Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn của thành phố hà ...

Tài liệu Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn của thành phố hà nội

.PDF
99
487
75

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ BÍCH LOAN DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THÁI LAN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội về “Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Trần Thị Bích Loan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC ................................................................................................. 13 1.1. Lý luận về bạo lực với phụ nữ .................................................................................. 13 1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực ................................. 18 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực ............................................................................................................................. 22 1.4. Cơ sở pháp lý về cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực ........ 26 Chương 2: THỰC TRẠNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................... 31 2.1. Giới thiệu về địa bàn và khách thể nghiên cứu ........................................................ 31 2.2. Thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực tại Hà Nội......................................................................................................................... 40 2.3. Các yếu tố ảnh hướng tới việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực ............................................................................................................................. 62 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC ................................... 69 3. 1. Nhóm các giải pháp về hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách .......................... 70 3.2. Nhóm các giải pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phòng, chống bạo lực với phụ nữ và dịch vụ công tác xã hội hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực ..................................... 72 3.3. Nhóm các giải pháp tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên cung cấp dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực...................................................................................... 73 3.4. Nhóm các giải pháp xây dựng, hoàn thiện và phát triển các mô hình dịch vụ công tác xã hội cho phụ nữ bị bạo lực ...................................................................................... 74 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 79 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLG: Bạo lực trên cơ sở giới BLGĐ: Bạo lực gia đình BTXH: Bảo trợ xã hội Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Bộ VHTTDL: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch CTXH: Công tác xã hội ĐCTC: Địa chỉ tin cậy Hagar: Hagar International Việt Nam NNBY: Ngôi nhà Bình yên NVCTXH: Nhân viên công tác xã hội PCBLGĐ: Phòng, chống bạo lực gia đình TGPL: Trợ giúp pháp lý TT CTXH Hà Nội: Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái vẫn đang là vấn đề báo động ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vấn đề này là trở ngại lớn trong tiến trình xóa bỏ bất bình đẳng giới, tiến đến xây dựng xã hội công bằng, văn minh và hiện đại. Theo Báo cáo Phụ nữ thế giới năm 2015 của Liên hợp quốc, trên thế giới cứ 3 phụ nữ thì có 1 người từng trải qua bạo lực thân thể/tình dục tại 1 thời điểm trong cuộc đời, ở một số quốc gia, con số này là 70%. Những phụ nữ bị bạo lực có nguy có phá thai và trầm cảm cao gấp 2 lần, ở một vài khu vực nguy cơ nhiễm HIV cao hơn 1,5 lần so với phụ nữ không bị bạo lực. Trên thế giới, hơn 700 triệu phụ nữ lập gia đình dưới 18 tuổi và trong số này cứ trong 3 người thì có hơn 1 người kết hôn dưới 15 tuổi. Khoảng 120 triệu trẻ em gái trên toàn thế giới từng bị ép buộc quan hệ tình dục hoặc các hành vi tình dục cưỡng ép khác tại một thời điểm trong cuộc đời. Phụ nữ trưởng thành chiếm gần một nửa số nạn nhân bị buôn bán được phát hiện trên toàn cầu. Tuy nhiên, ở hầu hết các quốc gia, dưới 40% phụ nữ là nạn nhân của bạo lực có nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ, trong đó, dưới 10% tìm kiếm sự giúp đỡ của cảnh sát [58]. Điều tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam của Tổng cục Thống kê năm 2010 cho thấy bạo lực đối với phụ nữ đang diễn ra khá phức tạp và để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Có 1/3 (34%) số phụ nữ đã từng kết hôn phải chịu bạo hành về mặt thể xác hoặc tình dục gây ra bởi chồng trong cuộc đời. Tại một số vùng, cứ mười phụ nữ thì có bốn người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ.So với những phụ nữ chưa từng bị bạo hành thì những người đã từng bị chồng bạo hành có nhiều khả năng bị bệnh tật và sức khỏe kém hơn gần hai lần và khả năng nghĩ đến việc tự tử nhiều hơn gấp ba lần [33]. Tại Việt Nam, bạo lực đối với phụ nữ không chỉ diễn ra trong gia đình mà còn ở các góc độ như: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn; mua bán, lạm dụng, quấy rối, xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em gái ở nơi làm việc, trường học, nơi công cộng; bị ép kết hôn với người nước ngoài vì lý do kinh tế; nạo phá thai để lựa chọn giới tính thai nhi gây nên mất cân bằng giới tính khi sinh [4]. 1 Bạo lực với phụ nữ đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sự phát triển của cá nhân, cộng đồng và xã hội. Có gần 1/3 phụ nữ cho biết công việc của họ bị gián đoạn bởi người chồng; 16% không thể tập trung vào công việc; 6,6% không có khả năng làm việc do ốm đau; 7% mất tự tin; phụ nữ từng bị bạo lực thiệt hại gần 20% thu nhập tiềm năng hàng tháng; ước tính ở cấp vĩ mô, tổng chi phí cơ hội và thiệt hại về năng xuất lao động do bạo lực gia đình gây ra lên tới 3,2% GDP và gần 38% ngân sách chính phủ cần chi cho y tế vào năm 2011 [42]. Trước những vấn đề nghiêm trọng của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, câu hỏi được đặt ra là khi bị bạo lực thì họ muốn tự giải quyết vấn đề của mình hay cần tìm sự hỗ trợ từ bên ngoài? Trường hợp họ cần tìm sự trợ giúp thì họ có thể tìm ở đâu? Họ có dễ dàng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực không? Các dịch vụ hỗ trợ có đáp ứng được nhu cầu của họ không? Các câu hỏi trên một phần đã được đề cập trong Báo cáo kết quả nghiên cứu về bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam của Tổng cục Thống kê năm 2010. Những kết quả này đã đưa ra một bức tranh thực trạng đáng lo ngại, đó là: Một nửa số phụ nữ từng bị chồng gây bạo lực gia đình (BLGĐ) chưa từng nói với bất cứ ai về vấn đề mà mình phải hứng chịu cho tới khi được phỏng vấn. Nếu họ đã từng nói điều này với ai đó thì thường là thành viên trong gia đình. Nhiều phụ nữ nghĩ bạo lực trong quan hệ vợ chồng là chuyện “bình thường” và phụ nữ nên tránh hoặc cam chịu những việc xảy ra với họ vì lợi ích và sự hòa thuận của gia đình. Hầu hết phụ nữ bị BLGĐ (87%) chưa bao giờ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các dịch vụ chính thống hoặc từ những người có thẩm quyền. Nếu họ có tìm kiếm sự hỗ trợ thì cũng là khi bạo lực đã nghiêm trọng và người họ thường tìm đến là lãnh đạo địa phương. Khoảng 1/5 số phụ nữ bị BLGĐ đã từng rời khỏi nhà ít nhất là một đêm. Thực tế gần như không có một lựa chọn nào cho phụ nữ đi đâu, về đâu và người phụ nữ thường quay về nhà [33]. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một trong những thước đo sự phát triển của một quốc gia đó là hệ thống cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của mọi người dân trong cộng đồng. Yếu tố này cũng phản ánh một nền an sinh xã hội tốt và hiệu quả. 2 Rà soát hệ thống/mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội hiện nay ở Việt Nam đã có các cơ sở cung cấp dịch vụ công lập, ngoài công lập, tư nhân, tôn giáo (chùa, nhà thờ) và của các tổ chức xã hội. Ở góc độ đối tượng thụ hưởng, tiếp cận dịch vụ thì hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội hiện đang có: hệ thống/mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ cho trẻ em, đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; cho người cao tuổi; cho phụ nữ, đặc biệt là dịch vụ cho phụ nữ bị BLGĐ, bị buôn bán; cho người có HIV/AIDS và cho người khuyết tật [25]. Chỉ tính riêng các cơ sở hỗ trợ nạn nhân bị BLGĐ, bị buôn bán, theo con số thống kê chưa đầy đủ trên toàn quốc hiện có 9.157 cơ sở tư vấn, 9.483 cơ sở khám chữa bệnh, 778 cơ sở bảo trợ xã hội, 6.625 cơ sở hỗ trợ nạn nhân và 31.072 địa chỉ tin cậy ở cộng đồng [11]. Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện có 34 Trung tâm CTXH đã được thành lập ở các tỉnh, thành phố, song mới có một vài tỉnh triển khai hệ thống này xuống tuyến dưới, còn chủ yếu là ở cấp tỉnh [5]. Nhóm đối tượng có thể tiếp cận dịch vụ do Trung tâm công tác xã hội (CTXH) cung cấp không chỉ là những người thuộc diện hưởng chính sách xã hội mà đã mở rộng tới những người dân có nhu cầu trong cuộc sống. Dịch vụ mà Trung tâm CTXH cung cấp không chỉ theo chính sách mà bao gồm hoạt động quản lý ca, tham vấn, tư vấn, can thiệp trị liệu nhóm, vãng gia, truyền thông cộng đồng... Năm 2016, tại Hà Nội có 622 cơ sở tư vấn về BLGĐ; 395 cơ sở khám chữa bệnh; 47 cơ sở BTXH (trong đó có 15 cơ sở BTXH công lập); 269 cơ sở hỗ trợ nạn nhân BLGĐ; 1.078 địa chỉ tin cậy ở cộng đồng [11]. Nếu chỉ nhận định dựa trên số liệu định lượng về số cơ sở hỗ trợ dịch vụ cho nạn nhân bị bạo lực, bị xâm hại và buôn bán, bước đầu có thể yên tâm rằng hệ thống cung cấp dịch vụ cho nạn nhân bị bạo lực đã được thiết lập. Song thực tế hệ thống/mạng lưới cung cấp dịch vụ này hoạt động như thế nào, chất lượng dịch vụ có đáp ứng được nhu cầu tiếp cận và sử dụng dịch vụ của người dân nói chung và phụ nữ bị bạo lực nói riêng hay không thì là một vấn đề cần được tìm hiểu, đánh giá một cách hệ thống và toàn diện. Bên cạnh đó, với quá trình hình thành và phát triển hơn một thế kỷ, những thành công và kinh nghiệm trên thế giới đã chứng minh vai trò của các dịch vụ 3 CTXH trong việc hỗ trợ giải quyết các vấn đề liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ. Liệu những dịch vụ này ở Việt Nam đã được phát triển một cách chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực chưa cũng cần có nghiên cứu đánh giá. Chính vì vậy, xuất phát từ yêu cầu cần có những nền tảng lý luận và thực tiễn từ khía cạnh luật pháp, chính sách, đặc biệt là nhu cầu tiếp cận và sử dụng dịch vụ CTXH cho nhóm phụ nữ bị bạo lực, tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu: “Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn của thành phố Hà Nội” để tìm hiểu thực trạng những loại hình dịch vụ CTXH hiện nay và đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm cải thiện việc tiếp cận và tăng cường các dịch vụ CTXH với nạn nhân bị bạo lực trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó có thể hỗ trợ phát triển loại hình dịch vụ này với các phụ nữ bị bạo lực trên toàn quốc. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay có các nghiên cứu được thực hiện dựa trên nhiều khía cạnh khác nhau về vấn đề bạo lực với phụ nữ và các loại hình dịch vụ hỗ trợ trên thế giới và ở Việt Nam, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả lựa chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu trong nước và quốc tế liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ và các dịch vụ cho nhóm phụ nữ này. 2.1. Những nghiên cứu trên thế giới: Tạp chí quốc tế về phúc lợi xã hội (International Journal of Social Welfare) số 18/2009 đã đăng bài viết của tác giả Weinehall, K. và Jonsson, M về “Sự bảo vệ phụ nữ khỏi bạo hành của nam giới – Women under protection – in hiding from violent men”. Các tác giả cho biết, năm 2007, dân số Thụy Điển vào khoảng 11.047 người, trong đó có khoảng 9 triệu người đang phải sống trong những điều kiện có nguy cơ cao cần sự bảo vệ cho sự an toàn của họ. 60% là phụ nữ, hầu hết họ đang phải trốn chạy khỏi những người đàn ông đã đánh đập họ, thậm trí vẫn tiếp tục đe dọa và tìm kiếm họ. Với nhóm phụ nữ này, các dịch vụ xã hội đem đến cho họ nhiều sự trợ giúp hữu ích như cung cấp thức ăn, chỗ ở, chăm sóc y tế, hỗ trợ tài chính và các hình thức bảo vệ xã hội. Điều đáng quan ngại là các dịch vụ xã hội cũng gặp nhiều khó khăn trong việc trợ giúp các nạn nhân do sự hạn chế về nguồn lực tài chính. Bởi vậy, sự trợ giúp của họ mới chỉ mang tính tạm thời và ngắn hạn [64]. 4 McLeod, A.L và các cộng sự có bài viết về“Kinh nghiệm tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực – Female Intimate partner violence survivors experience with necessary resources” đăng trên Tạp chí Tư vấn và Phát triển (Journal of Counselling and Development) số 88 cho thấy, gia đình và những người thân thường giúp đỡ nạn nhân có được chỗ ở an toàn sau khi bạo lực gia đình xảy ra. Tuy nhiên, tâm lý sợ hãi, xấu hổ của bản thân các nạn nhân hoặc suy nghĩ không dám rời bỏ người chồng của mình bởi điều đó có thể khiến họ phải từ bỏ ngôi nhà, con cái và các mối quan hệ thân thuộc cũng là rào cản đối với phụ nữ trong việc tìm kiếm sự trợ giúp từ phía mạng lưới các mối quan hệ xã hội của mình. Đối với các nhà công tác xã hội và cán bộ tư vấn, McLeod và các cộng sự cho rằng các nhà tư vấn cần hiểu và đánh giá một cách đầy đủ về các nguồn lực cá nhân của nạn nhân và khả năng tiếp cận các nguồn lực của họ, từ đó cung cấp cho họ sự bảo vệ và trợ giúp một cách phù hợp nhất [52]. Năm 2014, Liên hợp quốc xuất bản cuốn tài liệu“Từ bạo lực gia đình đến bạo lực giới tại Việt Nam: mối liên hệ giữa các hình thức bạo lực” đã đưa ra những nhận định như sau: Bạo lực giới là một hiện tượng phổ biến và phức tạp, thể hiện dưới nhiều hình thức, từ bạo lực gia đình đến quấy rối tình dục. Bạo lực giới duy trì sự bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ và là động lực duy trì, tăng cường các vai trò giới truyền thống. Trong mọi hình thức của bạo lực giới, phần lớn nạn nhân là phụ nữ và trẻ em gái nhưng họ lại ít được tiếp cận và nhận được dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Và sự thiếu hụt quyền lực của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội dẫn đến tình trạng các nhà chức trách/cơ quan chức năng làm ngơ và không hành động khi phụ nữ bị bạo lực tìm kiếm sự hỗ trợ, can thiệp [43]. Chuyên gia quản lý truyền thông của Hiệp hội nhân viên công tác xã hội quốc tế (IFSW) Nicole Brown đã có bài viết “Nhân viên cung cấp dịch vụ công tác xã hội có thể giúp chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ- Social Service Workers can help end violence against women” năm 2015 cho biết Hiệp hội nhân viên công tác xã hội quốc tế sẽ huấn luyện các nhân viên dịch vụ xã hội để phân tích và hiểu các lý do phức tạp và khác nhau mà bạo lực xảy ra đối với phụ nữ và có thể hỗ trợ cộng đồng thay đổi hành vi xã hội và ngăn ngừa bạo lực. Nhân viên cung cấp dịch vụ CTXH cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tư vấn, giới thiệu 5 để chăm sóc và điều trị sức khoẻ thể chất, tâm thần và tâm lý xã hội cho phụ nữ bị bạo lực. Nhân viên cung cấp dịch vụ CTXH cũng có thể là người vận động chính sách cho các nạn nhân và đôi khi có vai trò dẫn đầu trong việc hỗ trợ pháp lý cho nạn nhân bằng cách làm việc chặt chẽ với cơ quan thực thi pháp luật [53]. 2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Năm 2011, UNODC tại Việt Nam đã công bố Báo cáo nghiên cứu về chất lượng dịch vụ tư pháp hình sự hiện nay dành cho nạn nhân bạo lực gia đình ở Việt Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, 95% các vụ bạo hành phụ nữ là do người chồng gây ra. Tuy nhiên, chỉ có 43% vụ việc nhận được sự chú ý của cảnh sát. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, 77% các vụ việc không được cơ quan trợ giúp pháp lý chú ý. Thách thức mà cơ quan cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý phải đối mặt là thiếu chuyên gia và các khóa đào tạo về bạo lực gia đình, ngoài ra, nhiều người dân không biết về dịch vụ này hoặc khi nạn nhân bạo lực gia đình tiếp cận tới nhưng họ lại không được hưởng dịch vụ này bởi không thuộc diện hộ nghèo. Hầu hết các nạn nhân không nhận được sự chăm sóc y tế (68%). Một trở ngại nghiêm trọng cản trở việc xử lý hiệu quả các vụ bạo lực gia đình đó là thiếu sự hợp tác giữa các cấp chính quyền khác nhau, đặc biệt là giữa cơ sở y tế, công an, các tổ chức đoàn thể và đơn vị cung cấp dịch vụ TGPL [45]. Năm 2013, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam thực hiện Báo cáo nghiên cứu rà soát bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam, trong đó đề cập tới thực trạng các mô hình, hoạt động can thiệp về bạo lực trên cơ sở giới được triển khai từ năm 2007 đến 2013 như: các CLB/ nhóm tự lực về phòng, chống bạo lực gia đình; Tổ hòa giải; đường dây nóng (hotline); sàng lọc tại các cơ sở y tế; Đội can thiệp/nhóm phòng, chống bạo lực gia đình; hỗ trợ pháp lý; nhà tạm lánh; địa chỉ tin cậy (ĐCTC) tại cộng đồng; đào tạo nghề, hỗ trợ vốn cho nạn nhân bạo lực gia đình. Mô hình ĐCTC tại cộng đồng đã được triển khai rộng khắp tại các địa phương và thường được đặt tại nhà cán bộ chủ chốt của Hội Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh. Trong bối cảnh thiếu nguồn kinh phí để vận hành các nhà tạm lánh thì địa chỉ tin cậy được xem là một giải pháp lựa chọn tiềm năng. Tuy nhiên, mô hình này còn nhiều thách 6 thức do chưa có một tiêu chuẩn thống nhất về cơ sở vật chất cũng như dịch vụ để đảm bảo sự an toàn cho những người phụ nữ và gia đình chủ nhà của ĐCTC [6]. Năm 2015, Viện Nghiên cứu phát triển xã hội công bố Báo cáo “Các yếu tố xã hội quyết định bất bình đẳng giới ở Việt Nam”. Đây là công trình nghiên cứu từ 2012-2015. Trong nghiên cứu định tính, một số người cho biết, phụ nữ không được khuyến khích tố cáo bạo lực. Trong trường hợp phụ nữ tố cáo bị chồng bạo hành thì họ không chỉ là nạn nhân của bạo lực gia đình mà còn là nạn nhân của định kiến xã hội. Điều này có thể giải thích vì sao sự can thiệp của cơ quan pháp luật thường rất hạn chế, kể cả với những trường hợp bạo hành nghiêm trọng, kéo dài [47]. Tìm hiểu các nghiên cứu về việc tiếp cận dịch vụ và các mô hình can thiệp, hỗ trợ nhóm phụ nữ bị bạo lực cũng như về hoạt động thực hành CTXH đối với nhóm phụ nữ bị bạo lực ở Việt Nam nói chung và tại địa bàn Hà Nội nói riêng, tác giả thấy còn thiếu vắng những nghiên cứu này. Để phục vụ cho nghiên cứu, tác giả đã thu thập thông tin từ một số báo cáo hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VHTTDL). Hiện nay, trên phạm vi toàn quốc, Bộ VHTTDL triển khai mô hình phòng chống bạo lực gia đình, lấy việc thành lập Câu lạc bộ Xây dựng gia đình phát triển bền vững và Nhóm PCBLGĐ để triển khai các nội dung về xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát hiện, ngăn chặn các vụ BLGĐ [6]; Bộ LĐTBXH triển khai mô hình ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại của bạo lực trên cơ sở giới tại 63 xã của 63 tỉnh, thành phố, trong đó tập trung vào các hoạt động của câu lạc bộ, Tổ phòng, chống bạo lực giới, ĐCTC, nhà tạm lánh tại cộng đồng... [4]. Một số mô hình can thiệp do các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ triển khai trong thời gian qua như: Gói can thiệp tối thiểu phòng, chống bạo lực gia đình do UNFPA hỗ trợ Bộ VHTTDL, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam triển khai thí điểm tại Bến Tre và Hải Dương. Tuy nhiên, các can thiệp này mới chỉ ở cấp độ nhỏ và mang tính chất thử nghiệm. Như vậy, với các kết quả nghiên cứu, tài liệu liên quan ở cả trong nước và quốc tế cho thấy, bạo lực giới (BLG), BLGĐ và đặc biệt là bạo lực với phụ nữ được xem là vấn đề toàn cầu, vi phạm nghiêm trọng quyền con người của phụ nữ. Việc 7 tiếp cận tới các dịch vụ can thiệp và hỗ trợ của phụ nữ bị bạo lực còn bị tác động bởi nhiều yếu tố, từ định kiến xã hội tới điều kiện cơ sở vật chất của đơn vị cung cấp dịch vụ cũng như kỹ năng của đội ngũ nhân viên. Đây là những nội dung mà đề tài nghiên cứu này cần đi sâu phân tích để làm sáng tỏ ở chương 2 của Luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng dịch vụ CTXH cho phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới việc cung cấp dịch vụ CTXH cho nhóm đối tượng này. Dựa trên những kết quả nghiên cứu, đưa ra những phát hiện có tính thực tiễn sát với nhu cầu tiếp cận và sử dụng dịch vụ CTXH của nhóm đối tượng này, làm căn cứ để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH cho phụ nữ bị bạo lực. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: 3.2.1. Rà soát khung chính sách, pháp luật liên quan tới việc cung cấp dịch vụ trợ giúp nạn nhân bị bạo lực. 3.2.2. Tìm hiểu những đánh giá, nhận định của nạn nhân và nhân viên CTXH về thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH cho nhóm phụ nữ bị bạo lực. 3.2.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả dịch vụ CTXH đối với nhóm phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn nghiên cứu. 4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực tại thành phố Hà Nội 4.2. Khách thể nghiên cứu - Phụ nữ bị bạo lực có nhu cầu tiếp cận và sử dụng các dịch vụ CTXH tại địa bàn thành phố Hà Nội. - Cán bộ, nhân viên của Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội (TT CTXH) Hà Nội, Ngôi nhà Bình Yên (NNBY) thuộc Trung tâm Phụ nữ và Phát triển (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) và Hagar International Việt Nam (Hagar). - Cán bộ quản lý nhà nước lĩnh vực CTXH. 8 4.3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu Đề tài nghiên cứu đi vào tìm hiểu việc cung cấp dịch vụ CTXH cho phụ nữ bị bạo lực tại Hà Nội. Trên thực tế có thể có nhiều dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực và đơn vị cung cấp dịch vụ cho phụ nữ bị bạo lực. Tuy nhiên, đề tài giới hạn về phạm vi đối tượng và phạm vi khách thể như sau: 4.3.1. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về đối tượng: đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng dịch vụ CTXH đối với phụ nữ bị bạo lực, cụ thể là các dịch vụ về: tạm lánh an toàn; hỗ trợ y tế, chăm sóc sức khỏe; tư vấn, tham vấn tâm lý; tư vấn pháp lý; dạy nghề, giới thiệu việc làm và tái hòa nhập cộng đồng. - Phạm vi về khách thể: phụ nữ bị bạo lực đã đến TT CTXH Hà Nội, NNBY và Hagar để được hỗ trợ dịch vụ. - Phạm vi về thời gian: Từ tháng 9/2016 – 03/2017. 4.3.2. Giới hạn nghiên cứu: Nghiên cứu việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho phụ nữ bị bạo lực là một phạm vi rộng. Do thời gian và điều kiện có hạn, nên tác giả tập trung vào các khía cạnh sau: - Tìm hiểu về mạng lưới cung cấp dịch vụ CTXH trên địa bàn thành phố Hà Nội trên cơ sở nghiên cứu hoạt động tại 03 đơn vị (TT CTXH Hà Nội, NNBY và Hagar) và những dịch vụ hỗ trợ đối với nhóm phụ nữ bị bạo lực. Mặc dù trên địa bàn thành phố Hà Nội có nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực, song lại chưa gắn với dịch vụ CTXH. Do đó, việc lựa chọn ba cơ sở nêu trên để nghiên cứu bởi tính đại diện cho sự đa dạng về cơ cấu, loại hình tổ chức và được ghi nhận trong lĩnh vực hỗ trợ dịch vụ CTXH cho phụ nữ bị bạo lực tại Hà Nội. - Tìm hiểu và phân tích những nhận định của phụ nữ bị bạo lực khi có nhu cầu tiếp cận và sử dụng các dịch vụ CTXH tại địa bàn nghiên cứu. - Tìm hiểu và phân tích nhận định của NVCTXH về nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực và khả năng/năng lực đáp ứng dịch vụ của NVCTXH. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận 9 - Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng và lịch sử: từ những đánh giá về thực trạng phụ nữ bị bạo lực, thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH đối với phụ nữ bị bạo lực tại Hà Nội rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp để nâng cao hiệu quả CTXH đối với nhóm phụ nữ bị bạo lực tại Hà Nội. - Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những lý thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống chính sách hỗ trợ đối với phụ nữ bị bạo lực trong nước và quốc tế. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu: sử dụng các thông tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố để phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Những thông tin tác giả thu thập được xử lý một cách khoa học, mang tính chất định tính và định lượng để đảm bảo tính khách quan cho thông tin nhưng vẫn chứa đựng được nội hàm của Luận văn. 5.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: là phương pháp dựa trên hình thức hỏi đáp gián tiếp dựa trên bảng các câu hỏi được soạn thảo trước, điều tra viên tiến hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống nhất cách trả lời các câu hỏi, người được hỏi tự đọc các câu hỏi trong bảng hỏi và ghi cách trả lời của mình vào phiếu hỏi rồi gửi lại cho các điều tra viên. Với phương pháp này, tác giả sẽ tiến hành khảo sát 100 phụ nữ bị bạo lực đã tiếp cận dịch vụ hỗ trợ của TT CTXH Hà Nội (20 phiếu), NNBY (50 phiếu) và Hagar (30 phiếu); 20 người là lãnh đạo và NVCTXH của 03 đơn vị khách thể nghiên cứu nhằm thu thập thông tin về các nhu cầu tiếp cận dịch vụ CTXH của phụ nữ bị bạo lực và thực trạng việc cung cấp dịch vụ cũng như mức độ đáp ứng về chất lượng, hiệu quả dịch vụ từ phía các cơ sở cung cấp dịch vụ. 5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Thông tin được thu thập qua phỏng vấn 15 phụ nữ bị bạo lực, 07 nhân viên xã hội, 02 cán bộ quản lý nhà nước về CTXH. Mục đích sử dụng phương pháp này để xem xét nghiên cứu một cách sâu sắc, có căn cứ và cũng là hiểu rõ bản chất nguồn gốc của vấn đề đang nghiên cứu. Phương pháp này phục vụ cho việc khai thác sâu các thông tin định tính đối với bản thân phụ nữ bị bạo lực, những thông tin cần thu thập nhằm trả lời các câu hỏi liên quan đến nhu cầu cần được hỗ trợ của nạn nhân; 10 những khó khăn, hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nạn nhân. 5.2.4. Phương pháp quan sát: là phương pháp thu thập thông tin thông qua các tri giác như: nghe, nhìn để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng các mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Phương pháp này được sử dụng nhằm bổ sung và thu thập các thông tin còn thiếu để kiểm tra, đối chiếu, so sánh các thông tin thông qua việc quan sát để đánh giá độ tin cậy của các thông tin qua việc quan sát bối cảnh, tình trạng, thái độ, ứng xử, giao tiếp… của người được điều tra. 5.2.5. Phương xử lý dữ liệu nghiên cứu: Các số liệu định lượng thu thập được xử lý, phân tích qua phần mềm bảng tính Excell và phần mềm chuyên dụng SPSS 20.0. Các dữ liệu định tính được phân loại theo các nhóm chủ đề, các tiểu chủ đề và được tổng hợp, phân tích bổ sung cho số liệu định lượng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài sử dụng kiến thức trong lĩnh vực an sinh xã hội, chính sách xã hội, CTXH với phụ nữ bị bạo lực, đóng góp vào việc xây dựng cơ sở lý luận cho những nghiên cứu mang tính toàn diện hơn ở giai đoạn sau. Hơn nữa đề tài góp phần bù đắp những thiếu hụt kiến thức trong lĩnh vực CTXH với phụ nữ bị bạo lực, đặc biệt là tại Việt Nam. Đề tài sử dụng và góp phần kiểm chứng một số quan điểm lý thuyết nổi bật trong CTXH như: quan điểm về hệ thống sinh thái, lý thuyết về nhu cầu và lý thuyết thân chủ trọng tâm để lý giải một số vấn đề thực tiễn trong quá trình nghiên cứu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đối với các chính sách hỗ trợ dịch vụ dành cho phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn nghiên cứu: Trên cơ sở rà soát, đánh giá hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH dành cho phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn thành phố Hà Nội, đề tài hướng tới việc chỉ ra một số khía cạnh để hiểu về thực trạng cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực. Từ việc đánh giá thực trạng, đề tài góp phần đưa ra một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ nói chung và dịch vụ CTXH nói riêng dành cho phụ nữ bị bạo lực tại địa phương. 11 Đối với ngành CTXH: từ việc đánh giá thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH dành cho phụ nữ bị bạo lực tại TT CTXH Hà Nội, NNBY và Hagar, đề tài cũng nhằm bổ sung thêm một số thông tin, nghiên cứu thực tiễn về lĩnh vực này. Bên cạnh việc phát hiện, chỉ ra những tồn tại trong quá trình cung cấp dịch vụ dành cho phụ nữ bị bạo lực, đề tài nhằm góp phần làm rõ hơn vai trò cụ thể của NVCTXH trong quá trình trợ giúp một cách hiệu quả nhất cho phụ nữ bị bạo lực. Đối với các nhà hoạch định chính sách: các chính sách trợ giúp luôn nằm trong mối quan hệ biện chứng với thực tế xã hội và luôn biến đổi. Đề tài hướng đến việc đề xuất một số khuyến nghị làm cơ sở cho quá trình hoạch định, bổ sung chính sách của nhà nước trong vấn đề cung cấp dịch vụ CTXH đối với nạn nhân bị bạo lực. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực Chương 2: Thực trạng cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn thành phố Hà Nội 12 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC 1.1. Lý luận về bạo lực với phụ nữ 1.1.1. Một số khái niệm Khái niệm bạo lực: Tài liệu Hướng dẫn làm việc với nam giới gây bạo lực của Bộ LĐTBXH (2016) đã đưa ra khái niệm về bạo lực như sau: “Bạo lực được hiểu là việc sử dụng sức mạnh thể chất hoặc sự chi phối về quyền lực nhằm đe dọa hoặc trực tiếp xâm phạm đến một cá nhân, một nhóm hoặc cộng đồng, dẫn tới sự thương tật thể chất, thiệt mạng, tổn thương tâm lý, hạn chế hoặc tước đoạt các cơ hội trong phát triển bản thân của nạn nhân” [3]. Khái niệm bạo lực gia đình: Theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2006), BLGĐ được xác định là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình [29]. Khái niệm bạo lực trên cơ sở giới: Trong Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ, Liên hợp quốc (1993) đã nêu rõ bạo lực trên cơ sở giới là “bất kỳ hành động nào dựa trên cơ sở giới mà gây tổn hại hoặc đau đớn cho phụ nữ về mặt thân thể, tình dục hoặc tâm lý, kể cả việc đe dọa thực hiện những hành động như vậy, sự ép buộc hay tước đoạt tự do, cho dù xảy ra ở nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư” [57]. Khái niệm bạo lực đối với phụ nữ: Tài liệu hướng dẫn Huy động sự tham gia của cộng đồng trong phòng ngừa bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái của UNWomen (2016) đã đề cập khái niệm bạo lực đối với phụ nữ là “bất cứ một hành động, lời nói hay tác động thể chất, ép buộc hoặc đe dọa trực tiếp đến phụ nữ, dẫn đến những ảnh hưởng nguy hiểm về tâm lý, thể chất, làm nhục, tước quyền tự do hoặc kéo dài sự lệ thuộc của phụ nữ cho dù xảy ra trong đời sống riêng tư và/hoặc nơi công cộng” [36]. 1.1.2. Các hình thức của bạo lực đối với phụ nữ Bạo lực đối với phụ nữ là một khái niệm rộng, vì vậy ở nghiên cứu này phân loại bạo lực với phụ nữ theo 4 hình thức sau [31]: 13 Bạo lực thể chất: bao gồm tất cả những hành động gây thương tích đối với cơ thể của phụ nữ hoặc trẻ em gái. Dạng bạo lực này có thể nhận biết rõ ràng qua các hành vi như: tát, đánh đập, đấm, đá, hành hung bằng hung khí và có thể làm nguy hại đến tính mạng của nạn nhân. Đây là hình thức dễ nhận biết nhất của bạo lực nên nó có thể che giấu các hình thức bạo lực khác xảy ra cùng thời điểm (như bạo lực tình dục, kinh tế hoặc tinh thần). Bạo lực tinh thần: bao gồm sự ngược đãi về tinh thần, lời nói như là quát mắng, lạm dụng, coi thường, nhục mạ, cô lập. Thông thường, bạo lực tinh thần hạn chế khả năng tự đánh giá bản thân của phụ nữ, dẫn đến sự tự hạ thấp bản thân mình, trầm cảm, giảm cơ hội/khả năng kêu gọi sự giúp đỡ của bạn bè và gia đình. Mọi hình thức bạo lực đều gây ra những hậu quả về tinh thần cho phụ nữ. Bạo lực tình dục: là hành vi quấy rối tình dục hoặc cưỡng ép quan hệ tình dục ngoài ý muốn của nạn nhân, sử dụng những lời lẽ hoặc hành động cưỡng ép nạn nhân thực hiện những hành vi tình dục. Hành vi bạo lực tình dục gồm: các biểu hiện cưỡng ép quan hệ tình dục trái ý muốn, tấn công/quấy rối tình dục, bắt mang thai, nạo phá thai, ép xem các ấn phẩm đồi trụy, chứng kiến các hành vi tình dục của người khác... Hành vi này có thể diễn ra cả trong quan hệ vợ chồng, bạn tình. Bạo lực kinh tế: là hành vi nhằm xóa bỏ sự độc lập kinh tế của nạn nhân, bao gồm các hành vi đập phá tài sản của nạn nhân, phá hủy/ngăn cản công ăn việc làm; bắt đóng góp kinh tế quá khả năng; kiểm soát tiền bạc hoặc chi tiêu của nạn nhân; ép buộc các nạn nhân lao động quá sức hoặc đóng góp vượt quá khả năng thu nhập của họ, kiểm soát thu nhập và từ đó gây ra sự phụ thuộc về tài chính. 1.1.3. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực Một số đặc điểm tâm lý thường gặp ở phụ nữ bị bạo lực [61] Nhìn chung, phụ nữ bị bạo lực thường có những đặc điểm tâm lý nổi bật sau: Thứ nhất, cảm thấy xấu hổ, sợ hãi, hoảng loạn, bất lực, bế tắc, tuyệt vọng, trầm cảm, mất niềm tin. Thứ hai, dễ bị phân tán tư tưởng và mất tập trung. Thứ ba, khó khăn, yếu ớt trong việc thể hiện tình cảm, suy nghĩ, sự tự tin và thường muốn lẩn tránh đám đông. 14 Thứ tư, đáp ứng mọi yêu cầu, cố gắng làm vừa lòng người gây bạo lực (kể cả đáp ứng tình dục) để tránh xung đột xảy ra và duy trì mối quan hệ. Thứ năm, không làm gì để ngăn chặn bạo lực xảy ra, tự nhận lỗi, bao biện cho hành động của người gây bạo lực hoặc giảm nhẹ tình trạng bạo lực của mình với niềm tin/mong muốn cha mẹ, người thân, bạn bè không phải đau lòng về tình trạng bạo lực của mình. Thứ sáu, dễ bị trầm cảm, có ý định tự tử và có thể có những rối nhiễu về tâm thần. Nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực Như những người bình khác, phụ nữ bị bạo lực cũng có những nhu cầu được sống, được làm việc, được vui chơi, tham gia vào các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, với nhóm đối tượng này, họ còn có một số những nhu cầu riêng rất đặc trưng. Trước hết, phụ nữ bị bạo lực có nhu cầu được đảm bảo an toàn về tính mạng cả trước mắt và lâu dài cho bản thân họ, con cái của họ và những người thân họ yêu thương. Đây là nhu cầu cơ bản, cấp thiết cần được đáp ứng kịp thời cho phụ nữ bị bạo lực [62]. Thứ hai, nhu cầu được chăm sóc y tế, chữa trị vết thương kịp thời để giúp phụ nữ bị bạo lực ổn định sức khỏe và phục hồi thể chất [61, 65]. Thứ ba, nhu cầu được hỗ trợ tư vấn/tham vấn tâm lý để giúp họ vượt qua khủng hoảng, đồng thời trang bị thêm cho họ kiến thức, kỹ năng để họ có thể tự bảo vệ bản thân mình tốt hơn khi bị căng thẳng, đau buồn do bị bạo lực. Việc tư vấn, tham vấn tâm lý cho nhóm đối tượng này cần tạo được tin tưởng, thấu hiểu, đồng cảm, chia sẻ, không đổ lỗi, lên án hay kỳ thị, phân biệt đối xử về nguyên nhân gây bạo lực hay sự phản kháng lại hành vi bạo lực của người gây bạo lực [61, 62]. Thư tư, nhu cầu được hỗ trợ tư vấn pháp lý, đại diện ngoài tố tụng, thực hiện kiến nghị, hòa giải, đặc biệt trong các trường hợp phụ nữ ly hôn, bị xâm hại tình dục hay bị lừa bán làm mại dâm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ cũng như xét xử công minh những kẻ vi phạm pháp luật [61, 62]. Thứ năm, nhu cầu được học nghề, tạo việc làm hoặc những giải pháp hỗ trợ sinh kế bền vững để giúp phụ nữ bị bạo lực tự tin, độc lập, tự chủ đối với cuộc sống của mình [62]. 15 Thứ sáu, nhu cầu tái hòa nhập cộng đồng, không bị kỳ thị, phân biệt đối xử, đặc biệt với nhóm phụ nữ bị buôn bán, phụ nữ làm mại dâm [62]. 1.1.4.Các lý thuyết tiếp cận đối với phụ nữ bị bạo lực 1.1.4.1. Thuyết Nhu cầu của Abraham Maslow: Maslow (1908-1970), là nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Ông là người phát triển lý thuyết về nhu cầu của con người. Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc: nhu cầu cơ bản (ăn, uống, hít thở không khí...); nhu cầu về an toàn (tình yêu thương, nhà ở, việc làm); nhu cầu xã hội (được hòa nhập); nhu cầu được quý trọng (có vị trí trong một nhóm người, cộng đồng, xã hội); nhu cầu được thể hiện mình (được hoàn thiện, phát triển trí tuệ, được thể hiện khả năng và tiềm lực của mình). Sơ đồ 1.1: Cấu trúc tháp nhu cầu của Maslow (Nguồn http://vi.wikipedia.org) Hệ thống nhu cầu của Maslow được thể hiện dưới hình kim tự tháp. Nhu cầu ở bậc thấp thì xếp ở phía dưới. Các nhu cầu trên luôn tồn tại và đan xen lẫn nhau. Khi nhu cầu cơ bản, nhu cầu được an toàn được thỏa mãn thì mới nảy sinh các nhu cầu xã hội, tôn trọng và được thể hiện mình. Vận dụng lý thuyết này trong cung cấp dịch vụ xã hội cho phụ nữ bị bạo lực, nhân viên xã hội sẽ xác định được nhu cầu nào là quan trọng và cần đáp ứng trước tiên cho thân chủ, trên cơ sở đó thiết lập kế hoạch và huy động các nguồn lực liên quan. 1.1.4.2. Lý thuyết hệ thống 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan