Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học đề cương ôn tập ngữ văn 11 học kỳ i...

Tài liệu đề cương ôn tập ngữ văn 11 học kỳ i

.DOC
51
1512
134

Mô tả:

VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH A, Đề 01: Phân tích đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Trích: Thượng kinh kí sự- Lê Hữu Trác) I, Mở bài - Giới thiệu những nét chính về tác giả: Lê Hữu Trác là một danh y đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong công trình “Hải thượng y tông tâm lĩnh”. Tác phẩm gồm 66 quyển, biên soạn trong 40 năm, vừa mang giá trị y học - là công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời trung đại của Việt Nam, vừa mang giá trị văn học sâu sắc. - Giới thiệu đoạn trích: “ Vào phủ chúa Trinh” là một đoạn trích trong tác phẩm Thương kinh ký sự của danh y Lê Hữu Trác. Đoạn trích là một bức tranh sinh động về quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa, đồng thời thấy được một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng lãn ông Lê Hữu Trác và nghệ thuật viết kí sự bậc thầy của ông. II, Thân bài 1, Quang cảnh nơi phủ Chúa: a, Phủ chúa là một chốn thâm nghiêm, kín cổng cao tường, vô cùng xa hoa, tráng lệ. - Từ cửa sau để đến được nơi ở của chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau”. - Thiên nhiên: hài hòa, thơ mộng. Trong phủ chúa, khắp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. - Kiến trúc: xinh đẹp, lộng lẫy, tráng lệ… + Phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực”, một công trình kiến trúc kiểu cách, biểu thị cho chốn tráng lệ, xa hoa. Điếm được làm bên hồ, có “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, với những cái “cột và bao lơn lượn vòng”. + Nhưng không chỉ có vậy, qua “cửa lớn” sau điếm Hậu Mã, đi theo hành lang phía tây, người đọc còn thấy được hai công trình kiến trúc to lớn và uy nghi khác. Đó là nhà “Đại đường” (hay còn gọi là Quyền bồng) và Gác tía. Cả nhà “Đại đường” và “Gác tía” đều là những nơi xa hoa, lộng lẫy, “thật là cao và rộng” và ánh lên ánh sáng hào nhoáng của sơn son thếp vàng. - Đồ vật: từ mâm vàng, chén bạc, đến những vật như kiệu của vua chúa, đồ nghi trượng, bàn ghế, sập, võng, cột,... hết thảy đều là những thứ nhân gian chưa từng thấy. - Đồ ăn: toàn những của ngon, vật lạ cũng là “chưa tùng thấy trong nhân gian”. - Lộng lẫy, xa hoa nhất trong phủ chúa phải kể đến nội cung, nơi ở của cha con thế tử. + Nội cung của thế tử là một chốn thâm cung. + Đường đi: từ ngoài đi qua năm, sáu lần trướng gấm, tối om, “không thấy cửa ngõ gì cả”. + Quang cảnh: “nệm gấm”, “màn là”, “đèn sáp” lấp lánh, “ghế rồng sơn son thếp vàng”, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. - Sự giàu sang của phủ chúa khiến tác giả cũng phải ngỡ ngàng mà thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây”. Vốn sinh trưởng trong một gia đình quan lại... b, Phủ chúa là chốn uy quyền tối thượng. - Tất cả những gì thường thấy chỉ xuất hiện trong cung vua thì nay đều hiện diện ở phủ chúa. Trong phủ chúa, chúa được gọi là thánh thượng, lệnh chúa ban xuống được xem là thánh chỉ, ngọc thể của chúa được gọi là thánh thể,... Mọi đồ nghi trượng, các chức quan đều giống như ở chốn cung đình. - Muốn đến phủ chúa phải có thánh chỉ, có thẻ mới được vào. - Phủ chúa có cả một “guồng máy” phục vụ đông đúc, tấp nập... (giảng văn) 1 - Lời nói: kính cẩn, lễ phép và không được phạm vào lệ “kị húy”. (Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử, hầu trà,...) - Khám bệnh cho thế tử phải tuân theo một loạt những phép tắc: Bắt đầu là đứng ở xa chờ đợi, tiếp đó khi được thế tử cho phép trước khi xem bệnh, thầy thuốc phải quỳ lạy bốn lạy. Muốn được ngồi bắt mạch và xem thân hình bệnh nhân để chẩn đoán thì cần phải được sự cho phép của thế tử. Khi xem bệnh xong, trước khi đi ra còn phải lạy bốn lạy nữa. Tóm lại: Với việc chọn lọc được những chi tiết đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ, tác giả đã ghi lại trong đoạn trích một bức tranh phủ chúa chân thực, có “hồn” và sống động. Đó là một chốn cao sang, uy quyền tột đỉnh với cuộc sống hưởng lạc xa hoa. Bức tranh phủ chua cũng là bức tranh chân thực về cuộc sống của giai cấp trống trị VN trong những năm chế độ phong kiến đang suy tàn. 2. Vẻ đẹp con người LHT: Vẻ đẹp của một lương y giỏi, có kiến thức y học uyên thâm, giàu kinh nghiệm, có lương tâm và y đức cao quý; Vẻ đẹp của một nhân cách thanh cao, khinh thường danh lợi quyền quý, thủy chung với mong ước được bạn bạn cùng thiên nhiên, trọng nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà. Thể hiện: * Thái độ, tâm trạng của tác giả trước cuộc sống nơi phủ chúa. Thấy rõ cảnh giàu sang, lộng lẫy nơi phủ chúa nhưng tỏ ra dửng dưng trước cuộc sống vương giả ở đây và không đồng tình với nó: một cuộc sống quá đầy đủ tiện nghi, xa hoa nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do. *Thái độ, tâm trạng của tác giả khi kê đơn cho thế tử. - Sự khác nhau trong cách chữa bệnh cho thế tử của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường với LHT. + Cách chữa bệnh của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường là “có bệnh thì trước hết phải đuổi bệnh. Khi đã đuổi cái tà đi rồi thì hãy bổ, thì mới là các phép đúng đắn nhất”. + LHT lí giải căn bệnh của thế tử là do “ở trong chốn màn che, trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng yếu đi (...) nguyên khí đã hao mòn, tồn thương quá mức. Đó là căn bệnh có nguồn gốc từ cái xa hoa, no đủ, hưởng lạc trong phủ chúa. Bệnh từ trong mà phát ra, do nguyên khí bên trong không vững mà âm hỏa đi càn. Cho nên cách chữa không phải là “công phạt” mà là “không bổ thì không được”. - Diễn biến tâm trạng: + Đưa ra những luận giải hợp lí và có thể chữa trị hiệu quả ngay căn bệnh của thế tử nhưng nếu chữa khỏi ngay bị danh lợi ràng buộc, không thể “về núi”. Để tránh được chuyện này, ông đã nghĩ đến “phương thuốc hòa hoãn”, chữa bệnh cầm chừng, vô thưởng vô phạt. Nhưng nếu làm thế thì lại trái với y đức, trái lương tâm, phụ lòng ông cha. Hai suy nghĩ này giằng co, xung đột nhau. Cuối cùng, lương tâm, phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã chiến thắng. Tác giả đã gạt sang một bên sở thích cấ nhân để làm tròn trách nhiệm và lương tâm người thầy thuốc. Khi đã quyết, ông dám nói thẳng và chữa thật căn bệnh của thế tử. Ông kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình dù ý kiến đó không đồng thuận với ý kiến của các lương y và quan Chánh đường.  Chân dung một nhân cách trong sạch giữa dòng đục của cuộc sống nơi phủ chúa. 3, Nghệ thuật. Nghệ thuật viết kí sự chân thực và sắc sảo: - Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực. - Tả cảnh sinh động. - Đan xen tác phẩm thơ ca tạo cho tác phẩm đậm chất trữ tình. - Tạo nhiều chi tiết đặc sắc. Có thể nói tới Lê Hữu Trác, thể kí văn học đích thực ra đời. 2 III, Kết luận - Khái quát lại nội dung. - Mở rộng vấn đề B, Một số đề văn khác. II, Đề bài 1, Đề 01: Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích, anh (chị) có suy nghĩ gì về nhân cách, khí tiết của một số kẻ sĩ thời phong kiến. Theo anh (chị), nhân cách đó có thể giúp ích được gì cho con người trong cuộc sống hiện nay khi đất nước tiến lên hiện đại hoá, hội nhập cùng thế giới? 2, Đề 02 Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, anh chị có suy nghĩ gì về người thầy thuốc hiện nay? 3, Đề 03 Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, theo anh (chị) chi tiết nào là đặc sắc nhất. Hãy viết lời bình cho chi tiết này trong một đoạn văn ngắn. II, Hướng dẫn: 1, Đề 01: * Nhân cách, khí tiết của một số kẻ sĩ thời phong kiến qua hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích. - Khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do, trọng nếp sống thanh đạm, hoà mình cùng thiên nhiên. + Không mảy may dung động trước tiền tài lợi lộc dù cuộc sống giàu sang, hưởng thụ đang nằm trong tầm tay. + Không những thế còn tỏ thái độ khinh thường cảnh giàu sang, quyền quý. - Là những người có đức độ, lương tâm. Vì người khác sẵn sàng chịu khổ, sẵn sàng hi sinh sở thích của riêng mình. * Tác động của vẻ đẹp nhân cách ấy đối với con người ngày nay. - Giúp con người không vì tiền tài, danh vọng mà lãng quên tất cả. - Có tác dụng tích cực trong việc giáo dục tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội ngày nay. 2, Đề 02: * Vẻ đẹp của lương y Lê Hữu Trác. Có tài, có tâm, có y đức. * Người thầy thuốc trong xã hội hiện nay. - Những mặt tích cực: + Về tài năng + Về y đức - Những mặt tiêu cực. + Chạy theo đồng tiền mà lãng quên y đức. + Vô tâm, vô cảm,... 3, Đề 03 Chi tiết: Thế tử - một đứa bé ốm yếu, bệnh tật – ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ dưới đất lạy bốn lạy, rồi cười và ban một lời khen “Ông này lạy khéo” là một trong những chi tiết đặc sắc nhất của đoạn trích. - Nó cho ta thấy quyền uy tối thượng nơi phủ Chúa. - Biến tất cả những lễ nghi trong phủ chúa thành một trò hề. 3 TỰ TÌNH (II) Đề 01: Cảm nhận về bài thơ “Tự tình” I, Mở bài Trong lịch sử văn học Việt Nam, HXH là một hồn thơ độc đáo: nhà thơ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà đậm chất trữ tình, đậm đà bẳn sắc đân gian, tục mà thanh. Sáng tác của XH gồm cả chữ H và chữ N được tập hợp trong tập “Lưu hương kí”, ngoài ra có trên dưới 40 bài thơ Nôm nữa cũng được tương truyền là của bà. Nổi bật lên trong sáng tác của XH là tiếng nói thương cảm của nữ sĩ đối với người phụ nữ, là lời khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng hạnh phúc của họ trong xã hội xưa. Và trong thế giới nghệ thuật vô cùng độc đáo ấy, “Tự tình (II)” là bài thơ tiêu biểu nhất. Nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài, được sáng tác khi nữ sĩ đã bước vào cuộc đời làm lẽ, bài thơ đã thể hiện tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ. Đồng thời, tìm hiểu tác phẩm ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật bậc thầy của nữ sĩ. II, 1, Hai câu đề: * Câu 01: Khung cảnh nhân vật trữ tình xuất hiện: +Thời gian: “đêm khuya”, khoảng thời gian tâm tư con người sâu lắng nhất. Trong cô đơn, đối diện với chính mình, NVTT cảm nhận được đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, thấm thía nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của chính bản thân mình. +Không gian: mênh mông, vắng lặng càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của NVTT. - Cảm nhận của nhân vật trữ tình: nghe thấy tiếng trống cầm canh từ xa vọng lại văng vẳng nhưng lại dồn dập, liên hồi. “Trống canh dồn” không chỉ báo hiệu bước đi dồn dập, vội vã, gấp gáp của thời gian mà còn thể hiện tâm trạng rối bời, buồn bã của nhân vật trữ tình, một con người luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc mà phải chịu cảnh sống cô đơn. Thời gian vật lí đã hòa cùng thời gian tâm lí. *Câu 02: nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng, bẽ bàng của nhà thơ trước tình cảnh và duyên phận của mình. -Câu thơ có lẽ là độc đáo vào bậc nhất của thơ xưa khi viết về người phụ nữ sử dụng thơ Đường. -Nói về nhan sắc của mình mà dùng hai từ “hồng nhan”, có lẽ nhân vật trữ tình đã tự ý thức được mình là một người phụ nữ có tài năng, nhan sắc. Nhưng ý thức được không phải để sung sướng, tự hào mà trái lại, càng thêm ngậm ngùi cay đắng. Nhờ sự cách kết hợp từ độc đáo của XH, ta thấy được nhan sắc con người thật mỉa mai, rẻ rúng biết bao. Thật là mỉa mai khi từ “hồng nhan”, từ dùng để chỉ nhan sắc của người phụ nữ lại được kết hợp với từ “cái”, từ dùng chỉ đồ vật tầm thường. Cụm từ “cái hồng nhan” gợi cho ta một nỗi đau khi người phụ nữ cùng với nhan sắc của mình đã bị “đồ vật hoá”, coi thường, bị người ta khinh thường, vứt bỏ. Nhưng đâu chỉ có thế, khi hạ bút đặt một chữ “trơ” trước “cái hồng nhan”, nữ sĩ còn nhân lên gấp bội nỗi đau đớn, tủi nhục ấy. Bởi “trơ” là lẻ loi, trơ trọi, mà “trơ” cũng là phơi ra, bày ra. Phơi ra, bày ra “cái hồng nhan”, thật là bẽ bàng, tủi hổ. Câu thơ sử dụng nghệ thuật: đảo ngữ, đặt từ “trơ” lên đầu câu, kết hợp với cách ngắt nhịp độc đáo 1/3/3 hiếm thấy trong thơ Đường, càng khiến nỗi đau thêm thấm thía, bi kịch thêm cay đắng, xót xa. Phải đau, phải tủi hổ, bẽ bàng đến thế nào mới viết nên được một câu thơ như vậy. Bốn chữ “Trơ cái hồng nhan” đã nén chặt nỗi đau ghê gớm của người phụ nữ về duyên phận, làm nên cái nét riêng dường như chỉ có ở XH. 4 -Nhưng câu thơ không chỉ cho ta thấy nỗi đau mà còn cho ta thấy bản lĩnh XH. Dù duyên phận éo le, dù tâm trạng có tủi hổ, bẽ bàng nhưng XH vẫn vững vàng, thách thức với nó. Bởi “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. “Trơ... nước non” là trơ ra, thách thức với cả nước non, với một không gian rộng lớn. Chữ “trơ” trong trường hợp này đồng nghĩa với chữ “trơ” trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan. 2. Hai câu thực: Bi kịch được nhấn mạnh và khắc hoạ sâu hơn làm cho nhân vật trữ tình càng thấm thía hơn nỗi đau duyên phận. * Câu 03: - Trong đêm khuya, sống trong sự cô đơn, trong tâm trạng bẽ bàng, tủi hổ, XH tìm tới rượu với mong muốn lãng quên hiện thực đau buồn. - Kết quả: hiện thực đau buồn không những không được lãng quên, mối sầu trong long không những không được tiêu tan, giải tỏa mà trái lại càng lúc càng trào dâng mạnh mẽ. Bởi say rồi lại tỉnh, hiện thực chỉ được láng quên trong chốc lát, khi tỉnh lại nỗi đau ấy lại càng thấm thía hơn. - Cụm từ “Say lại tỉnh”: một lần nữa cho ta thấy tài năng sử dụng và kết hợp từ ngữ của Bà chúa thơ Nôm (“lại”: quay lại, lặp ,lại) → cum từ được cấu tạo theo lối khép kín, gợi lên cái vòng luẩn quẩn, trở đi trở lại, bế tắc trong tâm trạng và số phận XH. Nữ sĩ tìm đến hương rượu mong muốn được say để quên đi hiện thực nhưng càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận rõ ràng hơn. * Câu 04: - XH tìm tới trăng nhưng trăng cũng không giúp đem lại niềm vui cho nữ sĩ. Thậm chí, còn khiến nhà thơ thêm buồn khi soi chiếu vào cuộc đời mình. → Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Trăng và người đồng nhất. Đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh, nữ sĩ như chìm ngập trong cô đơn của nỗi đau duyên phận. Hai câu thơ đa nói rõ hơn thực cảnh và cũng là thực tình của XH. 3. Hai câu luận: ngoại cảnh hòa cùng tâm cảnh. Hình ảnh thiên nhiên cũng chính là hình ảnh con người. - Thiên nhiên: + Rêu là sinh vật nhở bé, hèn mọn, yếu mềm và chỉ có từng đám nhỏ nhưng cũng không chịu mềm yếu mà nó phải mọc xiên, lại còn “xiên ngang mặt đất”. + Đá chỉ có mấy hòn nhưng không cam chịu sự nhỏ bé mà phải vùng lên vén trời “đâm toạc chân mây” để hờ, để oán. → Thiên nhiên: sức sống mạnh mẽ, không cam chịu số phận mà phẫn uất vùng lên phản kháng. Sự phẫn uất, phản kháng đó của đá, của rêu cũng chính là sự phẫn uất, phản kháng trong tâm trạng con người. Nếu như đá kia, rêu kia không cam chịu thân phận hèn kém, yếu mềm, vươn lên vạch đất, vạch trời mà oán thì nữ sĩ cũng đâu cam chịu một duyên phận ngán ngẩm trớ trêu, nữ sĩ cũng mạnh mẽ vươn lên phản kháng lại số phận để tìm cho mình hạnh phúc. - Nghệ thuật: + Sử dụng động từ mạnh “xiên”, “đâm” kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. + Đảo ngữ + Đối → Nhấn mạnh hình ảnh thiên nhiên và tâm trạng con người. - Thể hiện phong cách và tạo nên nét đặc sắc trong thơ XH: + Hai câu thơ cho ta thấy đặc điểm cá tính con người XH: bản lĩnh, mạnh mẽ, không chấp nhận số phận, hoàn cảnh. 5 + Từ ngữ được sử dụng trong hai câu thơ thể hiện rõ nét những nét riêng trong phong cách nghệ thuật của bà chúa thơ Nôm. “Xiên ngang”, “đâm toạc” là cách dùng từ “rất XH”. Nữ sĩ đặc biệt thành công trong việc sử dụng các từ làm phụ ngữ “mỏi mắt dòm”, “rơi lõm bõm”, “chín mõ mòm”, “khua lắc cắc”, “vỗ long bong”,... những phụ ngữ này góp phần làm cảnh vật trong thơ XH bao giờ cũng sinh động và căng tràn sức sống, một sức sống mãnh liệt ngay cả trong những tình huống bi thảm nhất. 4. Hai câu kết: Như vậy, hai câu luận đã thể hiện sâu sắc bản lĩnh, cá tính của XH. Nhưng dù có gắng gượng vươn lên thì cuối cùng vẫn là rơi vào bi kịch. Bài thơ khép lại bằng một lời than cho duyên phận của mình của nhân vật trữ tình trong tâm trạng chán trường, buồn tủi. * Câu 07: -Câu thơ bộc lộ rõ tâm trạng chán chường, ngán ngẩm của XH khi ý thức rõ sự trôi chảy của thời gian, đời người với bao xót xa, nuối tiếc. Trong câu thơ XH đã sử dụng hai từ “xuân” và hai từ “lại” với các tầng ý nghĩa khác nhau (...) góp phần quan trọng trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình. -XH ngán lắm rồi “Xuân đi, xuân lại lại”, ngán lắm rồi sự trở lại của mùa xuân, bởi sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Với nhịp điệu đều đều, dàn trải câu thơ là một tiếng thở dài ngao ngán, một nỗi chua chát khôn nguôi. Hình ảnh “Xuân đi, xuân lại lại” gợi cho người đọc về sự ra đi của biết bao mùa xuân, tuổi trẻ tàn phai thế mà tình yêu vẫn không đến. -Cô thiếu nữ XH khao khát tình yêu, náo nức đón chờ tình yêu là thế mà cuối cùng cái nhận được thật là ít ỏi, chẳng đáng là bao. Chỉ là một mảnh tình (vốn đã nhỏ bé)→ (bị) san sẻ → (trở thành) tí con con (có mà như không). Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến được sử dụng trong câu thơ có tác dụng nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn, hoàn cảnh càng xót xa hơn. Câu thơ là tiếng thở dài buông xuôi trước dòng đời của nữ sĩ. Hai câu thơ được viết ra từ tâm trạng của một con người khi đã mang thân đi làm lẽ nhưng tầm khái quát lại lớn hơn một hoàn cảnh lấy chồng chung. Nó là nỗi lòng của người phụ nữ xưa khi hạnh phúc với họ là một chiếc chăn quá hẹp. Họ càng khao khát hạnh phúc thì càng thất vọng, ước mơ càng lớn thì thực tại càng mỏng manh. - Nghệ thuật: + Thơ Đường luật nhưng mang đậm nét dân tộc, dân gian. + Từ ngữ giản dị mà đa nghĩa, giàu sức gợi. + Các biện pháp đảo ngữ, đối,... được sử dụng thành công → in đậm cá tính mà mang phong cách riêng độc đáo của XH. Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao khát tha thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch nhất. 2, Hình ảnh người phụ nữ xưa trong bài thơ tự tình (II) của HXH. a, Số phận bất hạnh. - Tuy có chồng mà phải sống trong cảnh cô đơn. Một mình xuất hiện giữa đêm khuya để dãi bày tâm trạng. - Có nhan sắc nhưng không được trân trọng mà bị khinh thường, mỉa mai , rẻ rúng. -Hạnh phúc mà họ nhận được quá nhỏ bé, mỏng manh. b, Là những con người giàu bản lĩnh. - Vững vàng, thách thức trước duyên phận. - Phẫn uất, phản kháng trước số phận của mình. c, Có gắng gượng vươn lên thì cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch. 6 Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao khát tha thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch nhất. CÂU CÁ MÙA THU A, Kiến thức trọng tâm. 1, Nội dung - Bức tranh phong cảnh mùa thu: + Mang vẻ đẹp cổ điển của mùa thu ngàn đời. + Điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam. - Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến: + Tình yêu thiên nhiên tha thiết. + Tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kếm phần sâu sắc. 2, Nghệ thuật - Nghệ thuật sử dụng từ ngữ. - Nghệ thuật gieo vần. B, Các đề luyện tập và gợi ý. Đề 01: Cảm nhận về bài thơ “Câu cá mùa thu”. I, Mở bài 1, Cách 1: giới thiệu từ tác giả rồi thu gọn lại đến bài thơ. - Giới thiệu Nguyễn Khuyến: là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam thời trung đại. Sáng tác của ông gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng còn lại khoảng trên 800 bài gồm cả thơ, văn, câu đối, nhưng chủ yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè; phản ánh cuộc sống của những con người cực khổ, thuần hậu, chất khác; châm biếm, đả kích bọn thực dân phong kiến, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước. Và bài thơ “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) được trích từ chùm thơ viết về mùa thu gồm ba bài:... là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong thế giới nghệ thuật phong phú ấy của nhà thơ. -Được sáng tác sau khi nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn, bài thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, tâm trạng thời thế của thi nhân. Đồng thời, qua tác phẩm ta cũng thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng sử dụng tiếng Việt tài tình của Nguyễn Khuyến. 2, Cách 2: Không biết tự bao giờ, mùa thu đã trở thành đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của thơ ca. Mùa thu huyền diệu, mùa thu chan chứa yêu thương đã được thể hiện ở tất cả các góc cạnh khác nhau qua ngòi bút thi nhân. Có khi mùa thu xuất hiện như một cô gái đáng yêu nhu mì và nhút nhát “Em không nghe mùa thu – Lá thu rơi xào xạc – Con nai vàng ngo ngác – Đạp trên lá vàng khô”, có khi lại xuất hiện trong tình yêu rộn rã, vui sướng, vồ vập của nhân vật trữ tình “Đây mùa thu tới, mùa thu tới – Với áo mơ phai dệt lá vàng”,... để rồi khi bước vào thơ Nguyễn Khuyến, bước vào thơ của “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”, mùa thu kiều diễm, hoa lệ ấy đã trở thành một cô thôn nữ dân dã mà say đắm lòng người. Chỉ bằng một chùm thơ viết về mùa thu gồm ba bài, Nguyễn Khuyến đã thâu tóm được tất cả những gì là đặc trưng nhất của vẻ đẹp mùa thu vùng ĐBBB.Và trong chùm thơ thu nức danh ấy, “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) là “tiêu biểu hơn cả” và “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Khám phá thế giới nghệ thuật của bài thơ, người đọc không chỉ được đắm chìm vào không gian thu rất riêng của vùng ĐBBB mà còn thấy được tình yêu thiên nhiên, 7 đất nước tha thiết, tâm trạng thời thế, thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng sử dụng tiếng Việt tài tình của thi nhân. II, Thân bài 1, Bức tranh phong cảnh mùa thu trong Câu cá mùa thu mang vẻ đẹp cổ điển cổ điển của thơ thu muôn đời. - Với thi đề, thi liệu: quen thuộc. Đó là vẻ đẹp của thu thủy (nước thu), thu thiên (trời thu). Chúng ta tưởng chừng gặp lại ý thơ của người xưa “thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”. Đó còn là các thi liệu thu diệp (lá thu), ngư ông (người câu cá). - Câu cá mùa thu cũng sử dụng đắc địa bút pháp của thơ cổ điển, lấy cái động để thức dậy cái tĩnh. Phải là một không gian tĩnh lặng tới mức gần như tuyệt đối mới có thể thấy rõ cái hơi gợn tí của sóng biếc mặt ao và chút khẽ đưa của là lá vàng. Tĩnh đến độ cả con người và thiên nhiên cùng như giật mình bởi âm thanh cá đâu đớp động dưới chân bèo. 2, Nhưng cảnh trong câu cá mùa thu đâu chỉ có vậy, nhắc đến cảnh thu trong tác phẩm còn là nhắc đến một mùa thu “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Hồn quê xứ sở đã thấm vào hồn thơ để tạo nên một ấn tượng đặc biệt, giống như ta thấy Huế khi nghe điệu mái nhì, mái đẩy, thấy sông nước Nam Bộ mênh mông khi nghe câu lí, câu hò. Đọc Câu cá mùa thu, ta thấy ngay trước mắt mình mùa thu nơi ĐBBB với những nét riêng tiêu biểu mà mùa thu ở những vùng miền khác không có được. Với cách đón nhận cảnh thu độc đáo: từ gần đến cao xa, rồi từ cao xa trở lại gần, (...) Nguyễn Khuyến đã tạo nên một bức tranh mùa thu với những đặc điểm nổi bật nhất của cảnh thu vùng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam. a, Một bức tranh mùa thu đẹp, trong trẻo, bình dị, quen thuộc, thanh sơ, dịu nhẹ nhưng cũng rất đỗi nên thơ. - Cảnh vật: ao thu, lá vàng, thuyền câu, ngõ trúc, bầu trời, tầng mây,... → những cảnh vật bình dị, gần gũi, quen thuộc ở làng quê. Cái tài của NK là từ những vật bình dị ấy nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp hết sức nên thơ: cái ao làng bình thường → ao thu nước trong veo (“Ao thu”, sáng tạo rất mới của Nguyễn Khuyến tạo một cảm giác thơ mộng ngay từ đầu bài thơ, Cảm nhận từ “trong veo”); sóng trong ao → sóng biếc; lá rụng → lá vàng khẽ đưa trước gió,...) - Màu sắc: + Màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh thu ấy là màu xanh: xanh trong của nước, xanh biếc của sóng, xanh lục của bèo, xanh rợp của trúc,... + Và giữa các “điệu xanh” ấy, Nguyễn Khuyến đã điểm xuyết vào một chấm vàng nhỏ của chiếc lá vàng khẽ bay trước gió và màu trắng của đám mây lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt làm cho bức tranh thu càng thêm đa dạng. Sự hòa phối về màu sắc của bức tranh đã đạt đến sự “thú vị” tạo nên một không gian thu xanh mang sắc thu quê. - Đường nét: Đường nét được miêu tả trong bức tranh thơ cũng là những đường nét rất riêng, mang vẻ đẹp nên thơ của mùa thu vùng đồng bằng BB. Đó là những đường gợn của làn sóng ao thu, những nét uốn lượn của chiếc lá vàng rơi, đó cũng là những đường bao thanh mảnh, quanh co của rặng trúc và sự lơ lửng của những đám mây giữ bầu trời. b, Bức tranh phong cảnh mùa thu ấy thật đệp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. - Không gian tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng. + “Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo” + Các chuyển động: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa → những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ, không đủ tạo âm thanh. + Tiếng cá đớp mồi → càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. 8 - Sử dụng nhiều gam màu lạnh với độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của sóng, xanh ngắt của trời,... → gợi buồn da diết. 2, Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến (tình thu): * Một tâm hồn thanh cao, gắn bó, yêu tha thiết cảnh vật quê hương, đất nước. Đi câu thực chất chỉ là cái cớ để nhà thơ đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. Không có tình yêu thiên nhiên tha thiết làm sao nhà thơ có thể viết được về mùa thu hay như thế? * Một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc. - Không gian: tĩnh lặng và đượm buồn → một tâm trạng không yên, một tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước của nhà thơ. + Những gam màu lạnh: cái buồn hắt hiu của cảnh vật, cái lạnh trong tâm trạng con người. (Vậy, cái lạnh của trời thu, nước thu đã thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ ... cảnh vật?) + Khi tìm hiểu bài thơ, có người cho rằng Từ “vèo” trong câu thơ: “lá...” có phần không hợp lý: lá vàng khẽ đưa trước gió không thể có độ “ vèo” khi bay. thực ra điều đó có vẻ không hợp lý ấy lại rất lô gíc, rất thống nhất tâm trạng. Nó không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn cho ta thấy tâm trạng thời thế của thi nhân, một tâm trạng không yên, một tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước: thời thế thay đổi quá nhanh, thoáng chốc non sông đã lọt vào tay kẻ thù mà mình không làm được gì để giúp nước, giúp đời. (Tâm trạng NK giống tâm trạng Tản Đà khi ông viết “Vèo trong lá rụng.... + Tiếng cá đớp động dưới chân bèo: là tiếng giật thột trong lòng nhà thơ khi ông ngồi trầm tư trên mảnh ao làng nghĩ về thời cuộc. Nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo mà tưởng như tiếng non sông đang gọi mình. 3, Nghệ thuật - Ngôn ngữ: giản dị, trong sáng đến kì lạ, có khả năng diễn đạt những biể hiện rất tinh tế của sự vật, những uẩn khúc thầm kín, khó giãi bày trong tâm trạng con người. - Vần “eo”, tử vận, khó làm được sử dụng rất thần tình, diễn tả không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhà thơ. - Nghệ thuật lấy động tả tĩnh,... Đề 02: “Trong hoàn cảnh đất nước đang bị giặc ngoại xâm, tấm lòng yêu nước phải được thể hiện cụ thể bằng những hành động chống lại kẻ thù chứ không phải như Nguyễn Khuyến trong “Câu cá mùa thu” đã không dám đứng lên dùng ngòi bút đánh giặc mà chỉ gửi gắm kín đáo vào cảnh vật. Hành động như vậy chỉ có thể có ở những kẻ ham sống, sợ chết, không có lòng yêu nước”. Ý kiến của anh (chị) về nhận xét trên. BÀI CA NGẤT NGƯỞNG A, Nội dung bài học 1,Đánh giá chung về bài thơ. “Bài ca ngất ngưởng” là một tác phẩm kiệt xuất của NCT. Được hoàn thành vào năm Nguyễn Công Trứ cáo quan về hưu (1848), bài hát nói nổi tiếng này vừa mang tính chất “hồi kí” của một cuộc đời nhiều thăng trầm, sóng gió nhưng không ít vinh quang, vừa như bức chân dung tự họa về một cá tính mạnh mẽ, một con người xuất chúng dám lấy cách sống ngang tàng, ngông ngạo, trái khoáy như một phương diện khẳng định bản ngã, vừa như một tuyên ngôn cho lối sống phóng khoáng, tận hưởng những thú vui ở đời, đối lập giữa cá nhân (những kẻ có tài) với xã hội tầm thường, cổ lỗ. 2,Hình tượng “cái tôi” “ngất ngưởng” của NCT trong bài thơ. a, Cách sống, lối sống, thái độ sống “ngất ngưởng” của NCT. 9 - Là tạo nên những cái khác thường: + là thái độ đề cao bản thân, xem mình cao hơn người khác. + là thái độ khinh đời ngạo nghễ. + cố tình làm những điều khác thường, trái khoáy để thách thức, trêu ngươi, chọc tức những người, những gì mình ghét. (Khác thường: thái độ khác thường, việc làm khác thường, lời nói khác thường). - Là phát huy tận độ tài năng để phò vua, giúp nước, là coi thường được mất, khen chê. ”Ngất ngưởng” là một lối sống, một cách sống, thái độ sống tích cực của kẻ sĩ quân tử, đấng trượng phu tuy có pha chút phóng túng nhưng về cơ bản vẫn là vì nước, vì dân. b,Cơ sở tư tưởng của hình tượng. -Lối sống “ngất ngưởng” của NCT được hình thành, xuất phát từ chính bản thân của cuộc sống nhà thơ trước cuộc đời. Sống trong cái thời chế độ phong kiến suy tàn, triều thần có nhiều phe cánh, lắm kẻ đó kị, xúc xiểm, gièm pha thì Nguyễn Công Trứ, một con người vốn rất có ý thức về tài năng của mình lại đầy nhiệt huyết giúp đời, giúp nước ắt phải tìm cho mình một lẽ sống riêng, một thái độ sống, một quan niệm sống riêng để chơi ngông với giới quan lại bất tài, vô dụng, để có thể vượt lên trên thói đời đen bạc, đặt mình lên trên cái môi trường quan lại tầm thường dung tục đang vây bọc lấy ông. Vì thế, có thể nói rằng tạo cho mình một lối sống riêng, lối sống “ngất ngưởng” khinh đời ngạo nghễ, thực chất chỉ là phản ứng của một kẻ sĩ quân tử, một đấng trượng phu trước một môi trường tầm thường, dung tục để thể hiện bản lĩnh cá nhân của mình và có thể phát huy được tận độ tài năng giúp nước, giúp đời. 3,Biểu hiện của “cái tôi” “ngất ngưởng” của NCT trong tác phẩm. a, “Ngất ngưởng” tại triều. (06 câu đầu) *Biểu hiện - Kiêu hãnh, tự hào về sự có mặt của mình trên cõi thế; tự đề cao vao trò lớn lao của mình trong trời đất: không có việc gì là không phải phận sự của ta. - Tự khen mình: “ông Hi Văn tài bộ” một cách tự cao, tự đại, hơn nhiều kẻ khác. - Nói việc làm quan là tự chui vào lồng (bị giam hãm, mất tự do)  lối nói ngông (nhà nho bám quan hãnh diện). - Khoe tài năng hơn người:... - Khoe danh vị xã hội hơn người:... Ngất ngưởng: làm trái với lễ nghĩa khiêm tốn của nhà nho, ngang nhiên khoe tài, khoe trí. Nhưng đó không phải là thói khoe khoang hợm hĩnh mà chỉ là để khoe cái cốt cách tài tử, phóng túng của mình mà thôi. Và ẩn chứa đằng sau đó là một cái tôi ý thức về tài năng và danh vị bản thân. *Vì sao NCT lại cho rằng việc ra làm quan là tự chui vào lồng (vào nơi bị gian hãm,mất tự do) nhưng lại vẫn ra làm quan. Làm quan không chỉ là vinh mà còn là nợ. (Hs cần giải thích để thấy rằng việc NCT ra làm quan không chỉ đơn thuần vì danh vị của bản thân mà quan trọng hơn là vì dân, vì nước). b,“Ngất ngưởng” khi treo ấn từ quan . Thể hiện ở việc làm cố tình làm cho chướng mắt để trọc tức, trêu ngươi. c,“Ngất ngưởng” khi là một hưu quan. * Lối sống hưởng thụ, khác người. * Quan niệm sống, thái độ sống coi thường sự được mất, khen chê ở đời. d, Lời tổng kết cả một đời ngất ngưởng.( ba câu cuối) 10 - Khẳng định mình là một người tài năng, nổi tiếng, hiển hách có thể sánh ngang với Trái Nhạc, Hàn Tín,...những con người tài năng xuất chúng đời Hán, Tống ở TQ - Khẳng định mình là một bề tôi trung thành, luôn giữ trọn đạo nghĩa vua tôi. - Khẳng định: “trong triều...” tức khẳng định trong triều không ai như mình, bằng mình. Điều đó làm nổi bật sự đối lập giữa NCT với đám quan lại đương thời. 4,Đánh giá lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. -Trước hết, lối sống ngất ngưởng phải là lối sống của một con người có tài như Nguyễn Công Trứ. Lối sống đó đã tạo ra những sự đối lập với lối sống của xã hội pk lúc bấy giờ: +Một lối sống ngang tàng, ngông ngạo, phóng khoáng, tự do đối lập với xã hội tầm thường, cổ lỗ. +Một lối sống hưởng thụ, tận hưởng những thú vui ở đời đối lập với xã hội phong kiến nhiều chế định khắt khe. +Một lối sống khẳng định cá nhân trong cái xã hội lấy khuôn phép, tôn ti trật tự để xóa nhòa mọi bản sắc. Như vậy, lối sống đó nhằm giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc để được sống tự do, đề cao cá tính và khẳng định bản ngã con người, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp cho đời một cách sống chủ động, tự tin, ung dung, thoải mái. Cách sống đó, mới nhìn qua, có vẻ “ngất ngưởng” thái quá, nhưng nếu đặt vào hoàn cảnh xã hội phong kiến lúc đó và vào con nguời tài hoa – khí phách NCT thì lại thấy hoàn toàn hợp lí và rất tự nhiên như vốn nó là vậy. Như chính ông đã tự nói về mình một cách đầy bản lĩnh, tự hào: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!” Đó là một sự ý thức sâu sắc về giá trị cá nhân, một tuyên ngôn khẳng định cá tính. Và như vậy, NCT đã rất hài lòng, thậm chí còn kiêu hãnh với cái “ngất ngưởng” của mình. 5,Nghệ thuật. Trong “Bài ca ngất ngưởng” để tạo nên một “cái tôi” ngông ngạo, một lối sống “ngất ngưởng”, con người cá nhân, tự do Nguyễn Công Trứ đã tìm đến thể hát nói, một thể thơ tự do, phóng khoáng để khẳng định mình, để tạo nên một “cái tôi”, một lối sống “ngất ngưởng” trong một bức chân dung tự họa bằng thơ độc đáo, sống động và thú vị. Tóm lại: - “Ngất ngưởng” là một phong cách sống có bản lĩnh, có cá tính, trung thực, thẳng thắn, ý thức rất rõ về bản thân. - Mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc: giải phóng con người khỏi những ràng buộc để được sống tự do, đề cao cá tính và khẳng định bản ngã con người. B,Đề luyện tập. Đề 01: Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”. Đề 02: Học xong tác phẩm bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, anh (chị) có suy nghĩ gì về cách sống của nhà thơ? Theo anh (chị) thế hệ trẻ hôm nay có nên sống theo cách sống của Nguyễn Công Trứ? Lí giải vì sao? Đề 03: Trong xã hội hiện nay có một số bạn trẻ cố tình tạo cho mình một cách sống khác thường để khẳng định cái “tôi” cá nhân của mình. Vậy theo anh (chị) họ tạo cho mình một cách sống như vậy có hợp lí không? Hãy so sánh với cách sống “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ để làm sáng tỏ. Đề 04: “Dù ở trong thời đại nào thì lối sống của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” cũng không thể chấp nhận được. Đó thực chất là lối sống lập dị của một kẻ tự cao, tự đại, ngông cuồng”. Ý kiến của anh (chị). Đề 05: Lối sống “ngất ngưởng” của NCT với lối sống lập dị của một số người trong xã hội hiện nay. 11 BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT A, Nội dung bài học I. Khái quát chung về tác phẩm. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca) được CBQ được sáng tác trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như: Quảng Bình, Quảng Trị. Mược hình ảnh người đi khó nhọc trên bãi cát, nhà thơ đã thể hiện sự chán ghét con đường mưu cầu danh lợi mà ông buộc phải theo đuổi và niềm khao khát đổi mới trong hoàn cảnh bế tắc của xã hội nhà Nguyễn trì trệ, bảo thủ lúc bấy giờ. II, Hình tượng nhân vật trữ tình. 1, Hình tượng nhân vật trữ tình trong bốn câu đầu * Hình tượng nhân vật trữ tình trong bốn câu đầu là hình ảnh của người lữ khách đi trên bãi cát. - Bãi cát mà khách đang đi: nối tiếp nhau trải dài tới vô tận. Đó là một không gian mênh mông tới rợn ngợp, hoang vắng tới vô cùng, không biết đâu là điểm bắt đầu, đâu là điểm kết thúc. Không gian đó mở ra con đường xa tắp, bất tận, nhiều trắc trở, khó nhọc. Đó là Những bãi cát, cồn cát trải dài bao la của thiên nhiên miền Trung khắc nghiệt. - Tình thế: + Đi một bước như lùi một bước. + Mặt trời đã lặn mà không dừng lại được, vẫn phải tất tả đi. - Tâm trạng: mệt mỏi, sốt ruột, căng thẳng, buồn nản, cô đơn, lạc lõng, hoang mang. Giọt nước mắt cho ta thấy rõ tâm trạng bế tắc của người lữ khách. * Hình ảnh của người lữ khách đi trên bãi cát cũng chính là hình ảnh một con người đi trên con đường đời mịt mù, chông gai, nhọc nhằn, gập ghềnh, trắc trở trong xã hội phong kiến o bế, trì trệ, tương lai mù mịt nhưng không dừng lại được mà vẫn phải bước đi, bước đi trong bế tắc và vô vọng. 2, Hình tượng nhân vật trữ tình trong sáu câu tiếp. * Khách, nhân vật trữ tình, lí giải nguyên nhân vì sao mình lại không thể từ bỏ con đường đầy mịt mù, chông gai, nhọc nhằn, gập ghềnh, trắc trở mà mình đang đi. - Nguyên nhân thứ nhất (câu 5 – 6): vì không những “không học được ông tiên có phép ngủ kĩ” mà còn trèo non, lội nước mãi. Nghệ thuật: sử dụng điển tích. Nhắc lại cách hành sử của người xưa trước thói đời đen bạc để khẳng định cách hành sử của mình. (Người xưa: Hạ Hầu Ấn nhắm mắt ngủ say là “nhắm mắt làm ngơ, mặc kệ sự đời, mặc thây kẻ thức” để khỏi nhọc lòng trước những thăng trầm, trắc trở, rước họa vào thân; CBQ: không học được người xưa, học phép tiên để vừa đi vừa ngủ, có nghĩa nhà thơ từ chối lối sống đó một cách cao ngạo. Ông đối lập với hiện thực nhưng không quy lưng với hiện thực, dù hiện thực đó có đen tối đến mức nào) NVTT không thể từ bỏ con đường mà mình đang đi vì anh ta không thể bỏ mặc cuộc đời, hơn nữa vì cuộc đời thêm một lần nữa anh ta khẳng định sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường đầy chông gai mà mình đã chọn. - Nguyên nhân thứ hai (bốn câu tiếp): CBQ nêu lí do mấu chốt: sở dĩ ông không thể từ bỏ được con đường mình đang đi bởi đó là con đường công danh, con đường duy nhất để lập thân thời phong kiến. Công danh là lí tưởng lập thân của tư tưởng Nho giáo và đã trở thành lí tưởng lập thân của nam nhi thời phong kiến. Dã làm thân nam nhi thì phải khẳng định vị thế tồn tại của mình giữa cuộc đời, phải phấn đấu để có công danh để thi thố tài “kinh bang tế thế”, để thực hiện lí tưởng” tề gia trị quốc bình thiên hạ” giúp ích cho đời. Đến thời CBQ, lí tưởng này tuy đã 12 lỗi thời và không còn sâu sắc nữa nhưng vẫn là con đường lập thân duy nhất của đấng nam nhi khi xã hội chưa tìm ra được hướng đi mới tiến bộ hơn. Ta hiểu vì sao mang trong mình bao nhiêu hoàn bão, CBQ đã không thể thoát khỏi cái vòng danh lợi tầm thường dù nhà thơ vô cùng chán ghét nó. * Tâm trạng nhân vật khách khi đi trên con đường đời, con đường công danh. đau đớn, chán nản, tự trách bản thân vì tự mình hành hạ thân xác của mình theo đuổi công danh, không học được sự thảnh thơi để xa lánh chốn trần ai. * Nhận thức của CBQ về công danh và kẻ sĩ đương thời: -Xưa: công danh là lý tưởng đẹp, là cái đích để những người quân tử hướng tới với mong muốn lập thân, giúp nước, giúp đời. -Tới thời CBQ: công danh đã bị biến tướng, trong cái thời đảo điên, nó không còn là lý tưởng đẹp của kẻ sĩ như xưa kia mà đã trở thành một miếng mồi ngon cho kẻ sĩ đương thời và biến họ thành những kẻ ham danh lợi. Với loại người này, công danh có một sức cám dỗ ghê gớm, nó cũng là một thứ rượu ngon dễ làm say lòng người mà ai cũng cố giành giật lấy để mưu cầu lợi ích cá nhân bần tiện của mình. Và khi tìm tới công danh, đa phần những kẻ đó đều bị nó cám dỗ trở nên mê muội “nguời say vô số, tỉnh bao người”. Cả một xã hội đang sống giữa cơn mê và quá hiếm người tỉnh để nhận ra sự nguy hại của nó. Những trăn trở, suy tư về danh lợi, về kẻ sĩ đương thời đã cho ta thấy sự chán ghét con đường mưu cầu danh lợi tầm thường của nhà thơ trước sự xuống cấp của khoa cử, học thuật thời Nguyễn. Đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách của CBQ. 3, Hình tượng nhân vật trữ tình trong đoạn thơ cuối. * Đi trên con đường cùng. Đồng nghĩa với nó là con đường đời, đường công danh mà NVTT đang đi đã lên tới đỉnh điểm của sự bế tắc và cùng đường không lối thoát. * Tâm trạng nhân vật trữ tình: + Băn khăn + Bi quan + Cùng đường, bế tắc (không thể đi tiếp, không thể quay lại), không tìm ra lối thoát. * Câu kết: Lời thức tỉnh, giục giã bản thân của người đi trên cát phải quyết định dứt khoát, tìm con đường đi mới cho cuộc đời. Câu thơ thể hiện khao khát thay đổi cuộc sống đương thời, khao khát một sự đổi mới của nhà thơ. 3, Nghệ thuật. - Nhân vật trữ tình được khắc họa rõ nét ấn tượng nhờ được đặt vào những hình ảnh thơ vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Tóm lại: Bài ca ngắn đi trên bãi cát là khúc ca bi phẫn, u buồn khắc hoạ khá thành công hình tượng một con người cô đơn nhưng kì vĩ trên bước đường gian truân, mờ mịt đi tìm chân lí. Người ra đi vừa quả quyết, vừa tuyệt vọng, quên mình vì lí tưởng nhưng bế tắc, hoang mang vì không tìm được lối thoát. Điều đó thể hiện sự phản kháng âm thầm nhưng quyết liệt với hiện thực xã hội phong kiến thời Nguyễn và lời cảnh bào một sự đổi thay tất yếu trong tương lai. THAM KHẢO BÀI “BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT” Trong số những nhà thơ tài năng và có bản lĩnh ở thế kỉ XIX, CBQ được tôn thờ là “thánh Quát” (Thần Siêu, thánh Quát). Ông là một nhà thơ lớn, thơ văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng những điều khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Và nổi 13 tiếng nhất trong những vần thơ độc đáo ấy của ông là tác phẩm “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca). Được sáng tác trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng, bài thơ đã bộc lộ sự chán ghét của nhân vật trữ tình đối với con đường mưu cầu danh lợi tầm thường và niềm khao khát đổi mới cuộc sống trong hoàn cảnh xã hội nhà Nguyễn “xuống cấp”, mục nát lúc bấy giờ. Nổi lên từ đầu bài thơ là hình tượng bãi cát dài nối tiếp tới vô tận với không gian rợn ngợp, hoang vắng tới vô cùng, không biết đâu là điểm đầu, đâu là điểm kết, mở ra một con đường xa tắp nhiều trắc trở và khó nhọc. Xuất hiện trên bãi cát mênh mông đó là bóng một con người nhỏ bé đang bước đi từng bước nặng nề, mệt nhọc. Từng bước chân đi trên cát dường như trở nên vô nghĩa, thời gian đâu có chờ đợi ai bao giờ: “Mặt trời đã lặn, chưa dừng được Lữ khách trên đường nước mắt rơi” Trong tình thế ấy, trong hoàn cảnh ấy thật không có gì khó khăn, cực khổ hơn: mặt trời đã lặn, bóng đêm đã xuất hiện nhưng người lữ khách vẫn bước đi tất tả mà không dừng lại được. Sự khó nhọc, vất vả giữa cồn cát mênh mông và tâm trạng đau khổ của tác giả như đang bộc lộ hết ra ngoài: nước mắt lã chã rơi. Giọt nước mắt ấy là sự mệt mỏi, căng thẳng, cô đơn, lạc lõng, hoang mang và buồn nản trong sự bế tắc đến cùng cực của nhân vật trữ tình. Bãi cát ở đây ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa tượng trưng cho con đường đời mịt mờ xa hút đầy chông gai, trắc trở trong xã hội phong kiến o bế, trì trệ mà con người buộc phải dấn thân vào. Ngay cả con người trong cuộc hành trình này cũng mang tính biểu trưng. Đó là con người đi trên con đường đời , đi tìm lí tưởng, mục đích đích thực có ý nghĩa cho cuộc đời giữa cuộc đời mịt mờ không xác định được phương hướng nhưng không dừng lại được mà vẫn phải bước đi, dù phải bước đi trong bế tắc, vô vọng. Vì sao đây? Tại sao “anh ta” vẫn phải bước tiếp rên con đường mà biết trước rằng không có đích đến? Vì “anh ta” không học được phép ngủ của ông tiên. Xưa Hạ Hầu Ấn nhắm mắt ngủ say là “nhắm mắt làm ngơ, mặc kệ sự đời, mặc thây kẻ thức” để khỏi nhọc lòng trước những thăng trầm, trắc trở, rước họa vào thân nhưng CBQ thì hoàn toàn khác, nhà thơ đối lập với cuộc đời nhưng không quay lưng với cuộc đời, không những thế vì cuộc đời thêm một lần nữa anh ta khẳng định sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường đầy chông gai, nhọc nhằn mà mình đã chọn. Tác giả bán rẻ thời gian và tuổi trẻ của mình chỉ để đi tìm cái đích đến cho con đường mình đang đi, bởi đó là con đường công danh, con đường duy nhất để lập thân thời phong kiến, con đường duy nhất để đấng nam nhi thể hiện tài “kinh bang tế thế” và lí tưởng “tề gia trị quốc bình thiên hạ” giúp nước, giúp đời. Thoạt đầu đọc qua, ta tưởng như sáu câu thơ tiếp từ câu “Không học được ông tiên phép ngủ... “ có vẻ rời rạc với bốn câu thơ đầu, nhưng càng đi sâu ta mới thấy được sự liên kết logic chặt chẽ trong từng ý thơ. Lúc đầu thể hiện tâm sự chán nản của khách, tự giận mình đã phải hành hạ thân xác để theo đuổi công danh và vế sau là sự lí giải cho những suy nghĩ và hành động ấy. Xưa nay, công danh là lí tưởng đẹp, là cái đích để các kẻ sĩ đương thời hướng tới với mong muốn lập thân, giúp nước, giúp đời; nhưng thời CBQ đã hằn sâu vào trong tư tưởng của ông nhận định về sự biến chất trong xã hội đảo điên vì danh lợi, công danh không còn là lí tưởng đẹp xưa kia nữa mà đã trở thành một thứ có sức cám dỗ ghê gớm giống như một thứ rượu ngon: “Đầu gió hơi men thơm quán rượu – Người say vô số, tỉnh bao người?” Công danh đã biến những người quân tử thành những kẻ ham danh, ham tài, tranh giành, chém giết nhau để mưu cầu lợi ích cá nhân bần tiện của mình; những con người ấy đã quá mê muội mà không có đủ nhận thức để thấy được sự nguy hại của nó. Nói đến đây, tâm trạng nhân vật trữ tình càng nặng nề, sâu lắng hơn, khách đã nhận ra rõ “cái đen”, “cái bẩn” 14 của con đường công danh một khi bị biến tướng nhưng lại không thể dừng chân được. Vì thế sự đau đớn, chán nản được tăng lên gấp bội lần: “Bãi cát dài lại bãi cát dài ........................................ Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!” Trong những câu thơ trên, cách sử dụng nghệ thuật điệp từ của nhà thơ được phát huy đến cao độ, nhấn mạnh vào suy nghĩ của người đọc về một bãi cát, một con đường dài không biết đâu là nơi đến. Và giữa cái không gian bao la, hoang vắng ấy đột ngột xuất hiện một câu hỏi tu từ đầy thắc mắc, lo âu và trăn trở: “Biết tính sao đây?”. Biết tính sao đây khi con đường công danh kia còn mờ mịt, gập ghềnh và chứa đựng biết bao điều đáng sợ. Biết tính sao đây khi tiến lên là đường cùng và lùi lại cũng là đường cùng: “Phía bắc... muôn đợt” Hai câu thơ đã diến tả thật đắc địa tình thế, tâm trạng của người lữ khách khi lâm vào tình cảnh bế tắc, cùng đường, buộc phải chôn chân giữa những cồn cát mênh mông, giữa không gian rợn ngợp, chứa chất muôn vàn những điều nguy hiểm. Và như thế, cũng có nghĩa, con đường đời, con đường công danh mà người lữ khách đang đi cũng đã tới bước đường cùng, không lối thoát. Thật đau đớn khi phải cất lên “khúc cùng đồ” khi trong mình vẫn còn biết bao khát vọng, ước mơ, vẫn còn bao khát khao được đóng góp sức mình để giúp đời, giúp nước. Đọc những câu thơ này, ta thấu hiểu được những cảm xúc thấm đẫm nước mắt của nhà thơ và càng căm giận hơn cái xã hội thối nát, bảo thủ đã kìm kẹp nhân tài, không tạo cơ hội cho họ có điều kiện được giúp nước, giúp đời cho dù họ đã nhận về mình phần thua thiệt. Về cuối bài, mọi cảm giác khó thở trên gần như tan biến khi nhân vật trữ tình đặt câu hỏi “ Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”. Câu hỏi đó là gì nếu không phải là một lời thúc giục, giục giã bản thân của nhân vật trữ tình. Giục giã bản thân mình phải dứt khoát đoạn tuyệt với con đường công danh, với con đường cùng, với “cái bẫy” mà mình đang đi cùng bao nỗi băn khoăn, phiền muộn để tìm ra một con đường đi mới có ý nghĩa hơn với cuộc đời. Lời thúc giục ấy cũng cho ta thấy niềm khao khát mãnh liệt, cháy bỏng muốn đổi mới cuộc sống của nhà thơ. Đây là sự khởi đầu mới của một tư tưởng mới đang hình thành trong tâm tưởng của con người giàu lòng yêu nước, thương dân CBQ. Cái tư tưởng ấy dù lúc này mới chỉ bắt đầu mờ nhoà, chưa rõ nét nhưng theo thời gian nó đã được CBQ trả lời dứt khoát khi đứng lên chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn chuyên chế sau này. Đứng dưới lá cờ nghĩa với hai dòng chữ lớn: “Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn – Mục Dã, Minh Điền hữu Võ Thang” (Ở Bình Dương, Bồ Bản không có những ông vua tốt như Nghiêu Thuấn – Thì ở Mục Dã, Minh Điền có những người chống lại như Võ Thang), sinh mạng CBQ có thể mất đi, nhưng nhà thơ có thể mãi kiêu hãnh, tự hào khi đã giải quyết được khối mâu thuẫn lớn đã đè nặng trên cuộc đời mình trong bao nhiêu năm mò mẫm tìm đường mà chưa tìm ra lối thoát. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca) được xây dựng với hình tượng thơ độc đáo, mới mẻ, sáng tạo và đa nghĩa vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc biểu lộ sự chán ghét của một người trí thức đối với con đường công danh khoa cử của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Nhịp điệu bài thơ cũng góp phần diễn tả thành công những cảm xúc của nhân vật trữ tình và vào việc thể hiện nội dung, truyền tải tư tưởng của tác giả. Ngày nay, đọc “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, thế hệ trẻ chúng ta càng hiểu thêm và càng tôn kính hơn tấm lòng yêu nước, yêu dân sắc son của CBQ. Nhìn lại quá khứ, chúng ta lại càng tin hơn vào tương lai của đất nước khi với mọi người hai từ công danh đã được trả về đúng với ý nghĩa của nó. Dưới ánh sáng của Đảng, của tư tưởng HCM, những kẻ sĩ, quân tử, những người có đức có tài không còn phải mò mẫm tìm đường bất cứ lúc nào cũng có thể 15 đem tài đức của mình phục vụ nhân dân, đất nước mà không cần phải băn khoăn, do dự. Riêng đối với bản thân, học “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” đã cho em hiểu sâu sắc hơn về hai chữ “công danh”, bài thơ đã giúp em hiểu được làm người phải sống thế nào cho đáng sống. Vì vậy, trong vườn hoa văn học Việt Nam, với em (và có lẽ với nhiều người), “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, mãi mãi là một trong những bông hoa thơ đẹp nhất. Bài viết của học sinh Nguyễn Thị Vân Anh lớp 10A3 năm học 2010 -2011. “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...” (Mùa lạc, Nguyễn Khải) Nếu như một ngày nào đó đứng trước bạn là những con người bị dồn tới bước đường cùng hay những con người có thể nay mai sẽ trở về với cát bụi, hay bất cứ một người nào, bạn hãy đọc cho họ nghe những lời này. Lúc đó, không chỉ bạn đã làm một việc tốt khi truyền cho họ một ngọn lửa của niềm tin mà quan trọng hơn là bạn còn tự thắp cho mình một ngọn lửa của tình yêu cuộc sống! VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945. Chuyên đề 1: THẠCH LAM VÀ TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ I,Đôi nét về tác giả Thạch Lam và truyện ngắn Hai đứa trẻ. 1,Tác giả Thạch Lam. -Thạch Lam (1910 - 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, quê gốc ở Quảng Nam nhưng được sinh ra tại Hà Nội. Thuở nhỏ ông sống ở quê ngoại Cẩm Giàng - Hải Dương, sau khi học xong bậc thành chung ông sống ở Hà Nội viết văn, làm báo. -Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng. Ông là một trong số ít các nhà văn đương thời khá tự giác về quan điểm nghệ thuật và điều đáng quý hơn là TL có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, lành mạnh. Trong đó, ông đặc biệt khẳng định chức năng cao quý của văn chương đối với cuộc sống. Trong tiểu luận Theo giòng, TL viết "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Và ở chỗ khác ông cũng khẳng định: “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiêu công bằng, yêu thương hơn”. Điều này lí giải tại sao mặc dù là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn (một văn đoàn sáng tác theo khuynh hướng văn học lãng mạng do Nhất Linh, anh trai Thạch Lam, và một số nhà văn khác sáng lập vào năm 1933), song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chẩy riêng biệt một giòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang mầu sắc cải lương, là những phản kháng yếu 16 ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng ... Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, người đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn...Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực... Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố...Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam...Đọc văn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người. -Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn được bộc lộ một cách trọn vẹn. Ông là nhà truyện ngắn xuất sắc, tài hoa “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài” (Nguyễn Tuân). Xuất hiện trên văn đàn, TL là một trong số ít người mở đường cho lối viết “Truyện không có chuyện”, mỗi tác phẩm của ông không phải được xây dựng bởi nhưng cốt truyện cầu kì, giàu kịch tính mà “truyện” thường được tạo bằng việc đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, tinh tế với sự đan cài của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình. Bằng một giọng điệu riêng, giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn, mỗi truyện ngắn của TL đều như một bài thơ trữ tình đầy thương xót chứa đựng biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người. 2,Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. -Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938) là một trong những truyện ngắn đặc sắc, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của TL. Truyện giống như một áng văn xuôi được dệt bởi những cảm xúc thấm đẫm chất trữ tình. Tác phẩm có cốt truyện rất đơn giản, là kiểu truyện không có chuyện, không có mâu thuẫn, xung đột gay cấn. Nó giống như một bài thơ trữ tình đầy thương xót và ẩn hiện kín đáo, lặng lẽ sau mỗi hình ảnh, mỗi dòng chữ là tâm hồn TL đôn hậu, giàu tình yêu thương với mọi biến thái tinh vi của lòng người và tạo vật mà ông vô cùng trân trọng và yêu mến. -Bối cảnh của truyện là một phố huyện nghèo tiêu điều, xơ xác với những con người nghèo khổ, bất hạnh được lấy nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), là quê ngoại của TL và cũng là nơi nhà văn sống thời thơ ấu. -Tóm tắt: +“ Hai đứa trẻ” là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng người bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấm lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua 17 hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ chuyến tàu đêm kéo qua ra mới chịu đóng cửa hàng.(Tóm tắt của Nguyễn Tuân). + “Hai đứa trẻ” kể về những sinh hoạt thường ngày về một chiều, một đêm nơi phố huyện: Hai đứa trẻ, một chị một em, theo lời mẹ dặn, trông coi một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, lời lãi chẳng được bao nhiêu, và ngày nào cũng ngồi chờ chuyến tàu đêm khởi hành từ Hà Nội đi qua rồi mới đóng cửa hàng đi ngủ. Trong lúc chờ tàu, hai chị em cô bé ngắm nhìn, lắng nghe quang cảnh, nhịp điệu phố huyện diễn ra trước mắt, từ lúc hoàng hôn cho đến tận đêm khuya. -Những nội dung cần chú ý khi học tác phẩm: +Bức tranh phố huyện nghèo nàn, tiêu điều, xơ xác với những kiếp người tàn tạ, nghèo khổ, sống cuộc sống lay lắt, bế tắc, quẩn quanh. +Cảnh đợi tàu của chị em Liên. +Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. +Sự đan cài giữa hai yếu tố lãng mạn và trữ tình. +Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. +Hình tượng ánh sáng và bóng tối. II,Các nội dung bàn luận Vấn đề 01: Tìm hiểu chung về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi là Nguyễn Tường Lân) là nhà văn có biệt tài về truyện ngắn. Ông là nhà truyện ngắn xuất sắc, tài hoa “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài” (Nguyễn Tuân). Xuất hiện trên văn đàn, TL là một trong số ít người mở đường cho lối viết “Truyện không có chuyện”, mỗi tác phẩm của ông không phải được xây dựng bởi nhưng cốt truyện cầu kì, giàu kịch tính mà “truyện” thường được tạo bằng việc đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, tinh tế với sự đan cài của hai yếu tố lãng mạn và trữ tình. Bằng một giọng điệu riêng, giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn mỗi truyện ngắn của TL đều như một bài thơ trữ tình đầy thương xót chứa đựng biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người. Và truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938) là một trong những truyện ngắn đặc sắc, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy của ông. Lấy bối cảnh là một phố huyện nghèo nàn, tiêu điều, xơ xác, Thạch Lam đã thể hiện tình cảm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ, quẩn quanh và sự cảm thông, trân trọng trước những mong ước của những con người nghèo khổ ấy về một cuộc sống tươi sáng hơn. 1, Tác phẩm được mở đầu bằng những câu văn chậm dãi, giàu chất thơ, chất nhạc, với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu một ngày tàn. Đó là “Tiếng trống thu không trên cái chòi canh của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”, là vầng mặt trời ở phương tây “đỏ rực như lửa cháy”, là “những ánh mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” và “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Cảnh phố huyện khi chiều buông xuống thật gần gũi, quen thuộc, êm ả và đẹp mộng mơ. Có lẽ chỉ trong văn của TL mới có những buổi chiều quê như thế. Đọc tác phẩm, ta làm sao có thể quên được “một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, và ngay cả tiếng muỗi vo ve hay cái mùi riêng, cái mùi ẩm mốc nơi phố huyện cũng gợi cho chúng ta biết bao xao xuyến. Cảnh phố huyện lúc chiều tàn thật đẹp nhưng nhạt nhoà, tiêu điều, xơ xác và cũng thật buồn. Để làm nổi bật lên cái nhạt nhoà, tiêu điều, xác xơ ấy, TL đã điểm vào đó “cảnh tàn” của một phiên chợ quê nghèo trước khi màn đêm buông xuống. Lúc này “chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, chỉ còn một số người về muộn đang thu xếp hàng hoá và nói chuyện với nhau thêm ít câu nữa (Chắc là 18 những lời than thở) rồi khuất dần vào những ngõ quê ngập đầy bóng tối. Họ để lại phía sau một mặt đất đầy rác rưởi toàn những “vỏ buởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía”, những đồ phế thải thảm hại của một phiên chợ nghèo. Họ đi khỏi, những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ vội ùa ra để bòn mót, nhưng làm sao chúng có thể kiếm được gì từ những đồ phế loại tồi tàn ấy. Người này trông vào người kia để sống nhưng tất cả chỉ trông vào vô vọng! Suốt một ngày chợ phiên mà chị em Liên không bán được gì ngoài vài thứ lặt vặt, nhỏ mọn. Ngày chợ phiên còn vậy, những ngày thường thì sẽ ra sao? Theo bước đi của thời gian, những đặc trưng nơi phố huyện càng được thể hiện rõ hơn khi màn đêm buông xuống. Phố huyện vào đêm thật êm đềm và tĩnh mịch. Chất thơ, chất lãng mạn trong ngòi bút của TL đã đem đến cho phố huyện những vẻ đẹp thật nên thơ khi chiều xuống, đêm về. Giữa muôn ngàn vì sao lấp lánh trên bầu trời cao của một đêm mùa hạ “êm như nhung” là những làn gió nhẹ thoảng đùa qua kẽ lá, là những cánh hoa bàng, từng đợt một, rơi khe khẽ rụng xuống vai Liên, là tâm hồn thơ ngây, mộng mơ của hai đứa trẻ dõi theo bầu trời xa xăm để tìm con vịt và sông Ngân Hà,... tất cả những chi tiết ấy, hình ảnh ấy hiện lên thật đẹp, thật thơ, thật mộng qua tâm hồn giàu tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của nhà văn đất Quảng. Nhưng sẽ còn là mờ nhạt nếu khi nói đến bức tranh u ám của phố huyện mà không kể đến bóng tối nơi đây. Có thể nói ít có tác phẩm nào trong thế giới nghệ thuật của TL mà hình ảnh bóng tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi, trở lại như một ám ảnh không dứt như trong truyện ngắn này. Toàn bộ câu chuyện được đặt trong một cuộc tương tranh giữa bóng tối và ảnh sáng. Mở đầu là “phương tây đỏ rực như lửa cháy” và “những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn”, “Dãy tre làng... nền trời”. Ánh sáng vẫn còn nhưng yếu thế, bóng tối mới xuất hiện nhưng bắt đầu lấn át. Rồi cứ từng bước bóng tối ngập dần, đậm dần, lan tràn khắp cả phố huyện. Ánh mặt trời đã tắt, ánh sáng giữa màn đêm nơi phố huyện xuất hiện với tần số khá cao nhưng nhỏ nhoi, yếu ớt. Chúng chỉ là những khe ánh sáng, đốm sáng, vệt sáng, quầng sáng,.. của những ngọn đèn, của ngàn sao và của những con đom đóm. Thạch Lam đã dùng ánh sáng để tả bóng tối. Bóng tối của màn đêm ngự trị và bao trùm toàn phố huyện: đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”,... Như vậy, hiện lên trong tác phẩm, bóng tối được tác giả miêu tả thật ấn tượng. Nó không chỉ là đêm tối của thiên nhiên, của không gian và thời gian mà còn là bóng tối của cuộc đời, của những kiếp người nơi phố huyện. Nó đã trở thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc, đầy ám ảnh làm nổi bật cái cảnh “đen tối” của mỗi kiếp người, của những cư dân phố huyện. Vậy những con người nghèo khổ ấy là những ai? Họ được nhà văn miêu tả như thế nào? 2, Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc những cư dân phố huyện hiện lên là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, chỉ như một cái bóng. Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận,... nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ lay lắt, tội nghiệp đáng thương. +Mẹ con chị Tí có lẽ là điển hình cho cuộc sống ngoi ngóp, quẩn quanh, lay lắt của phố huyện này.Ngày mò cua bắt tép, tối đến lại ra sân ga bày hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì mà vẫn cứ phải đi. Đó đâu phải là sự sống thực sự mà chỉ là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng mà thôi. Cách chị trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng: “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì” đã cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn 19 của mẹ con chị Tí. Cuộc đời của mẹ con chị thu lại trên cái chõng hàng nước tồi tàn với ngọn đèn con giữa màn đêm dày đặc, mênh mông của phố huyện. +Bác phở Siêu lưng vốn có vẻ khá hơn nhưng nguy cơ lại lớn hơn bởi phở của Bác là “một thứ quà xa xỉ”, ở cái đất nghèo này liệu có mấy người có đủ tiền ăn khi mà ngay cả chị em Liên, đời sống có vẻ khá hơn, cũng chỉ dám nhìn mà mơ ước? +Vợ chồng bác xẩm với manh chiếu rách tồi tàn, với cái thau trắng để trước mặt, góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu ế ẩm bật lên trong đêm yên lặng. Thằng con nhỏ thì “bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. +Và trong đám cư dân ấy, dễ sợ nhất là bà cụ Thi, một bà cụ già “hơi điên” lại nghiện rượu với tiếng cười khanh khách, ghê sợ, với cái dáng hình lảo đảo đi lần vào bóng tối. Cụ là “cái sản phẩm nhỡn tiền của cuộc sống mòn mỏi ở cái phố huyện này” (Chu Văn Sơn) và mặc dù chỉ xuất hiện trong mấy dòng truyện ít ỏi nhưng con người ấy đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành. +Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời sống buồn thảm, tối tăm ấy là hình bóng của chị em Liên. Hai đứa trẻ xuất hiện âm thầm bên cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” (mẹ Liên thuê từ khi cả gia đình dọn từ Hà Nội về đây vì thầy Liên mất việc) mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi một bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp người lay lắt nhưng cuộc sống của Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Mỗi người, mỗi cảnh đời, mỗi số phận, nhưng đều là những con người nhỏ bé, tội nghiệp, ai cũng sống âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ, giống như những cái bóng lầm lũi, lặng lẽ trong cái bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả phố huyện. Họ đang sống nhưng là sống một cuộc sống lê vào bóng tối. Cuộc sống đó không chỉ có sự nghèo đói, tội nghiệp, đáng thương mà nó còn là một cuộc sống tẻ nhạt, quẩn quanh, không tương lai, không lối thoát. Cảnh phố huyện chiều tối hôm nay cũng giống như hôm qua và sẽ lặp lại trong ngày mai, nhịp sống của những người dân nghèo nơi phố huyện này ngày nào cũng như ngày nào lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, buồn tẻ: chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ thừa, cụ lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm, chị em Liên cũng “ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và ngày nào cũng vậy “cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần”,... Như vậy, “chừng ấy con người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của cô Quỳnh, cô Giao trong tác phẩm Toả nhị kiều của Xuân Diệu, nhớ đến những câu thơ của Huy Cận trong tác phẩm Quẩn quanh: “Quẩn quanh mãi với vài ba dáng điệu, – Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người. – Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười, - Môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện”. Thật đáng thương cho những con người phải sống một cuộc sống lay lắt, ảm đạm, nơi “bùn lầy, nước đọng”. Những thân phận, những con người nhỏ bé ấy đang sống lay lắt, nghèo khổ, đang héo mòn nơi phố huyện tối tăm. Họ đang sống cuộc sống của những kiếp người tàn tạ nhưng không mất đi hi vọng và niềm tin vào cuộc sống. Trong bóng tối mênh mông, dưới sự bủa vây của cuộc sống, nghèo nàn, không lối thoát, họ vẫn ước mơ, vẫn mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”. Dù ước mơ, mong đợi đó của họ thật mơ hồ, xa xăm, không biết bao giờ mới đến nhưng nó đã khẳng định dù trong hoàn cảnh nào, con người vẫn không thôi ước mơ về những điều tốt đẹp. Thấy được điều 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan