khô. Miếng múa ấy, ngươi học ai vậy? Ngươi múa chơi đấy phải không?". Chạm tự ái, Mtao Mxây trả lời: “Ta học ai à? Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng". Tôi khiêu khích: “Thế ư? Ta thì đâu có cậu mà học cậu, đâu có bác mà học bác! Chỉ cỏ hai ta đây, ngươi múa đi ta xem nào!”. Mxây hùng hổ quát: “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 14 Đề cương văn 10, Học kì 1 binh, đã quen xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?”. Tôi chỉ thẳng vào mặt hắn : “Vậy thì ngươi hãy xem ta đây!" rồii vung khiên múa. Một lần xốc tới, tôi vượt qua một quả đồi. Một lần xốc tới nữa, tôi vượt một đồi lồ ô. Tôi chạy vun vút sang phía Đông, sang phía Tày. Còn Mtao Mxây thì bước cao bước thấp chạy hết bãi Tây lại sang bãi Đông. Hắn vung dao chém phập một nhát nhưng lại trúng cái chão cột trâu. Tôi chế giễu hắn: “Sao ngươi lại chém cái chão cột trâu? Còn khoeo chân ta, ngươi dành làm gi ?". Đến lúc này, Mtao Mxây bảo Hơ Nhị quăng cho hắn một miếng trầu, nhưng tôi đã đớp được miếng trầu ấy và nhai ngấu nghiến. Sức mạnh trong tôi tăng lên gấp bội. Tôi bảo Mxây: “ Bây giở ngươi lại chạy, ta đuổi coi !”. Hắn bỏ chạy, tôi rượt theo, vừa rượt vừa múa khiên. Trên cao, gió thổi như bão. Tôi múa dưới thấp, gió như lốc cuốn. Chòi lẫm đổ lăn lóc, cây cối chết rụi. Tiếng khiên của tôi vang lên như tiếng khiên đồng, khiên kênh. Tôi chạy nước kiệu. quả núi ba lẩn rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung. Cây giáo thần chứa đầy những oan hồn của tôi nhắm đùi Mtao Mxây phóng tới. Tôi đâm trúng đùi hần nhưng đùi hắn không thủng. Tôi đâm trúng người hắn, người hắn cũng không thủng. Tôi đã thấm mệt, vừa chạy vừa ngủ và mơ thấy ông Trời. Tôi than thở: “Ối chao, chết mất thôi, ông Trời ơi! Cháu đâm mãi mà không thủng hắn!”, ông Trời bảo: “Thế ư, cháu? Vậy thl cháu hãy lấy một cái chày mòn ném vào vành tai hắn là được”. Tôi bừng tỉnh, chộp ngay cái chày mòn, ném trúng vào vành tai kẻ địch. Cái giáp của Mtao Mxây tức thì rơi loảng xoảng. Hẳn tháo chạy. Hắn tránh quanh chuồng lợn, tôi phá tan chuồng lợn. Hắn tránh quanh chuống trâu, tôi phá lan chuồng trâu. Cuổi cùng, hắn mệt quá ngã lăn quay ra đất. Hắn lạy van rối rít: “Tha cho ta, ta sẽ làm lễ cầu phúc cho ngươi một con trâu, ta sẽ cho ngươi thêm một con voi!”. Tôi chưa nguôi cơn giận, liền vặn hỏi hắn: "Sao ngươi lại cúng trâu cầu phúc cho ta? Chẳng phải vợ ta ngươi đã cướp, đùi ta ngươi đã đâm rồi sao?”. Dửt lời, tôi cắt đầu Mtao Mxây đern bêu ngoài đường rồi hỏi bà con, tôi tớ trong buôn làng của hắn là có bằng lòng di theo tôi không. Mọi người đồng ý. Tôi hô to: “ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! ơ tất cả tôi tớ bằng này! Chúng ta ra về nào!". Đoàn người đông đúc ủn ùn kéo theo sau tôi đông như kiến tha mồi. Thế là từ đó, tôi trở thành tù trưởng giàu có nhất, hùng mạnh nhất. Tôi mở tiệc tùng linh đinh, ãn uống đông vui kéo dài suốt cả mùa khô. Cho đến lúc rượu đã nhạt, ché đã phai , khách mới lần lượt ai về nhà nấy. ( Bài viết trên Inter net) 5. TRUYÊÂN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỴ CHÂU TRỌNG THỦY KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Tóm tắt : Sau khi giúp An Dương Vương xây dựng xong Loa Thành, trước khi ra về, thần Kim Quy còn tặng cho chiếc vuốt để làm lẫy nỏ thần. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà khi chúng sang xâm lược. Triệu Đà cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thuỷ, vua vô tình đồng ý. Trọng Thuỷ dỗ Mị Châu cho xem Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 15 Đề cương văn 10, Học kì 1 trộm nỏ thần rồi ngầm đổi mất lẫy thần mang về phương Bắc. Sau đó, Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc. Không còn nỏ thần, An Dương Vương thua trận, cùng Mị Châu chạy về phương Nam. Thần Kim Quy hiện lên kết tội Mị Châu, vua chém chết con rồi đi xuống biển. Mị Châu chết, máu chảy xuống biển thành ngọc trai. Trọng Thuỷ mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch. Vì quá tiếc thương Mị Châu, Trọng Thuỷ lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc trai, rửa bằng nước giếng ấy thì ngọc trong sáng thêm. 2. Truyền thuyết là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố lịch sử và yếu tố tưởng tượng hoang đường. Nó phản ánh quan điểm đánh giá, thái độ và tình cảm của nhân dân về các sự kiện lịch sử và các nhân vật lịch sử. 3. Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là câu chuyện về bi kịch mất nước của cha con An Dương Vương và bi kịch tình yêu của Mị Châu - Trọng Thủy. Từ câu chuyện ấy, nhân dân ta muốn rút ra và truyền lại cho con cháu các thế hệ sau bài học lịch sử về ý thức đề cao cảnh giác với âm mưu xâm lược của kẻ thù. Phân tích 1. Nhân vâ Ật An Dương Vương Truyện có thể chia làm hai phần. Phần một (từ đầu đến… không dám đốc chiến bèn xin hoà): An Dương vương xây thành, chế nỏ giữ nước. Phần còn lại: Bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thuỷ gắn liền với thất bại của nước Âu Lạc. Cả hai phần của truyện đều thể hiện rõ nhận thức và thái độ của nhân dân đối với vai trò và trách nhiệm của cha con An Dương Vương trước lịch sử. a. An Dương Vương xây thành, chế nỏ thần, đánh Triê uẬ Đà An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của mười tám đời Hùng Vương. Thời ấy, Văn Lang đã cố bờ cõi và nền văn hiến riêng. Vì vậy, việc chống giặc giữ nước là vấn để sống còn của dân tộc. An Dương vương đã tiến hành dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu (Phú Thọ) vể vùng đổng bằng Phong Khê (Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để phát triển sản xuất và mò rộng lưu thông rồi bắt tay ngay vào việc xây thành. Đó là quyết sách đúng đắn chứng tỏ trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương. Việc xây thành bằng đất gặp nhiều khó khăn. Chuyện kể rằng thành cứ đắp ban ngày thì ban đêm lại đổ, xây mãi không xong. Người xưa giải thích hiện tượng ấy là do sự phá hoại của ma quỷ. Lược bỏ yếu tố hoang đường, ta có thể thấy những khó khăn trong thực tế mà An Dương vương gặp phải khi tiến hành công việc xây thành. Đó là do ông chưa nắm được đặc điểm của đất đồng bằng, do kĩ thuật còn hạn chế và chưa biết dựa vào sức dân. Sau này, được sứ Thanh Giang tức Rùa Vàng giúp đỡ, An Dương Vương xây thành chi trong vòng nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 16 Đề cương văn 10, Học kì 1 hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,… thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc xây Loa Thành của An Dương vứơng là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chủng ủng hộ. An Dương Vương trước hết là một nhà quân sự xuất sắc. Ông đã biết xây thành cao, đào hào sâu để bảo vệ kinh đô. An Dương Vương được Cao Lỗ hỗ trợ trong việc chế tạo ra cung nỏ để chống quân xâm lược. Sức mạnh của thứ vũ khí ấy đã được các tác giả dân gian kì diệu hoá, thần thánh hoá bằng hình tượng nỏ thần. Hình tượng then chốt của truyện là chiếc lẫy thần. Rùa Vàng giúp vua xây xong Loa Thành và cho nhà vua vũ khí để bảo vệ đất nước. Nỏ thắn tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, tượng trưng cho trí tuệ, sức mạnh và khát vọng chiến thắng ngoại xâm của tổ tiên ta thuở ấy. Chiếc nỏ thẩn có khả năng bắn một phát giết hàng vạn giặc vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng, vừa phản ánh trình độ chế tạo và sủ dụng vũ khí chiến đấu của người Âu Lạc. Quân ta đã chế tạo ra cung nỏ và đúc được mũi tôn bằng đồng. Vũ khí ấy tuy thô sơ nhưng không kém phần lợi hại trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, vì An Dương Vương có nỏ thần trong tay nên quân Triệu Đà thua to, không dám đối đầu, bèn xin hoà. Chiến thắng của An Dương vương chứng tỏ sức mạnh quân sự của nhá nước Âu Lạc lúc bấy giờ, đồng thời khẳng định ý chí, tình thần đoàn kết của nhân dân ta. Đây là bài học tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. b. An Dương Vương để mất nước Sau chiến thắng, An Dương vương sinh ra chủ quan, quên rằng nguy cơ xâm lược của kẻ thù phương Bắc luôn luôn tồn tại. Chúng ta đau xót cho cha con An Dương vương vì sai lầm tai hại nên dẫn đến thảm hoạ mất nước. Nhà vua không phân tích được hành động cầu hoà rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà thực chất là âm mưu thâm độc, chuẩn bị cho cuộc xâm lược tiếp theo. Thất bại của An Dương vương không phải chờ tới khi quân giặc tiến đến chân thành mới bộc lộ, mà bộc lộ ngay từ Khi nhà vua mất cảnh giác, đồng ý cho Trọng Thuỷ vào thành. Ông đã bằng lòng gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ, lại còn cho ở rể, việc đó có khác chi “Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”?! Đây là sự hoà hiếu thiếu cảnh giác, tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ thù phá từ trong phá ra. Mầm mống mất nước khởi nguồn từ đây. Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 17 Đề cương văn 10, Học kì 1 Sau chiến thắng, An Dương Vương không quan tâm đến việc củng cố lực lượng, không dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân để chống giặc mà lại ỷ vào vũ khí, vào sự hỗ trợ của thần linh, Những nhược điểm ấy khi kẻ thù nắm được tất dẫn đến thất bại không thể tránh khỏi. Nghe tin báo Triệu Đà lại cất quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương cậy có nỏ thần vẫn điểm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?". Thái độ chủ quan khinh địch đó đã dẫn An Dương Vương nhanh chóng đến thất bại thảm hại. Tới khi giặc đã tiến sát chân thành, An Dường Vương mới cẩm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy; Trong cơn cùng quẫn, An Dương Vương chi còn cách đem theo con gái lên ngựa, bỏ thành mà chạy về phương Nam. Cha con An Dương Vương đã cùng đường mà quân thù thì cứ theo dấu lông ngỗng của Mị Châu rắc dọc đường truy đuổi sát sau lưng. Quả là cha con An Dương Vương đã mất thế trời che, đất chở. Khi Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó thì An Dương Vương mới tỉnh ngộ. Đây là lời kết tội đanh thép của công lí, của nhân dân về hành động vô tình phản quốc của Mị châu. Nhà vua tự tay chém chết cô con gái yêu dấu, cũng là tự xử một cách nghiêm khắc, quyết liệt đối với sai lầm của bản thân. Nhưng tất cả đểu đã quá muộn màng. Câu chuyện kết thúc thật bi thảm! Hành động rút gươm chém Mị Châu thể hiện lập trường dứt khoát của An Dương Vương lá đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xử án, đổng thời thể hiện sự tĩnh ngộ muộn màng trước lỗi lầm nghiêm trọng của mình. Đây là cái giá mà ông phải trả cho sai lầm không thể sửa chữa, liên quan đến vận mệnh đất nước và dân tộc. Hai cha con An Đương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác nên đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp và đẩy Âu Lạc vhò thảm hoạ mất nước. Đó là bài học xương máu về thái độ mất cảnh giác dối với kẻ thù dành cho những người đứng đầu, chịu trách nhiệm về sự tổn vong của quốc gia. Hình ảnh An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, theo Rùa Vàng xuống thuỷ phủ là yếu tố kì ảo phản ánh thải độ và tìm cảm cuá nhân dân đối với ông. Nhân dân thương tiếc vị vua tài ba, ann dũng nên không muốn ông chết. Chi tiết lòng biển bao dung đón người anh hùng bất tử thể hiện sự ngưỡng mộ và thương tiếc của người xưa. An Dương Vương đã tự tay chém đầu người con gái duy nhất của mình. Cách xử lí này hoàn toàn phù hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc ta. Nó thể hiện lòng bao dung của dân tộc đối với những đứa con lầm lỗi nhưng đã biết cúi đầu hối hận và chịu Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 18 Đề cương văn 10, Học kì 1 tội. Trước đất nước, nhân dân, cách hành xử của nhà vua là đầy trách nhiệm. Thế nhưng về tình nhà, An Dương Vương chắc chắn cũng vô cùng đau đớn. Việc để cho hai cha con đoàn tụ bên nhau (khi chết) là cái kết hợp tình hợp lí và nhân hậu của nhân dân ta. 2. Nhân vâ Ật Mỵ Châu – Trọng Thủy Mị Châu sai lầm ờ tình yêu mù quáng nên vô tình đã tự biến mình thành tòng phạm với giặc. Nàng ngây thơ chân thật đến mức nhạ dạ cả tin. Nàng dám giấu cha cho Trọng Thuỷ xem trộm nỏ thần mà quên rằng đó là con trai của kẻ thú. Từ đó, Mị Châu đã tiếp tay cho Trọng Thuỷ đánh cắp bí mật vũ khí lợi hại của quốc gia, dẫn tới thảm hoạ đất nước rơi vào tay giặc. Trên đường trốn chạy, nàng lại tiếp tục rắc lông ngỗng chĩ đường cho giặc truy đuổi vua cha. Hai hành động ấy của Mị Châu là trọng tội. Nhiều người cho rằng những hành động trên là vô tình nhưng xét cho cùng thì vl Mị Châu quá tin yêu Trọng Thuỷ nên đã mù quáng nghe theo lời chồng. Rùa Vàng gọi đích danh nàng là giặc quả không sai vì nàng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Trọng Thuỷ là nhân vật đáng thương nhưng cũng thật đáng ghét. Chàng chấp nhận làm công cụ thực hiện ý đồ xâm lược của cha. Tuy là con rể An Dương vương nhưng thực chất Trọng Thuỷ là tên gián điệp lợi hại cài vào đất Âu Lạc, Bằng mọi thủ đoạn xảo quyệt, Trọng Thuỷ đã lừa Mị Châu để đánh tráo lẫy thần, sau đó nói dối là về thăm cha để mang lẫy thần về nước. Triệu Đà có được lẫy thần, cả mừng liền cất binh sang đánh chiếm Âu Lạc một lần nữa. Trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng tin chổng thì Trọng Thuỷ lại lừa dối nàng và rắp tâm chiếm đoạt lẫy thần. Tuy vậy, những ngày ở Loa Thành, sống bên người vợ đẹp người, ngoan nết, Trọng Thuỷ đã nảy sinh tình yêu thật sự với Mị Châu. Mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thuỷ là tham vọng chiếm được Âu Lạc và tham vọng trọn tình với người đẹp cũng bắt đầu nảy sinh. Nhưng hai tham vọng đó không thể dung hoà. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ Trọng Thuỷ phải vui hưởng vinh quang thì chàng lại đau khổ đến mức tự tử vì ân hận và thương tiếc Mị Châu. Trọng Thuỷ tự tử vì hiểu ra rằng không thể giải quyết mâu thuẫn gay gắt trong con người mình. Cái chết của chàng đã gợi chút xót xa, tội nghiệp trong lòng mọi người. Mối tình Mị Châu – Trọng Thuỷ éo le là do luôn bị âm mưu xâm lược của Triệu Đà chi phối. Vì vậy, kết thúc bi thảm của mối tình đó thực sự mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Tình yêu Mị Châu – Trọng Thuỷ thắm thiết nhưng bi thầm. Nhân dân ta không ca ngợi, mà chỉ dành cho họ một niềm thương xót vì hạnh phúc lứa đôi của họ bị chiến tranh làm cho tan vỡ. Mối oan tình ấy đã được đển bù bằng hình ảnh ngọc trai, giếng Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 19 Đề cương văn 10, Học kì 1 nước. Đây là hình ảnh thể hiện thái độ phản kháng chiến tranh xâm lược, là tiếng nói nhân đạo và cũng là cách kết thúc có hậu của truyện cổ. 3. "Cốt lõi lịch sử" của truyện là việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa và sự thực về sự thất bại của Âu Lạc trước sự xâm lược của Triệu Đà. Cái cốt lõi ấy đã được dân gian làm cho sinh động bằng việc thêm vào nhiều sự việc chi tiết thần kì như chuyện xây thành, chế nỏ; chuyện về cái chết của An Dương Vương và của Mị Châu; chi tiết về “ Ngọc trai - giếng nước”…. Chính việc thêm vào truyện các chi tiết thần kì này đã giúp cho câu chuyện thêm hấp dẫn và sinh động. Nó cũng thể hiện một cái nhìn bao dung của nhân dân ta với các nhân vật lịch sử và với tất cả những gì đã xảy ra. 4. Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, cho đến tận ngày nay vẫn chiếm được cảm tình của người đọc. Người ta đọc truyện để hiểu về lịch sử, để rút ra những bài học bổ ích cho mình và cho con cháu đời sau. Nhưng không chỉ thế, đọc truyền thuyết này, người ta còn muốn hiểu sâu sắc hơn bi kịch của một mối tình rất đẹp trong lịch sử. Sức sống của truyền thống An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy còn khơi nguồn cho những cảm hứng thi ca. Các tác giả như Tố Hữu, Trần Đăng Khoa... đều đã có những sáng tác lấy cảm hứng từ tác phẩm này. Ví dụ trong bài thơ "Tâm sự" rút trong tập thơ "Ra trận" của nhà thơ Tố Hữu, có đoạn viết: ... Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu, Trái tim lầm lỡ để trên đầu. Nỏ thần vô ý trao tay giă Ậc Nên nỗi cơ đồ đắm biểu sâu... ĐỀ LUYÊÂN TÂÂP : Đề 1 : Hãy kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, bằng lời của anh (chị) với một kết thúc khác với kết thúc của tác giả dân gian I. DÀN Ý 1. Mở bài: • Giới thiệu về hoàn cảnh xảy ra câu chuyện: - An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng vương; đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu xuống Phong Khê (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay). 2. Thân bài: Người soạn : Cô Thu Trang, Website : http://thutrang.edu.vn/ Page 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan