Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành ph...

Tài liệu Dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.PDF
103
612
123

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ OANH DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Công tác xã hội Mã số : 60. 90. 01. 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. BÙI THỊ XUÂN MAI HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội với đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Bùi Thị Xuân Mai. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, được trích nguồn và trích dẫn đầy đủ. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô, của gia đình và bạn bè. - Lời cảm ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi tới PGS. TS Bùi Thị Xuân Mai - một người thầy, một trong những chuyên gia đầu ngành về CTXH. Tôi đã học được ở cô rất nhiều, từ phương pháp nghiên cứu đến thái độ làm việc và hơn cả là đam mê cống hiến cho ngành CTXH. - Tôi vô cùng biết ơn bà Luwahati Pablo - Giám đốc Chương trình Việt Nam của Tổ chức dịch vụ gia đình và cộng đồng quốc tế (CFSI). Thời gian làm việc với bà đã giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều. - Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám đốc và các thầy/cô của Học viện Khoa học xã hội Việt Nam (GASS) và Học viện xã hội Châu Á (ASI) những người đã cho tôi hành trang tri thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp. - Tôi xin trân trọng cảm ơn tới các sở, ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành việc thu thập số liệu phục vụ luận văn này. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cám ơn tới các anh chị đã tham gia vào quá trình khảo sát trong nghiên cứu này. - Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người thân, bạn bè đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý thầy cô, các nhà khoa học, các anh chị đồng nghiệp để tôi hoàn thiện những thiếu sót của luận văn. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ .................................................................11 1.1. Một số lý luận về nghèo, hộ nghèo do phụ nữ làm chủ...............................11 1.2. Một số lý luận về công tác xã hội, công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ ...............................................................................................................16 1.3. Một số lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ.......................................................................................................................21 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ ...............................................................................................................27 1.5. Cơ sở pháp lý về dịch vụ công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ .......29 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH........................................................................................................................32 2.1. Thông tin chung về địa bàn và khách thể nghiên cứu .................................32 2.2. Thực trạng đời sống, nhu cầu của hộ nghèo do phụ nữ làm chủ và đặc điểm tâm lý của phụ nữ nghèo làm chủ hộ ..................................................................36 2.3. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ.......45 2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ ...................................................................................64 CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................71 3.1. Định hướng bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ ...................................................................................71 3.2. Các giải pháp bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ ..............................................................................................72 KẾT LUẬN ..............................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CTXH Công tác xã hội DVXH Dịch vụ xã hội LHPN Liên hiệp phụ nữ PNLC Phụ nữ làm chủ PVN Phỏng vấn nhóm PVS Phỏng vấn sâu Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh UBND Ủy ban nhân dân XĐGN Xóa đói giảm nghèo DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tỷ lệ hộ nghèo theo giới tính của chủ hộ (%) ..........................................33 Bảng 2.2. Độ tuổi của chủ hộ (đơn vị:%) .................................................................35 Bảng 2.3. Tình trạng hôn nhân chủ hộ (đơn vị:%)....................................................35 Bảng 2.4. Nghề nghiệp của chủ hộ (đơn vị:%) .........................................................37 Bảng 2.5: Các nhu cầu của hộ nghèo do phụ nữ làm chủ .........................................40 Biểu đồ 2.1. Trình độ học vấn của chủ hộ ................................................................36 Biểu đồ 2.2. Thu nhập hộ gia đình (%) .....................................................................38 Biểu đồ 2.3. Nguồn thu nhập so với 5 năm trước (%) ..............................................39 Biểu đồ 2.4. Người đóng góp thu nhập nhiều nhất ...................................................39 Biểu đồ 2.5. Nhu cầu ưu tiên (%)..............................................................................41 Biểu đồ 2.6. Chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ .............................................................43 Biểu đồ 2.7. Hiểu biết về nghề CTXH (%) ...............................................................65 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo số liệu của Ngân hàng thế giới (WB) thì hiện nay trên thế giới có khoảng 1.3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Phụ nữ chiếm số đông trong những người nghèo đói cũng là kết quả được khẳng định qua Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Số liệu thống kê của UNDP cho thấy phụ nữ chiếm khoảng 70% tổng số người nghèo trên thế giới - điều này tạo nên một nhận định rằng “nghèo đói mang gương mặt phụ nữ”. Họ phải hứng chịu rủi ro đói nghèo cao hơn do có sự phân biệt đối xử trong lực lượng lao động, thiếu quyền sở hữu và phải gánh trách nhiệm nặng nề liên quan tới việc đồng áng, tự cung tự cấp, trách nhiệm trong gia đình và cộng đồng. Những hộ gia đình có phụ nữ làm chủ đang trở nên phổ biến hơn và đặc biệt dễ bị tổn thương trước đói nghèo [29, tr.18]. Qua các số liệu nói trên, chúng ta có thể thấy rằng vấn đề phụ nữ nghèo không riêng của một quốc gia nào mà là vấn đề của toàn cầu. Ở Việt Nam, tuy chưa có số liệu thống kê người nghèo/hộ nghèo theo giới tính nhưng theo báo cáo kết quả Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X, cả nhiệm kỳ đã có tới 1.7 triệu lượt hộ nghèo do PNLC nhận sự trợ giúp từ Hội LHPN Việt Nam. Trong Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh vai trò chủ thể, tính chủ động và phát huy nội lực của phụ nữ trong phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống. Hội LHPN Việt Nam luôn coi nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có hoạt động hỗ trợ hộ nghèo do PNLC giảm nghèo bền vững. Tp. HCM đã có riêng những mô hình thể hiện sự quan tâm thích đáng đối với hộ nghèo do PNLC nhưng tỷ lệ hộ do PNLC nằm trong diện hộ nghèo còn chiếm con số tương đối cao và có xu hướng tăng trong một số giai đoạn, cụ thể là tỷ lệ hộ nghèo do PNLC/tổng số hộ nghèo năm 2010 là 47.2%, năm 2011 là 48.3%, năm 2012 là 48.99%, năm 2013 là 53%, năm 2014 là 49%. Như vậy, vấn đề hộ nghèo do 1 PNLC cần phải được nghiên cứu để có những chính sách hỗ trợ phù hợp nhưng hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này tại Tp. HCM. Nhìn lại công tác giảm nghèo 23 năm qua của thành phố, ông Lê Thanh Hải Nguyên Bí thư Thành ủy Tp. HCM rất tự hào nhưng cũng đã thẳng thắn nhận xét “Kết quả giảm nghèo ở thành phố chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo đối với một bộ phận dân cư vẫn còn khá cao”. Hội thảo“Nghiên cứu tiếp cận và thử nghiệm phương pháp đo lường nghèo đa chiều tại Tp. HCM” cũng đã chỉ ra một số hạn chế trong công tác giảm nghèo của thành phố như tình trạng nhận diện nghèo và phân loại đối tượng chưa chính xác; chính sách hỗ trợ còn cào bằng và chưa đúng nhu cầu; đồng thời, các chương trình và hoạt động hỗ trợ giảm nghèo trên địa bàn thành phố bị chồng chéo về đối tượng và nội dung hỗ trợ có khi lại phân tán, manh mún, làm cho hiệu quả giảm nghèo chưa cao, chưa toàn diện và bền vững. Trong giai đoạn 2016 - 2020, thành phố sẽ chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, không chỉ quan tâm đến vấn đề thu nhập mà quan tâm và hỗ trợ người nghèo toàn diện trên tất cả các bình diện liên quan đến sức khỏe, giáo dục, hòa nhập xã hội, phát triển các kỹ năng, tăng cường năng lực… cho người nghèo. [30] Để thực hiện tốt được các chính sách giảm nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều thì vai trò của nghề CTXH nói chung và hoạt động cung cấp dịch vụ CXTH nói riêng là hết sức cần thiết. Trong đó, nhân viên CTXH sẽ giữ vai trò cầu nối, làm việc với các nhóm đa ngành và điều phối các nguồn lực để đảm bảo rằng các hộ nghèo, đặc biệt là các hộ nghèo do PNLC được tiếp cận các dịch vụ phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của mình. Từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để có được đánh giá khách quan về thực trạng các dịch vụ CTXH cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC tại Tp. HCM; từ đó đề xuất những biện pháp dưới góc độ CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp dịch vụ CTXH đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đảm bảo chất lượng. 2 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Nghèo đói là vấn đề toàn cầu, không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển. Vấn đề nghèo đói luôn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ở tất cả các quốc gia trên thế giới và ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Do vậy, những nghiên cứu về người nghèo nói chung và phụ nữ nghèo nói riêng không phải là mới trong bối cảnh nghiên cứu hiện nay. 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Các nghiên cứu Bài viết “Gender, poverty and globalization in India” của tác giả Pande R. (2007) đề cập đến mối liên quan giữa giới, nghèo đói và toàn cầu hóa. Tác giả cho rằng tại Ấn Độ quá trình toàn cầu hóa đã gây ra sự bất bình đẳng trong phân phối các nguồn lực theo địa vị, giới và dòng tộc. Phụ nữ nghèo ở khu vực nông thôn và trong các khu vực phi chính thức bị ảnh hưởng nặng nề nhất do các làn sóng chuyển đổi kinh tế gần đây. [34] Bài viết “Gender earnings and poverty reduction: post - communist Uzbekistan” của tác giả Bhat B.A (2011) đề cập đến vấn đề thu nhập theo giới và xóa đói giảm nghèo. Trong bài viết này, tác giả chỉ ra rằng ở Uzbekistan, phụ nữ có ít của cải, địa vị xã hội, quyền lực và cơ hội để tự khẳng định mình so với đàn ông có cùng vị trí xã hội. Quá trình nữ hóa nghèo đói ở Trung Á và Uzbekistan liên quan mật thiết với những hạn chế về văn hóa và thể chất. Chính điều này tạo ra bức trần cản trở sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế. [33] Cũng đề cập đến vấn đề phụ nữ nghèo nhưng tác giả Allahdadi F. (2011) trong bài viết “Towards rural women’s empowerment and poverty reduction in Iran” lại cung cấp một cách tiếp cận về trao quyền cho phụ nữ nông thôn trong hoạt động giảm nghèo tại Iran. Nghiên cứu này đã khẳng định đóng góp to lớn của phụ nữ trong công cuộc XĐGN ở nhiều vùng nông thôn tại các nước đang phát triển. Tác giả đã chỉ ra rằng, việc trao quyền cho phụ nữ nông thôn bị giới hạn bởi những rào cản văn hóa, hạn chế họ tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế. Những đặc điểm văn hóa đã gây ra những hạn chế rất nghiêm trọng đối với sự tự chủ, đi lại, và các loại hình sinh kế sẵn có dành cho phụ nữ. [32] 3 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Bàn về vấn đề phụ nữ nghèo, tác giả Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Hân (1996) trong cuốn sách “Phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường” đã mô tả được bức tranh về phụ nữ nghèo ở nông thôn. Tác giả đã đánh giá được thực trạng đời sống cũng như những khó khăn của phụ nữ nghèo nông thôn và đưa ra các khuyến nghị khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách XĐGN. [6] Nghiên cứu về vấn đề phụ nữ làm chủ hộ, tác giả Vũ Mạnh Lợi (1996) đã khái quát được bức tranh về hộ gia đình do PNLC ở Việt Nam, trong đó có chỉ ra những yếu tố quyết định của hiện tượng chủ hộ là nữ bao gồm tuổi, tình trạng hôn nhân, nơi ở, sự hiện diện của cha mẹ hay con cái đã trưởng thành trong hộ và số năm đi học. Năm 2011 trong bài viết “Chủ hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam là ai?”, tác giả nghiên cứu sâu hơn về các nguyên nhân dẫn đến số lượng phụ nữ là chủ hộ gia tăng, trong đó chỉ ra nguyên nhân lớn nhất là do sự biến đổi mạnh mẽ về thiết chế hôn nhân và gia đình. Đồng thời, tác giả cũng nêu ra một số hiện tượng đáng lưu ý như: tỷ lệ goá bụa ngày một cao ở phụ nữ lớn tuổi, di dân của nam giới khiến nông thôn nhiều nữ giới, tình trạng ly thân, ly hôn ở các gia đình trẻ, xu hướng phụ nữ trẻ quyết định lựa chọn cuộc sống làm mẹ đơn thân ngày một nhiều. [19] [20] Tác giả Trịnh Thị Ngọc Lan (2013) đã có một nghiên cứu sâu hơn về hộ nghèo do PNLC trong đề tài luận văn thạc sỹ “Tác động của chính sách xóa đói giảm nghèo đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ”. Tác giả nghiên cứu tác động của chính sách XĐGN đối với hộ nghèo do PNLC thông qua việc phân tích thực trạng tổ chức, triển khai thực hiện các chính sách XĐGN cũng như những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích được sự thay đổi trong đời sống vật chất và tinh thần của các hộ nghèo do PNLC dưới tác động của chính sách XĐGN và đưa ra các khuyến nghị về chính sách và với các chủ thể triển khai thực hiện chính sách XĐGN với hộ nghèo do PNLC. [16] Những nghiên cứu nêu trên đều là những nghiên cứu tiếp cận từ hướng nghiên cứu xã hội học và chủ yếu liên quan đến phụ nữ nghèo và phụ nữ làm chủ 4 hộ. Hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu khoa học trực tiếp liên quan đến hộ nghèo do PNLC. Đặc biệt là chưa có nghiên cứu nào liên quan đến dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC cũng như chưa có những hướng tiếp cận vai trò của nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ nhóm đối tượng này. Mặc dù vậy, đã có nhiều nghiên cứu về DVXH và dịch vụ CTXH. Trong cuốn sách “Phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến năm 2020 - Một số lý luận và thực tiễn”, tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012) đã luận giải bản chất kinh tế - xã hội của DVXH, cơ sở lý luận của phát triển DVXH, phân loại DVXH và chức năng của DVXH đối với sự phát triển xã hội ở nước ta; làm rõ vai trò và giới hạn của các chủ thể nhà nước và ngoài nhà nước trong tham gia tổ chức cung ứng DVXH; phân tích kinh nghiệm phát triển DVXH ở một số nước trên thế giới và thực trạng phát triển DVXH ở nước ta và những vấn đề đang đặt ra hiện nay; đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển DVXH và đổi mới quản lý phát triển DVXH ở nước ta đến năm 2020. [13] Cùng bàn về các DVXH, tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2014) trong bài viết “Thực trạng mạng lưới dịch vụ xã hội ở Việt Nam - những khuyến nghị giải pháp” lại đi sâu nghiên cứu nhu cầu và thực trạng mạng lưới các cơ sở cung cấp DVXH hiện nay ở Việt Nam. Qua đó, tác giả ra các giải pháp nhằm phát triển hệ thống DVXH, trong đó đề cập đến giải pháp phát triển mô hình mạng lưới của các cơ sở vừa tham gia quản lý nhà nước vừa tham gia cung cấp dịch vụ tại xã/phường. [23] Nhóm tác giả Nguyễn Thị Thái Lan, Đỗ Ngọc Bích, Chu Thị Huyền Yến (2016) trong bài viết“Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ công tác xã hội ở Việt Nam: thực trạng và nhu cầu” tại Hội thảo khoa học quốc tế ở Tp. HCM đề cập đến dịch vụ CTXH với khía cạnh chuyên nghiệp hóa. Trong đó, nhóm tác giả đã phân tích thực trạng, nhu cầu chuyên nghiệp hóa dịch vụ CTXH ở Việt Nam và đề xuất phát triển dịch vụ CTXH nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đảm bảo chất lượng. [17] Cũng nghiên cứu ở khía cạnh chuyên nghiệp hóa các dịch vụ CTXH nhưng tác giả Hà Thị Thư (2016) lại nghiên cứu trên nhóm đối tượng yếu thế. Bài viết “Sự chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với nhóm đối tượng yếu thế” của 5 tác giả một lần nữa khẳng định nhu cầu dịch vụ CTXH ở Việt Nam ngày càng cao. Tác giả cũng đã phân tích vai trò của dịch vụ CTXH với nhóm đối tượng yếu thế và chỉ ra hai khía cạnh của sự chuyên nghiệp là “con người chuyên nghiệp” và “môi trường chuyên nghiệp”. [26] Các nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo quý giá và vô cùng hữu ích cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Chúng tôi sẽ sử dụng các giả thuyết nghiên cứu, kết quả và kết luận trong các nghiên cứu kể trên để so sánh, bàn luận và làm rõ trong nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC và thực trạng dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM, trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp dưới góc độ CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC nói chung và tại Tp. HCM nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài cần giải quyết được các nhiệm vụ sau: Hệ thống hóa những khái niệm về hộ nghèo do PNLC, CTXH với hộ nghèo do PNLC và dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC. Đánh giá thực trạng đời sống, nhu cầu của hộ nghèo do PNLC và thực trạng dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC. Đề xuất các biện pháp dưới góc độ CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC nói chung và tại Tp. HCM nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM. 6 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu về đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các loại hình dịch vụ CTXH và công tác quản lý cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM. Phạm vi nghiên cứu về khách thể: 70 hộ nghèo do PNLC tại quận 9; 10 hộ cận nghèo do PNLC tại quận 5; 20 nhân viên, cộng tác viên CTXH. Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu thực địa tại quận 9, tuy nhiên có triển khai nghiên cứu tại quận 5 để so sánh đối chứng. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2013 - 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực, là hệ thống chặt chẽ các quan điểm, nguyên lý chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Tất cả những nguyên lý nào có tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận. Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ những đánh giá thực trạng dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC, tác giả hệ thống hóa khái niệm về hộ nghèo, hộ nghèo do PNLC, CTXH, CTXH với hộ nghèo do PNLC, dịch vụ, dịch vụ CTXH và dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC; và đề xuất các biện pháp dưới góc độ CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC nói chung và tại Tp. HCM nói riêng. Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: Nghiên cứu hệ thống những lý thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như quan điểm của Đảng và nhà nước về hệ thống an sinh xã hội, chính sách dành cho người nghèo, phương pháp tiếp cận đa chiều, quan điểm phát triển nghề CTXH trong đó có quan điểm về phát triển dịch vụ CTXH tại Việt Nam. 7 5.2. Phương pháp nghiên cứu Với nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp trong quá trình nghiên cứu để đảm bảo các thông tin thu được khách quan và đảm bảo tính khoa học. Các phương pháp chúng tôi đã sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: * Phương pháp điều tra bảng hỏi Đề tài thực hiện việc phỏng vấn bằng bảng câu hỏi trực tiếp đối với hộ nghèo do PNLC để thu thập thông tin. Số lượng mẫu là 70 hộ nghèo do PNLC được lựa chọn theo tiêu chí là đối tượng thụ hưởng của khách thể nghiên cứu. * Phương pháp phỏng vấn sâu Bên cạnh phương pháp điều tra bảng hỏi, chúng tôi cũng tiến hành thu thập thông tin bằng phương pháp PVS nhằm khảo sát sâu hơn những vấn đề mà phương pháp bảng câu hỏi chưa hướng tới được. Đối tượng PVS bao gồm: 20 nhân viên, cộng tác viên CTXH và 10 phụ nữ nghèo làm chủ hộ. * Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn Phương pháp phân tích tài liệu là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài sử dụng các thông tin có sẵn từ các cuộc nghiên cứu, các bài viết, tài liệu, giáo trình… đã được công bố có nội dung liên quan đến vấn đề mà đề tài nghiên cứu như giáo trình nhập môn CTXH, lý thuyết CTXH, tài liệu hội thảo “Nghiên cứu tiếp cận và thử nghiệm phương pháp đo lường nghèo đa chiều tại Tp. HCM”, kỷ yếu hội thảo “Nâng cao chất lượng đào tạo CTXH với chuyên nghiệp hóa các dịch vụ CTXH”, báo cáo nghiệm thu đề tài “Các giải pháp giảm hộ nghèo, tăng hộ khá ở Tp. HCM giai đoạn 2014 - 2020”… * Phương pháp quan sát Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học thực nghiệm thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập các thông tin 8 từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát khi nghiên cứu đề tài nhằm thu thập, bổ sung thông tin còn thiếu và kiểm tra đối chiếu, so sánh các thông tin từ việc quan sát để đánh giá độ tin cậy của các thông tin thông qua việc quan sát hoàn cảnh sống, thái độ, biểu hiện thể chất/tâm thần của người được điều tra. * Phương pháp thảo luận nhóm Chúng tôi đã tiến hành thảo luận nhóm đối với nhóm phụ nữ cận nghèo làm chủ hộ để có cơ sở so sánh thực trạng dịch vụ CTXH giữa hộ nghèo do PNLC và hộ cận nghèo do PNLC. * Phương pháp chuyên gia Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp chuyên gia để đánh giá về thực trạng dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM, từ đó tìm ra biện pháp tối ưu cho việc cung cấp các dịch vụ này. 6. Ý nghĩa của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm phong phú thêm hệ thống lý luận của CTXH với phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt, hẹp hơn là CTXH với phụ nữ nghèo. Đề tài cũng góp thêm cơ sở lý luận cho các chương trình, chính sách hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế và giảm nghèo bền vững của Hội LHPN Việt Nam. Những thông tin thu thập được từ luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực nghèo, chính sách hỗ trợ người nghèo và hướng tiếp cận nghèo đa chiều có lồng ghép giới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu đề tài làm sáng tỏ thực trạng dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM. Đây là nguồn tham khảo cho nhân viên, cộng tác viên CTXH trong hoạt động giảm nghèo của Tp. HCM. Đề tài cũng góp thêm các 9 thông tin, số liệu thực tế cho các giảng viên đang giảng dạy môn CTXH với phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có phụ nữ nghèo. Đề tài cũng đã góp phần một phần nhỏ trong việc khẳng định sự cần thiết của những người thực hành CTXH đối với công tác giảm nghèo, đặc biệt là giảm nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều. Đó cũng chính là một trong số những mục tiêu được thể hiện trong Đề án 32 về phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2020. Qua việc nghiên cứu thực trạng dịch vụ CTXH, tác giả đã đóng góp một vài ý tưởng trong việc cung cấp dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC. Những ý tưởng này được rút ra từ những phát hiện trong quá trình nghiên cứu để đưa ra những định hướng và giải pháp đảm bảo việc cung cấp dịch vụ CTXH cho hộ nghèo do PNLC. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của đề tài gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ - Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh - Chương 3: Định hướng và giải pháp bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. 10 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ 1.1. Một số lý luận về nghèo, hộ nghèo do phụ nữ làm chủ 1.1.1. Khái niệm nghèo và hộ nghèo 1.1.1.1. Khái niệm nghèo Nghèo là một vấn đề toàn cầu, được xã hội quan tâm vì đang càng ngày càng trở nên phức tạp do sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, trong đó nổi lên các vấn đề phân hóa giàu nghèo, phân tầng theo thu nhập, phân tầng theo mức sống xã hội, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Theo Tuyên bố Liên Hợp Quốc tháng 6/2008: Nghèo là sự phủ nhận quyền lựa chọn và cơ hội, là sự vi phạm nhân phẩm con người. Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, dễ bị bạo hành, không có quyền, bị loại trừ, phải sống ngoài lề xã hội hoặc dễ gặp rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và vệ sinh. Vì có nhiều khía cạnh được đề cập trong khái niệm nghèo nên tùy theo góc quan sát cũng như quan điểm của mỗi tổ chức, cá nhân nghiên cứu nghèo mà có cách tiếp cận khác nhau. Nhưng các khái niệm về nghèo đều phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo đó là: có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư, không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người và thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Như vậy, nghèo là một hiện tượng đa chiều, tình trạng nghèo không chỉ dừng lại ở việc thiếu hụt về thu nhập mà cần được nhìn nhận là sự thiếu hụt hay không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. 11 1.1.1.2. Khái niệm hộ nghèo Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn nghèo. Chuẩn nghèo là một khái niệm động, biến đổi theo không gian và thời gian. Về không gian, chuẩn nghèo biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng như đô thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi. Về thời gian, chuẩn nghèo biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử. Căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người cho từng giai đoạn cụ thể. Dựa theo chuẩn nghèo quốc gia, các địa phương đưa ra chuẩn nghèo phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của địa phương. Theo quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 19/11/2015 về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 đã đưa ra chuẩn nghèo như sau: - Hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DVXH cơ bản trở lên. - Hộ nghèo ở khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DVXH cơ bản trở lên. Hộ nghèo của Tp. HCM là những hộ (có hộ khẩu thường trú/KT3) có một hoặc cả hai tiêu chí, gồm thu nhập bình quân từ 21 triệu đồng/người/năm trở xuống; có tổng số điểm thiếu hụt của 5 chiều nghèo từ 40 điểm trở lên. Hộ cận nghèo là những hộ (có hộ khẩu thường trú/KT3) có hai tiêu chí gồm có thu nhập bình quân từ trên 21 triệu đồng/người/năm đến 28 triệu đồng/người/năm; có tổng số điểm thiếu hụt của 5 chiều nghèo dưới 40 điểm (từ 0 đến 35 điểm). 12 1.1.2. Các phương pháp đánh giá nghèo Các phương pháp đánh giá nghèo căn cứ vào một tiêu chí/một chiều gọi là nghèo đơn chiều hay nhiều tiêu chí/nhiều chiều gọi là nghèo đa chiều. Nghèo đơn chiều: Phương pháp đánh giá nghèo đơn chiều thường dựa vào thu nhập hay chi tiêu. Hội nghị thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra con số thu nhập để đánh giá nghèo, theo đó: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp dưới một đô la (USD) một ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại.” Tương tự với quan điểm trên là nhận định của nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith: “Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó, họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như là cái sự cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức”. Nghèo đơn chiều đã được các quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thống nhất là “tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”. Nghèo đa chiều: Cách xác định hộ nghèo theo phương pháp thu thập được xem là chuẩn của nhiều quốc gia trong nhiều năm nhưng gần đây đã được các chuyên gia đánh giá là không ổn và đưa ra thêm cách tính mới về nghèo được gọi là nghèo đa chiều. Việc đánh giá nghèo đa chiều nhằm tiếp cận những khía cạnh phi tiền tệ của nghèo. Nghèo đa chiều là một cách tiếp cận mới nên khái niệm nghèo đa chiều đang được nghiên cứu, xây dựng và áp dụng tại hơn 30 nước trên thế giới. Theo đó, thước đo đa chiều xem xét mức sống của dân cư một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn. Nó đo lường mức sống cả mặt kinh tế lẫn chất lượng cuộc sống theo các chiều khác nhau như: giáo dục, y tế, an sinh xã hội, nhà ở, dịch vụ cơ bản, tình trạng dễ bị tổn thương, rủi ro… Việc đo lường mức sống theo đa chiều là việc xác định các chỉ tiêu để đo các chiều và việc gộp các chiều thành bộ đo đơn hay để riêng từng chiều và sử dụng trọng số của các chiều. [30, tr.30] 13 1.1.3. Khái niệm hộ nghèo do phụ nữ làm chủ và đặc điểm tâm lý của phụ nữ nghèo làm chủ hộ 1.1.3.1. Khái niệm hộ nghèo do phụ nữ làm chủ Để làm rõ khái niệm về hộ nghèo do PNLC, chúng ta cần làm rõ quan điểm về chủ hộ trong gia đình. Theo Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, UNDP và The Royal Netherlands Embassy (2005): “Chủ gia đình là thành viên của hộ gia đình, là người có vai trò điều hành, quản lý gia đình, giữ vị trí chủ yếu, quyết định những công việc của hộ. Thông thường (nhưng không nhất thiết), chủ hộ là người có thu nhập cao nhất trong hộ, nắm được tất cả các hoạt động kinh tế và nghề nghiệp của các thành viên. Về mặt pháp lý, chủ hộ là đại diện hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể làm chủ hộ. Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự (Điều 107, Bộ luật dân sự). Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm hộ nghèo do PNLC là hộ nghèo theo chuẩn nghèo của địa phương, trong đó người phụ nữ (có thể là chủ hộ hoặc không là chủ hộ) nhưng họ đóng vai trò trụ cột, là lao động chính và tạo ra thu nhập chính cho gia đình. 1.1.3.2. Đặc điểm tâm lý của phụ nữ nghèo làm chủ hộ Theo số liệu thống kê về giới những năm đầu thế kỷ 21, tỷ lệ chủ hộ nữ trên toàn quốc tăng lên theo tuổi và đạt 31.5% ở nhóm tuổi 55 - 59 và 37.8% ở nhóm tuổi từ 65 tuổi trở lên. Nguyên nhân chủ yếu là bởi những biến đổi mạnh mẽ về thiết chế hôn nhân và gia đình. Tỷ lệ goá bụa ngày một cao ở phụ nữ lớn tuổi. Hiện tượng di dân của nam giới khiến nông thôn nhiều nữ giới. Tình trạng ly thân, ly hôn ở các gia đình trẻ, xu hướng phụ nữ trẻ quyết định lựa chọn cuộc sống làm mẹ đơn thân ngày một nhiều lên... Nhiều hộ gia đình do PNLC bị rơi vào tình trạng “khuyết thiếu”, thường có ít nguồn lực kinh tế. Họ còn chịu thiệt thòi do các bất bình đẳng về kinh tế trong lương bổng, phụ nữ vẫn thường phải làm các công việc được trả công ít hơn so với nam giới hoặc nếu có làm cùng công việc như nam giới thì mức tiền công vẫn bị thấp hơn [37, tr. 1]. Phụ nữ làm chủ hộ thường phải đối mặt với rủi 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan