Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội đeo bám khách hay chiến lược sinh tồn của nhóm người bán hàng rong tại khu du lị...

Tài liệu đeo bám khách hay chiến lược sinh tồn của nhóm người bán hàng rong tại khu du lịch bãi sau, thành phố vũng tàu dưới góc nhìn văn hóa

.PDF
90
389
70

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ ANH ĐEO BÁM KHÁCH HAY CHIẾN LƢỢC SINH TỒN CỦA NHÓM NGƢỜI BÁN HÀNG RONG TẠI KHU DU LỊCH BÃI SAU, THÀNH PHỐ VŨNG TÀU DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA Chuyên ngành:Văn hóa học Mã số :60 31 06 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHẠM QUỲNH PHƢƠNG HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ Văn hóa học với đề tài:“Đeo bám khách hay chiến lược sinh tồn của nhóm người bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu dưới góc nhìn văn hóa”. Trƣớc tiên, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể Quý thầy, cô đã và đang giảng dạy, công tác tại Học viện Khoa học xã hội, đặc biệt là Quý thầy, côtrong khoa Văn hóa học, những ngƣời đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và định hƣớng cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận vănnày. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Phạm Quỳnh Phƣơng, ngƣời đã quan tâm, định hƣớng và có rất nhiều những góp ý hữu ích giúp tôi trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Cảm ơn cô vì đã cho tôi có một góc nhìn mới trong lĩnh vực nghiên cứu Văn hóa. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các đoàn thể, tổ chức và các cá nhân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập thông tin và các tài liệu liên quan. Cuối cùng, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và cơ quan nơi tôi đang công tác đã hết sức động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện về tinh thần, về vật chất và thời gian để tôi có thể hoàn thành đƣợc luận văn này. Xin chân thành cảm ơn! Vũng Tàu, ngày 24 tháng 7 năm 2016 Tác giả luận văn Lê Thị Anh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ KHU DU LỊCH BÃI SAU, THÀNH PHỐ VŨNGTÀU ........................................................................ 12 1.1. Cơ sở lý luận: thực hành văn hoá hàng ngày và chiến lƣợc của “kẻ yếu” ... 12 1.2. Giới thiệu chung về Bà Rịa - Vũng Tàu và khu du lịch Bãi Sau ................. 18 Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................. 22 Chƣơng 2: THỰC HÀNH ĐEO BÁM KHÁCH CỦA NHÓM NGƢỜI BÁN HÀNG RONG TẠI KHU DU LỊCH BÃI SAU, THÀNH PHỐ VŨNG TÀU ………………………………………………………………………….……....23 2.1. Thực trạng quy hoạch phát triển du lịch tạiVũngTàu .................................... 23 2.2. Thực trạng “đeo bám”khách .......................................................................... 26 2.3. “Đeo bám” khách và chiến lƣợc đối phó của ngƣời bán hàng rong .............. 42 Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................. 45 Chƣơng 3: "ĐEO BÁM KHÁCH" - CHIẾN LƢỢC SINH TỒN VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA ............................................................................................. ..46 3.1. Những ảnh hƣởng của chính sách kinh tế vĩ mô ..............................................46 3.2. “Đeo bám khách” và những vấn đề đặt ra ..................................................... 50 3.3. Đằng sau chính sách “cấm” của địa phƣơng ................................................. 57 Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................. 63 KẾT LUẬN ........................................................................................................ ..64 TÀI LIỆU THAM KHẢO…. ............................................................................... 66 PHỤ LỤC DANH MỤCCÁC TỪ VIẾT TẮT STT Từ/cụm từ viết đầy đủ Từ/cụm từ viết tắt 1 BR –VT Bà Rịa–VũngTàu 2 CT/TU Chỉ thị/Tỉnh ủy 3 ĐHQG Đại học Quốcgia 4 HN Hà Nội 5 KH–UBND Kế hoạch- Ủy ban nhân dân 6 KT- XH Kinh tế -xã hội 7 KHXH&NV Khoa học xã hội và nhânvăn 8 Nxb Nhà xuất bản 9 NĐ–CP Nghị định–Chính phủ 10 NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn 11 QĐ-TTg Quyết định–Thủ tƣớng 12 Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh 13 UBND Ủy ban nhân dân 14 VP Văn phòng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Du lịch Việt Nam đang là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đƣợc chính phủ quan tâm và thúc đẩy phát triển với hàng loạt các chiến lƣợc đƣợc đặt ra. Với tiềm năng du lịch là hàng chuỗi hệ thống sản phẩm, có bề dày hàng ngàn năm lịch sử, sản phẩm du lịch Việt Nam tập trung nhiều ở các loại hình lịch sử, văn hóa, tín ngƣỡng. Bên cạnh đó các sản phẩm du lịch từ thiên nhiên cũng rất phát triển, là điểm đến lý thú cho khách du lịch trong giai đoạn hiện nay. Theo thống kê của Tổng cục du lịch Việt Nam năm 2015, du lịch Việt Nam đón 7,943 triệu lƣợt khách quốc tế, tăng gần 1% với năm 2014. Khách du lịch nội địa đạt 57 triệu lƣợt, tổng thu từ khách du lịch đạt 338.000 tỷ đồng. Du lịch Việt Nam đề ra mục tiêu đón 8,5 triệu lƣợt khách quốc tế, tăng khoảng 6% so với năm 2015; phục vụ 60 triệu lƣợt khách du lịch nội địa, trong đó khách có sử dụng lƣu trú đạt 31 triệu lƣợt; tổng thu từ khách du lịch đạt 370.000 tỷ đồng. Doanh thu từ du lịch dự kiến sẽ đạt 18 – 19 tỷ USD năm 2020. Tuy nhiên, ngành du lịch Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trƣớc mắt, đặc biệt là khi quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa dần dần diễn ra mạnh mẽ, sự dịch chuyển về cơ cấu kinh tế tác động nhiều đến sự dịch chuyển lao động, trong đó chủ yếu là lao động từ nông thôn di cƣ đến các đô thị và trung tâm du lịch. Bên cạnh những khó khăn về cơ sở vật chất yếu kém, những khó khăn về sản phẩm dịch vụ thì hiện tƣợng “đeo bám khách” của những ngƣời bán hàng rong cũng là một hiện tƣợng đang đƣợc ngành du lịch Việt Nam hết sức quan tâm. Đó đƣợc coi nhƣ một trong những vấn đề cốt lõi cần “chấn chỉnh” để tạo dựng hình ảnh đẹp cho du lịch Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế đất nƣớc nhƣ hiện nay. Bà Rịa - Vũng Tàu (BR – VT) là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Nam 11 1 Bộ Việt Nam. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ở vị trí cửa ngõ ra biển Đông của các tỉnh trong khu vực miền Đông Nam Bộ, kết nối thuận lợi với thành phố Hồ Chí Minh và các địa phƣơng khác bằng đƣờng bộ và đƣờng thủy. Bên cạnh ngành kinh tế khai thác dầu khí thì BR – VT còn là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng trên cả nƣớc, thu hút hàng triệu lƣợt khách du lịch trong nƣớc và quốc tế mỗi năm. Chính vì vậy phát triển du lịch là một trong những trọng điểm phát triển kinh tế của địa phƣơng trong giai đoạn tới. Giống một số điểm du lịch khác trên cả nƣớc nhƣ Sa Pa, Hạ Long, Chùa Hƣơng…BR – VT là một trong những nơi bị truyền thông và dƣ luận lên án gay gắt về hiện tƣợng nêu trên. Điều đáng nói ở đây là không chỉ những thông tin xấu ấy xuất hiện trên báo chí, truyền thông và dƣ luận mà ngay cả những ngƣời làm chính sách tại địa phƣơng cũng nhìn nhận rằng: “cần quét sạch nạn đeo bám, chèo kéo khách” (bà Trƣơng Thị Hƣờng – Phó chủ tịch thành phố) với hàng loạt các biện pháp, hình thức chế tài đƣợc ban hành. Song song với sự lên án của xã hội về hiện tƣợng đeo bám khách là tâm lý đề phòng của du khách trong và ngoài nƣớc khi đi du lịch đến đây, du khách thƣờng thấy “ngại” tiếp xúc với ngƣời bán hàng vì sợ bị chặt chém, sợ bị ép giá hay sợ bị những ngƣời bán hàng rong đeo bám, nài nỉ, làm phiền... Và trong con mắt của du khách nhóm ngƣời bán hàng rong trở nên “đáng sợ”, “đáng đề phòng” bởi họ suy nghĩ rằng nhóm ngƣời đó chỉ vì chuộc lợi trƣớc mắt, vì lợi ích kinh tế và đó là những kẻ đáng bị lên án bởi những hành động không đẹp mắt, làm mất mĩ quan khu du lịch và khiến du khách không hài lòng nhƣ truyền thông, chính sách đã vạch ra. Thực tế, ngay chính cụm từ “đeo bám” khách đã mang ý nghĩa tiêu cực trong đó, vì thế thật khó để lý giải khi nhìn nhận hành vi thông qua dƣ luận xã hội, qua những đánh giá của truyền thông và những nhà làm chính sách . Hơn nữa, những ngƣời bán hàng rong đang thực hiện hành vi “đeo bám khách” lại là những ngƣời yếu thế, xuất thân từ những vùng quê nghèo, trình độ học vấn thấp, 22 2 và khó có cơ hội đƣợc nói lên tiếng nói của mình. Nghiên cứu này không đặt ra mục tiêu bênh vực, ủng hộ hay phản đối, lên án hành vi “đeo bám” khách của ngƣời bán rong ở Bãi Sau, cũng nhƣ những ngƣời bán hàng rong ở khắp mọi nơi trên cả nƣớc. Bằng những quan sát thực tế, bằng những dữ kiện có đƣợc trong quá trình điền dã, tiếp xúc, trải nghiệm, trong luận văn này tác giả chỉ muốn phân tích cụ thể hơn về hành vi “đeo bám” khách từ một góc nhìn khác – góc nhìn của những ngƣời trong cuộc để lý giải vì sao những ngƣời bán hàng rong lại chọn “đeo bám” khách nhƣ một phƣơng thức mƣu sinh. Vì vậy, “Đeo bám” khách hay chiến lược sinh tồn của nhóm người bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu dưới góc nhìn văn hóa là tên gọi mà tôi chọn cho đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về hiện tƣợng bán hàng rong đeo bám khách, trên thực tế đã đƣợc truyền thông nhắc đến khá nhiều, chúng ta có thể tìm thấy hàng trăm các bài báo nói về ngƣời bán hàng rong với các chủ đề nhƣ “lấn chiếm vỉa hè”, “làm mất mĩ quan đô thị”, “ảnh hƣởng xấu đến văn hóa”, “đeo bám, chèo kéo khách”... Các bài viết trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng hầu hết dƣới góc nhìn phê phán, lên án hành vi đeo bám khách của ngƣời bán hàng rong ở khắp mọi nơi trên cả nƣớc, đặc biệt ở các thành phố lớn và các khu du lịch. Đó là một số bài viết nhƣ: “Du lịch đuổi khách” của nhóm phóng viên báo Ngƣời lao động đăng ngày 8/8/2010, tiếp theo là bài: “Dẹp nạn đeo bám, chèo kéo khách” của tác giả Nguyễn Thị Loan trên trang thanhnien.vn đƣợc đăng tải ngày 8.1.2016, còn tác giả Hoàng Linh trên báo BR - VT đăng ngày 26/7/2014 thì viết bài với nội dung: “Du khách phiền lòng vì sự chèo kéo, đeo bám của hàng rong” và hàng loạt bài với tiêu đề: “Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu trƣớc nguy cơ mất khách” đăng số thứ nhất ngày 3/7/2012 trên trang: http://www.thuvienbrvt.com.vn (cổng thông tin chính thức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh BR – VT…. Đối với các bài viết, các phóng sự mang tính chất phê phán hành vi ấy thì tiêu điểm 33 3 chung là luôn đi tìm phƣơng án làm sao để dẹp bỏ vấn nạn đeo bám khách hoặc đổ lỗi chủ quan cho chính những ngƣời bán rong, coi đó là những tồn tại của xã hội cần dẹp bỏ. Song, trong “Vấn đề ngƣời bán hàng rong trên các đƣờng phố Hà Nội” tác giả Trần Thị Minh Đức và Bùi Thị Hồng Thái (Trƣờng Đại học KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội, 2010) có nêu lên quan điểm về hiện tƣợng này: “Bán hàng rong đã trở nên thân thuộc đến mức nó không đơn thuần được nhìn nhận từ góc độ kinh tế, mà còn được xem như một nét văn hóa đặc sắc phản ánh cuộc sống thường nhật của các dân tộc trên thế giới”. Ở vấn đề này tác giả cũng đã đi sâu nghiên cứu đời sống của ngƣời bán hàng rong và lý giải một số nguyên nhân dẫn đến hành vi đeo bám khách của họ trên đƣờng phố Hà Nội, trong đó có phân tích về những bất cập trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến hoạt động này. Nghiên cứu cũng phác họa ra đƣợc thực hành bán hàng rong trên các đƣờng phố là đáp ứng nhu cầu công việc của một bộ phận lớn số dân ở nông thôn ra thành thị mƣu sinh, ngoài vai trò kinh tế thì hoạt động đó còn có vai trò rất lớn nhƣ “nét văn hóa đặc sắc” Tác giả Nguyễn Thị Anh Thƣ (Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ, Đại học Quốc gia Hà Nội) trong bài đăng trên tạp chí Tâm lý học, số 4 (2009) với tiêu đề: “Tâm trạng lo lắng của ngƣời bán hàng rong” lại khắc họa rất sâu sắc về những trăn trở, lo lắng cho cuộc sống của một bộ phận dân cƣ thực hành nghề bán hàng rong, từ đó tác giả cũng chỉ ra một số bất cập trong việc thực hiện các chính sách cấm bán hàng rong. Trên một bài báo đã đƣợc website: vietnamnet.vn, 2008 nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có viết về chủ đề này với tiêu đề: “Cấm bán hàng rong – phép trừ không đơn giản”, trong đó ông nhấn mạnh: “Khi nghe tin sẽ cấm bán hàng rong tôi cảm thấy có một cái gì đó bất ổn. Một sự bất ổn ở đâu đấy trong lòng mặc dù tôi không phải là người sinh ra và lớn lên ở thành phố. Với tôi, hình ảnh của những người bán hàng rong với đôi quang gánh hoặc với một chiếc xe đạp thô 44 4 sơ cùng với những điều giản dị khác đã làm lên một phần trong vị đô thị Việt Nam” (http://vietnamnet.vn, 6/01/2008) . Trong nhận định này, tác giả đã nêu ra đƣợc rất nhiều yếu tố nhân văn khi nhìn nhận thực tế, những ngƣời bán hàng rong họ rong ruổi bán hàng trên đƣờng phố không những không làm mất đi hình ảnh đẹp, không tác động đến mỹ quan đô thị mà việc họ “lang thang bán hàng” còn thể hiện một nét văn hóa rất riêng biệt. Ngay từ tiêu đề của bài báo, ngƣời đọc cũng đã thấy ngay đƣợc những bất cập, những lộn xộn trong vấn đề này. Cũng trong một bài phỏng vấn của báo Đất Việt đƣợc đăng tải vào ngày 17/7/2015, ông Nguyễn Văn Mỹ Chủ tịch công ty du lịch Lửa Việt đã nói “khách du lịch một đi không trở lại – đừng đổ lỗi cho dân” vì theo ông: “tất cả những vấn đề tồn tại hiện nay nên nhìn từ trách nhiệm của lãnh đạo cao nhất. Liệu các vị đã thấy vấn đề chưa?”... Qua bài trả lời phỏng vấn của ông - ngƣời có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh du lịch đã phần nào thể hiện đƣợc tiếng nói của chính những ngƣời “đeo bám khách”, bởi theo quan điểm của ông thì đổ lỗi mất khách do những ngƣời bán hàng rong chèo kéo, đeo bám khách hoàn toàn là không đúng, trách nhiệm ấy phải thuộc về rất nhiều ngƣời, trong đó nhấn mạnh yếu tố quản lý. Có một số nghiên cứu liên quan đến cuộc sống của những ngƣời bán hàng rong một cách chung chung nhƣ khảo sát của nhóm sinh viên trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn tp. HCM về “Tình hình buôn bán hàng rong tại quận 10, tp. HCM ”, hay trong công trình dự thi Sinh viên nghiên cứu khoa học của nhóm sinh viên trƣờng Đại học ngoại thƣơng Hà Nội năm 2010 nghiên cứu về thực trạng và giải pháp cho hoạt động bán hàng rong ở Hà Nội hiện nay… Các nghiên cứu nêu trên cũng có nhấn mạnh đến một số tác động của xã hội lên cuộc sống của chính những ngƣời bán hàng rong, tuy vậy vẫn chỉ dừng lại ở việc mô tả hiện tƣợng, chƣa đi sâu nghiên cứu tâm thế hành vi của con ngƣời đối với các hoạt động của họ. Hầu hết các bài viết liên quan đến bán hàng rong ngƣời ta thƣờng hay gắn 55 5 nó với thực hành văn hóa “đeo bám” khách, vì vậy hiện tƣợng “đeo bám” khách của những ngƣời bán hàng rong trên cả nƣớc đang trở thành vấn đề đƣợc quan tâm của rất nhiều đối tƣợng, từ các cấp quản lý, truyền thông, du khách và bản thân những ngƣời nằm trong nhóm đối tƣợng này khi nền kinh tế Du lịch đang hết sức đƣợc chú trọng. BR – VT là một địa phƣơng nằm trong số các điểm du lịch mà hiện tƣợng “đeo bám khách” đƣợc phản ánh trên vô số các mặt báo và truyền thông. Trên các phƣơng tiện truyền thông hiện nay, sự xuất hiện của các thông tin cảnh báo, phê phán hiện tƣợng chèo kéo, đeo bám khách rất phổ biến. Nội dung của các thông tin đó chủ yếu xoáy sâu vào việc phê phán, coi việc đeo bám là ý thức của con ngƣời, gán cho họ những lời nói mang tính chất lên án, chê bai, phê phán (đó là bài: Người bán hàng rong và những phóng viên đạo đức giả trên website: http://plus.google.com đăng ngày 27 tháng 7 năm 2015, Mất mặt với nạn hàng rong bám khách trên website: http://vietnamnet.vn đăng ngày 10 tháng 5 năm 2013, bài Dẹp bỏ hàng rong đeo bám khách trên trang www.nhandan.org.vn đăng ngày 13 tháng 8 năm 2012, bài Ngăn chặn cách hành xử xấu với du khách trên báo Du lịch Việt Nam đăng ngày 9 tháng 5 năm 2013 và bài Cần dẹp nạn đeo bám làm phiền du khách trên báo Thanh niên đăng ngày 8 tháng 1 năm 2016…) Nghiên cứu về hiện tƣợng “đeo bám” khách của những ngƣời bán hàng rong dƣới góc độ tiếp cận văn hóa, coi hiện tƣợng “đeo bám” khách là chiến lƣợc mƣu sinh của con ngƣời, đó là việc thực hành văn hóa thƣờng ngày để đáp ứng nhu cầu kiếm sống của một nhóm ngƣời yếu thế trong xã hội thì gần nhƣ chƣa có công trình cụ thể nào, nghiên cứu cụ thể nào, đặc biệt trên địa bàn tỉnh BR – VT, khi đây là vấn đề vô cùng nhạy cảm và đƣợc coi là vấn đề “nóng” ở Bãi Sau, Vũng Tàu. Vì vậy, với vai trò của nhà nghiên cứu, tôi mạnh dạn nghiên cứu hiện tƣợng “đeo bám” khách dƣới góc nhìn văn hóa, coi đó nhƣ một chiến lƣợc sinh tồn của 66 6 nhóm ngƣời bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu. Đề tài mong muốn bƣớc đầu đƣa ra đƣợc một số nhìn nhận khác về hiện tƣợng này, góp phần giúp các nhà làm chính sách cũng nhƣ dƣ luận có cách nhìn rộng mở hơn, nhân văn hơn về hiện tƣợng nêu trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích cơ bản của nghiên cứu là lý giải một thực hành hàng ngày – “đeo bám” khách du lịch - của những ngƣời bình thƣờng trong bối cảnh phát triển du lịch ở Vũng Tàu. Thông qua nhóm ngƣời bán hàng rong và thực hành “đeo bám” khách của họ, nghiên cứu sẽ chỉ ra đƣợc những biến động cơ bản của xã hội Việt Nam, phản ánh những khía cạnh văn hóa, xã hội của một nhóm ngƣời “yếu thế” trong xã hội đƣơng thời. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ chỉ ra thực trạng “đeo bám” khách tại khu du lịch Vũng Tàu, đồng thời xác định các nguyên nhân dẫn đến hiện tƣợng “đeo bám” khách dƣới góc nhìn văn hóa. Dựa trên quan điểm lý thuyết về thực hành văn hóa hàng ngày, về chiến lƣợc sinh tồn của những ngƣời yếu thế trong xã hội, thông qua phỏng vấn sâu, luận văn đi sâu tìm hiểu lý do tại sao nhóm ngƣời bán hàng rong lại lựa chọn cách “đeo bám” khách, cũng nhƣ phân tích hiện tƣợng này phản ánh những khía cạnh gì về kinh tế, văn hóa, xã hội trong đời sống của một bộ phận ngƣời dân trong xã hội hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đề tài xác định đối tƣợng nghiên cứu chính là những ngƣời bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: luận văn xác định phạm vi nghiên cứu nằm trong địa bàn tỉnh BR – VT, cụ thể tại khu du lịch Bãi Sau – thành phố Vũng Tàu. 77 7 - Về thời gian: nghiên cứu hiện tƣợng “đeo bám” khách đang diễn ra của nhóm ngƣời bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu hiện nay (thời gian thực hiện luận văn từ tháng 3/2016 đến tháng 7/2016). 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn lựa chọn sử dụng phƣơng pháp định tính để nghiên cứu vấn đề “đeo bám” khách của những ngƣời bán hàng rong tại Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu, trong đó nghiên cứu sẽ lựa chọn thao tác chính bao gồm: - Điền dã dân tộc học - Phỏng vấn sâu - Phân tích văn bản 5.1. Điền dã dân tộc học Đây là phƣơng pháp đầu tiên tôi thực hiện khi bắt đầu manh nha cho nghiên cứu của mình. Mặc dù cần rất nhiều sự hỗ trợ của các thao tác liên quan, tuy vậy phƣơng pháp điền dã dân tộc học đã giúp tôi có một thời gian dài tiếp xúc, gần gũi với đối tƣợng nghiên cứu. Thông qua cách thực hiện này tôi có cơ hội tạo mối quan hệ thân thiết hơn, nói cách khác, tôi ít nhiều tạo đƣợc độ tin cậy đối với đối tƣợng nghiên cứu của mình. Khi thực hiện điền dã dân tộc học, tiếp xúc với những ngƣời “đeo bám” khách điều đầu tiên tôi thể hiện là tôn trọng họ, thông cảm với họ và vì vậy tôi có cơ hội để thực hiện phỏng vấn sâu một cách thoải mái hơn. Tôi bắt đầu thực hiện phƣơng pháp này giống nhƣ một vị khách đi du lịch tới đây và tổng quát mọi hoạt động ở khu vực này, từ việc quan sát tôi có điều kiện nhận biết đƣợc những dấu hiệu và một số hành vi cơ bản của hoạt động “đeo bám khách”. Trong những buổi đầu tiên tôi đến đây nhƣ đi du lịch, tôi rong ruổi khắp bãi biển và bắt đầu tham dự nhƣ những vị khách đang bị “đeo bám”, sau đó tôi tìm cách hòa nhịp với một vài ngƣời bán hàng, xin phép đi cùng họ, đƣợc đi theo họ cho đến khi họ gặp khách và bán đƣợc hàng, cứ nhƣ vậy tôi kết thân với một số 88 8 ngƣời và nói rõ lý do cần tìm hiểu nghiên cứu của mình. 5.2. Phỏng vấn sâu Đây là thao tác chính mà tôi sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài, đặc biệt là quá trình tham gia trò chuyện, phỏng vấn đối tƣợng là những ngƣời bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu chủ yếu là phỏng vấn bán cấu trúc (tôi có chuẩn bị sẵn một số câu hỏi, nhƣng cho phép cuộc hội thoại có thể tiếp tục mở theo nội dung trò chuyện). Việc phỏng vấn sâu những ngƣời bán hàng rong “đeo bám” khách nhằm tìm hiểu nguyên nhân ẩn sâu bên trong của họ về sự lựa chọn nghề nghiệp đang bị xã hội lên án. Tuy nhiên, hầu hết những ngƣời tôi phỏng vấn đều ngần ngại trả lời khi tôi hỏi các vấn đề liên quan đến chính sách và hậu quả mỗi khi bị trật tự đô thị hay công anbắt. Tƣ liệu thực tế cho nghiên cứu này đến từ việc tôi khảo sát 50 ngƣời bán hàng rong và phỏng vấn sâu 15 ngƣời, trong đó phỏng vấn sâu 7 ngƣời bán hàng rong, 3 cán bộ quản lý và 5 vị khách du lịch. Với phƣơng pháp “trái bóng lăn” (snow ball) – bắt đầu từ một thông tín viên chính và nhờ ngƣời đó giới thiệu với ngƣời khác, tôi tiến hành nghiên cứu bằng việc liên hệ với một phụ huynh học sinh của mình, đồng thời là ngƣời bán hàng rong lâu năm ở Bãi Sau, quan sát cách chị bán hàng và thực hiện hỏi chị với các câu hỏi gần gũi nhất mang tính chia sẻ. Sau đó tôi nhờ chị liên hệ với một số ngƣời cùng bán hàng rong lâu năm tại đây. Tôi tiếp tục quan sát, làm quen và thực hiện phỏng vấn từng đối tƣợng, trong đó có phụ nữ, có trẻ em và có cả ngƣời già. Tôi ƣu tiên phỏng vấn sâu vào những ngày cuối tuần vì đó là thời điểm tập trung đông khách nhất trong tuần, chính vì vậy hoạt động “đeo bám” của nhóm ngƣời bán hàng rong cũng xuất hiện nhiều hơn, thuận lợi cho việc chọn lựa đối tƣợng phỏng vấn. Sau khi phỏng vấn những ngƣời trực tiếp thực hành “đeo bám”, tôi tiếp tục phỏng vấn một số lãnh đạo địa phƣơng và khách du lịch để cố gắng khám phá những góc nhìn khác nhau về hiện tƣợng này. Với những nhà quản lý địa phƣơng, tôi hiểu đƣợc một số chính sách, định hƣớng phát triển của ngành du 99 9 lịch, thông qua đó nắm đƣợc những giá trị văn hóa mà chính sách xã hội thực hiện đối với những ngƣời bán hàng rong và hoạt động đeo bám khách của họ. Với khách du lịch, tôi tiếp xúc khá dễ dàng và họ thoải mái trả lời theo suy nghĩ và quan sát của họ. Một nhóm đối tƣợng tôi mất khá nhiều khó khăn để gặp đó là những nhà quản lý về Du lịch, trật tự đô thị, công an… Tuy vậy, tôi cũng đã cố gắng gặp đƣợc và tiến hành phỏng vấn đƣợc một vài nhà quản lý, những ngƣời làm chính sách cho hoạt động kinh tế du lịch tại địa phƣơng. Khi phỏng vấn, tôi cố gắng dùng máy ghi âm khi đƣợc cho phép, còn khi không thể ghi âm, tôi cố gắng ghi chép thật nhanh những câu trả lời qua cuộc trò chuyện trao đổi với họ, tôi chuẩn bị trƣớc các câu hỏi, tuy vậy trong quá trình hỏi và trả lời vẫn có một số câu hỏi và câu trả lời nằm ngoài các câu đã chuẩn bị. 5.3. Phân tích văn bản (tài liệu thứcấp) Sử dụng thao tác này nghiên cứu tập trung phân tích một số các bài phỏng vấn đƣợc đăng lên các báo, tạp chí của những ngƣời làm chính sách về kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh BR – VT, đồng thời phân tích các kết quả điều tra trong quá trình thực địa. Trong đó bao gồm cả những nội dung thông tin trên các báo, phƣơng tiện truyền thông nhằm phản ánh hiện tƣợng này. Trong quá trình phân tích văn bản, Luận văn tập trung đi sâu phân tích một số bài báo đã đƣợc đăng tải, từ đó có cơ sở bổ sung thêm một số nhận định về hiện tƣợng “đeo bám” khách của những ngƣời bán hàng rong dƣới góc nhìn khác nhau. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: luận văn là một nghiên cứu về thực hành hàng ngày của một nhóm những ngƣời dân thƣờng, từ đó khám phá những động năng của xã hội Việt Nam thời kỳ mở cửa, hội nhập. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn sẽ là công trình nghiên cứu dƣới một khía cạnh đi sâu vào tâm lý của đối tƣợng nghiên cứu giúp các nhà hoạch định chính sách và công chúng có thêm một góc nhìn của những ngƣời trong cuộc về hiện tƣợng “đeo bám” khách, từ đó đƣa ra những định hƣớng chính sách phù hợp với 1010 10 thực tiễn cuộcsống. 7. Cơ cấu của luậnvăn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của Luận văn gồm 03 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu Chƣơng 2: Thực hành “đeo bám” khách của nhóm ngƣời bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu. Chƣơng 3: “Đeo bám khách” – chiến lƣợc sinh tồn và những vấn đề đặt ra. 1111 11 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ KHU DU LỊCH BÃI SAU, THÀNH PHỐ VŨNG TÀU 1.1. Cơ sở lý luận: thực hành văn hoá hàng ngày và chiến lược của “kẻ yếu” Hoạt động bán hàng rong với thực hành “đeo bám” khách đƣợc lựa chọn nhƣ cách thức để bán hàng hàng ngày của một bộ phận ngƣời bán hàng ở Bãi Sau, Vũng Tàu. Nhƣ vậy nghiên cứu những hành vi diễn ra hàng ngày xung quanh đời sống của một bộ phận dân cƣ chính là nghiên cứu những thực hành văn hóa hàng ngày của họ và những thực hành trong các hành vi hàng ngày thể hiện một góc nhìn vănhóa. Trong định nghĩa của mình về văn hóa, E. B Tylor (1871) đã khẳng định văn hóa nhƣ “một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được”. Trong định nghĩa này Tylor chỉ ra rằng văn hóa là những “phức thể” mà những “phức thể” ấy do chính con ngƣời tạo ra, tuy vậy nó vẫn là những thực thể mang tính trừu tƣợng nhƣ “tri thức”, “tín ngƣỡng”, “nghệ thuật”… ở tầm vĩ mô nhƣng chung quy đó cũng là những sản phẩm do chính con ngƣời tạora. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc tới trong tác phẩm của mình năm 1940: “Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh 1995: 431). Với nhận định ấy, chủ tịch Hồ 1212 12 Chí Minh có nhắc đến “phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó”, qua khái niệm này, văn hóa dƣờng nhƣ đƣợc thu gọn hơn, ít nhiều phản ánh những yếu tố mang tính chất gần gũi với cuộc sống đời thƣờng hơn. Từ góc nhìn nhân học, Gary Ferraro thì cho rằng: “Văn hóa là tất cả những gì con ngƣời có, con ngƣời nghĩ và con ngƣời làm với tƣ cách là những thành viên của một xã hội” (Gary Ferraro, 1995:17). Đây đƣợc coi là khái niệm rộng và đầy đủ nhất về văn hóa bởi nó bao trùm tất cả những hành vi, những biểu hiện hay những suy nghĩ của con ngƣời, trong đó ta thấy cả những yếu tố mang tính “cao trào” và có cả những yếu tố mang tính “đời thƣờng”, nó trƣớc hết và sau cùng đều gắn với cuộc sống hàng ngày của con ngƣời. Theo tác giả Phạm Quỳnh Phƣơng (2014), văn hóa thƣờng ngày, trƣớc hết, là cách con ngƣời sống cuộc sống hàng ngày của họ, mà cách sống ấy phản ánh cách họ nghĩ, nhận thức và cảm nhận, dựa trên những bối cảnh khác nhau. “Nhƣ vậy văn hóa thƣờng ngày không phải là văn hóa nhìn dƣới góc độ nghệ thuật hay giá trị theo qui ƣớc, mà nó bao trùm lên mọi khía cạnh trong sinh hoạt đời thƣờng của cuộc sống con ngƣời. Từ những đặc trƣng của đời sống thƣờng ngày, văn hóa của đời sống thƣờng ngày biểu hiện một số tính chất: Lối sống (lifestyle); Là sản phẩm của những bối cảnh lịch sử học thuật và xã hội nhất định; Bị qui định bởi những mối quan hệ quyền lực và những dạng thức phản kháng; Đặc tính lặp lại, theo chu kỳ, quen thuộc và cảm xúc tự nhiên, mặc dù cũng bị đứt đoạn (bởi những sự bất ngờ); (Martin, 2003, dẫn theo Phạm Quỳnh Phƣơng,2014). Trong tác phẩm Phác thảo một lý thuyết thực hành (Outline of a Theory ofPractice),Pierre Bourdieu đã giải thích hành vi của con ngƣời, đặc biệt là nhấn mạnh tầm quan trọng của các hành động thực tiễn và sự tồn tại trong việc hiểu cá nhân con ngƣời. Từ góc nhìn này, hành động “đeo bám” khách nhƣ một hành vi đƣợc hình thành do tác động của nhiều yếu tố nhƣ giáo dục, văn hóa, xã hội, quan trọng nhất là do sự tác động của kinh tế thị trƣờng và sự mất cân bằng 1313 13 trong quan hệ quyền lực. Những hành vi, biểu hiện của họ xét dƣới góc cạnh văn hóa là sự phản ánh về đời sống xã hội, là bức tranh mô phỏng những mâu thuẫn thực tế ở một góc nhỏ của cuộc sống hiện thời, tuy vậy nó lại là sự thể hiện sâu rộng đến toàn xã hội với góc nhìn đa chiều. Trong tác phẩm Thực hành của đời sống thƣờng ngày (The Practice of Everyday Life), Michel de Certeur (1984) cho rằng đời sống thƣờng ngày không chỉ là các yếu tố mang quy luật tự nhiên mà còn bị chi phối bởi yếu tố quyền lực và chính trị. Theo Michel de Certeau, thực hành hàng ngày bao hàm cả chiến lược và chiến thuật. Chiến lược đƣợc sử dụng bởi các cấu trúc quyền lực có tổ chức, ví dụ nhƣ nhà nƣớc, công ty, hợp tác, một viện nghiên cứu, hay thậm chí một nhà khoa học, trong khi đó chiến thuật đƣợc sử dụng bởi những ngƣời bình thƣờng, bị thống trị. Nói cách khác, "chiến thuật" là phƣơng sách của những ngƣời không có quyền lực, là "nghệ thuật của kẻ yếu". Điều này thể hiện ở những ví dụ trong xã hội hậu công nghiệp, ngƣời dân trong các xã hội hiện đại đã thực thi "chiến thuật" riêng của mình để "xoáy trộm" những gì có thể nhằm phục vụ cho cá nhân, ví dụ nhƣ công nhân viên chức sử dụng các nguồn lực văn phòng của cơ quan (điện thoại, máy photo, giấy...) để sử dụng cho mục đích riêng, hay ngƣời đi thuê nhà trang trí căn hộ cho thuê nhằm phủ tính cá nhân của mình lên không gian đi mƣợn (Farmer 2003, dẫn theo Phạm Quỳnh Phƣơng, 2014). Mặc dù đó là những ví dụ cho thấy sự nhỏ nhặt và tầm thƣờng, nhƣng đó là những chiến thuật nhất thời, mƣu mẹo, thủ đoạn thông minh mà con ngƣời sử dụng để phản kháng, là những chiến thắng nhỏ hàng ngày của kẻ "yếu" đối với kẻ"mạnh". Tƣơng tự, trong tác phẩm Các dạng thức phản kháng hàng ngày (Everyday Forms of Resistance), khi nói về những chiến thắng nhỏ của kẻ yếu đối với kẻ mạnh, James Scott (1985) đã dùng những thuật ngữ nhƣ “vũ khí của kẻ yếu” (Weapons of the Weak) và “nghệ thuật của sự phản kháng” (Arts of Resistance) để chỉ ra rằng những ngƣời yếu thế trong xã hội cũng có những “vũ khí” nhất định của họ. Các thuật ngữ về “sự thống trị”, “quyền lực”, “phản 1414 14 kháng” hay “vũ khí của kẻ yếu”… đã đƣợc James Scott phác họa thông qua hình ảnh những ngƣời nông dân trong tác phẩm của ông. Trong nghiên cứu về những tác động của Internet đối với thanh niên, tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Châm (2013) đã vận dụng lý thuyết này của James Scott về sự phản kháng của những ngƣời yếu thế để nói về thứ “vũ khí” mà giới trẻ sử dụng thông qua không gian Internet để sống thật với suy nghĩ của họ: “Trong các công trình quan trọng của mình, James Scott đã bàn luận một số lí thuyết liên quan tới quyền lực (power), sự thống trị (domination) và phản kháng (resistance). Ông đã cung cấp một bối cảnh rộng cho việc xem xét quá trình mà những nhóm ít có quyền lực về kinh tế xã hội cũng nhƣ văn hóa đã phản kháng lại quá trình thống trị đối với việc khai thác lao động nhƣ thế nào” (James Scott 1985, dẫn theo Nguyễn Thị Phƣơng Châm, 2013). Luận điểm của James Scott có thể sử dụng để minh chứng đƣợc cho hành động “đeo bám” khách của những ngƣời bán hàng rong tại Bãi Sau, Vũng Tàu cũng chính là những hành động phản kháng hàng ngày đối với những tồn tại thực tế của xã hội, trong đó yếu tố quyền lực thể hiện rất rõ, những ngƣời bán hàng rong không có quyền lực về kinh tế, không có quyền lực về chính trị, văn hóa, để bán đƣợc hàng họ phải lựa chọn hình thức đeo bám, rong ruổi theo chân khách để mƣu sinh. Đó chính là cách thức phản kháng họ chọn lựa trong chính đời sống hàng ngày của họ. Luận điểm của James Scott cũng phần nào giúp lý giải hành động của những con ngƣời trong cuộc chiến đấu tranh sinh tồn, ở đó thứ “quyền lực” tối cao không thuộc về những “kẻ yếu”. Sinh tồn đƣợc coi là bản năng sẵn có của loài ngƣời, nó đƣợc coi nhƣ hiện tƣợng bẩm sinh của con ngƣời khi sinh ra, muốn tồn tại với cuộc sống đầy những thử thách, bắt buộc con ngƣời ta phải có chiến lƣợc, phải tìm ra cách thuận lợi nhất để tồn tại. Trong bất cứ một thời đại nào, một xã hội nào hay bất cứ một thời điểm nào kể từ khi con ngƣời sinh ra đến khi mất đi thì bản năng sinh tồn luôn luôn sẵn có để con ngƣời ứng phó với hoàn cảnh, giống nhƣ đói 1515 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan