Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ định hướng giá trị về gia đình của người công nhân đang làm việc tại các doanh n...

Tài liệu định hướng giá trị về gia đình của người công nhân đang làm việc tại các doanh nghiệp hiện nay

.PDF
148
555
97

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THỊ VÂN ANH Định hướng giá trị về gia đình của người công nhân đang làm việc tại các doanh nghiệp hiện nay Chuyên ngành: Xã hội học Mã số 5.01.09 LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC Nghd. : PGS. TS. Vũ Hào Quang PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Sự phát triển kinh tế xã hội trong những năm gần đây đã tác động mạnh mẽ tới nhiều tầng lớp và nhóm xã hội, trong đó có nhóm công nhân đang làm việc tại một số doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Những điều tra Xã hội học đã cho thấy chính những thành công bước đầu nhưng đáng kể của sự đổi mới đất nước đã tạo ra thế hệ công nhân mới góp phần không nhỏ vào sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Với những đặc trưng riêng về nguồn lực, những người công nhân này đang đứng ở trung tâm của sự biến đổi của đất nước, trong đó có những biến đổi về nhận thức, định hướng giá trị cũng như những hoạt động sống trong gia đình họ. Gia đình là một yếu tố cấu thành của xã hội tổng thể, nó cũng phản ánh chân thực những mối quan hệ đa dạng và phức tạp. Trong quá trình chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, sự biến đổi những giá trị của gia đình truyền thống và sự hình thành những hình thái mới là một tất yếu. Tuy nhiên diễn biến đó hết sức phức tạp. Hiểu kỹ về thiết chế gia đình, những chuyển đổi về cơ cấu, chức năng, định hướng giá trị của gia đình sẽ giúp nhà nghiên cứu hiểu hơn về xã hội và gia đình Việt Nam. Trước sự thay đổi của bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay của đất nước, những giá trị đích thực trong gia đình đang được người dân quan niệm ra sao?. Có sự khác biệt trong định hướng giá trị về gia đình giữa công nhân đang làm việc tại doanh nghiệp Quốc doanh và công nhân đang làm việc tại doanh nghiệp ngoài Quốc doanh hay không? Từ việc tìm hiểu nhận thức, quan điểm, nhu cầu của công nhân về tiêu chuẩn lựa chọn con dâu, con rể; về giáo dục con cái; về 1 vai trò vợ chồng trong gia đình tác giả mới hiểu được những định hướng cho sự phát triển nhân cách nói chung và định hướng giá trị về gia đình nói riêng họ. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả tiến hành một nghiên cứu Xã hội học thực nghiệm để lý giải các sự kiện xã hội diễn ra trong đời sống những người công nhân đang làm việc tại doanh nghiệp. Họ đóng vai trò là một nhóm xã hội đặc thù, là một tiểu hệ thống trong một xã hội tổng thể. Bên cạnh đó, luận văn chỉ ra những nét điển hình trong nhận thức về gia đình của công nhân trong doanh nghiệp ngoài Quốc doanh trên cơ sở so sánh với những công nhân trong doanh nghiệp Quốc doanh. Từ đó nêu bật lên diện mạo nhóm công nhân này trong thời kỳ đổi mới qua nghiên cứu định hướng giá trị về gia đình của họ. 2.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài: 2.1.Ý nghĩa khoa học: Trong khuôn khổ tổng thể những vấn đề được đề cập đến, luận văn mang một ý nghĩa khoa học nhất định. Từ cách tiếp cận Xã hội học với tư cách là bộ môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ cá nhân và xã hội, quá trình xã hội hóa cá nhân, luận văn vận dụng hệ thống lý thuyết Xã hội học cơ bản như thuyết Cấu trúc - chức năng, thuyết Hành động xã hội, thuyết Vai trò để lý giải những sự kiện xã hội diễn ra trong đời sống gia đình họ. Những đóng góp của luận văn sẽ giúp cho các nhà quản lý có cách nhìn nhận đúng đắn định hướng giá trị về gia đình của công nhân tại các doanh nghiệp hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đổi mới điều chỉnh và bổ sung cho việc hoàn thiện chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công nhân lao động. Đồng thời, góp phần khẳng định sự biến đổi về chất lượng và số lượng 2 của người lao động là trên cơ sở của sự biến đổi xã hội mạnh mẽ, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2.Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nhìn nhận mặt tích cực cũng như hạn chế trong định hướng giá trị về gia đình của công nhân tại một số doanh nghiệp, luận văn là một tư liệu sống mô tả thực trạng nhận thức về quan điểm và hành động của họ. Nghiên cứu định hướng giá trị về gia đình của người công nhân đang làm việc tại doanh nghiệp có một ý nghĩa thực tiễn quan trọng là giúp ta nắm bắt được kịp thời những biến đổi trong mức sống, trong tiêu chí lựa chọn hôn nhân, trong mối quan hệ vợ chồng của họ. Từ đó, luận văn đưa ra những kết luận và khuyến nghị phù hợp để các nhà quản lý ở các cấp có chính sách và giải pháp phù hợp nhằm nâng cao nhận thức của công nhân trong việc xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1.Mục đích nghiên cứu: Làm rõ định hướng giá trị về gia đình của công nhân trong lĩnh vực: định hướng giá trị trong hôn nhân, định hướng giá trị trong vai trò và quan hệ vợ chồng, định hướng giá trị trong việc giáo dục con cái và định hướng giá trị trong việc sử dụng thời gian rỗi. Đưa ra những khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và quan điểm của công nhân trong giai đoạn mới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 3 Tổng thuật những kết quả của các công trình nghiên cứu khác có liên quan tới nội dung và mục đích nghiên cứu của đề tài. Khảo sát công nhân đang làm việc tại 2 doanh nghiệp thuộc địa bàn Hà Nội. Xử lý 300 phiếu sau khi điều tra bảng hỏi bằng chương trình SPSS. Trình bày cơ sở lý thuyết của đề tài (như: thuyết Vai trò, thuyết Cấu trúc Chức năng, thuyết Hành động xã hội) Phân tích các số liệu thực nghiệm theo nội dung nghiên cứu: định hướng giá trị trong hôn nhân, định hướng giá trị trong vai trò và quan hệ vợ chồng, định hướng giá trị trong việc giáo dục con cái và định hướng giá trị trong việc sử dụng thời gian rỗi. 4. Đối tƣợng, phạm vi, khách thể nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Định hướng giá trị về gia đình của công nhân trong doanh nghiệp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Không gian: Công ty dệt may Hà Nội và Công ty TNHH Đức Nam Long Thời gian: Từ 03/2005 đến 01/2006 4.3. Khách thể nghiên cứu: Công nhân đang làm việc trong Công ty dệt may Hà Nội (doanh nghiệp Quốc doanh) và công nhân đang làm việc trong Công ty TNHH Đức Nam Long (doanh nghiệp ngoài Quốc doanh). 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: 5.1. Phương pháp luận: 4 Trong nghiên cứu này chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được xác định và vận dụng làm phương pháp luận nhận thức các hiện tượng được nghiên cứu. Một số yêu cầu về mặt nhận thức: + Cơ cấu xã hội, những qui luật vận động và phát triển của xã hội là đối tượng nghiên cứu của Xã hội học phải được xem xét như nó đang tồn tại, đang thể hiện chứ không phải theo ý kiến chủ quan của người nghiên cứu. + Các hiện tuợng, qui luật của xã hội cần được xem xét như nó đang xảy ra một cách bình thường: có nghĩa là các nghiên cứu Xã hội học không phải hướng tới các hiện tượng ngẫu nhiên, không bản chất. + Quá trình nhận thức trong Xã hội học không chỉ dừng lại bên ngoài sự vật và hiện tượng mà cần nhận thức được bản chất bên trong cũng như qui luật khách quan của nó. + Những hiện tượng xã hội cần phải được xem xét trong mối quan hệ phụ thuộc nhau, phải chỉ ra vai trò của từng yếu tố trong mối quan hệ đó. + Các nghiên cứu Xã hội học thực nghiệm phải được xuất phát từ thực tế lịch sử của mỗi xã hội cụ thể. + Sự hình thành, biến đổi và phát triển của sự vật hiện tượng phải được phân tích trên những cơ sở kinh tế - văn hoá - xã hội nhất định trong tính biện chứng và duy vật của nó. Vận dụng phương pháp luận trong đề tài này tác giả đặt định hướng giá trị về gia đình của người công nhân trong tiến trình ảnh hưởng của bối cảnh đất nước chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. 5.2.Chọn mẫu nghiên cứu: 5 Mẫu chính: luận văn thực hiện phương pháp chọn mẫu ở hai doanh nghiệp sau: - Công ty dệt may Hà Nội (doanh nghiệp Quốc doanh) - Công ty TNHH Đức Nam Long (doanh nghiệp ngoài Quốc doanh) Luận văn thực hiện phương pháp điều tra bằng bảng hỏi tại hai đơn vị trên với số lượng 314 phiếu và sử dụng 300 phiếu sau khi kiểm tra và làm sạch. Doanh nghiệp Quốc doanh Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Tổng Nam 68 71 139 Nữ 82 79 161 150 300 Tổng 150 Mẫu so sánh: Mẫu so sánh gồm 300 đơn vị được lấy từ hai doanh nghiệp trên địa bàn ngoài Quốc doanh. Tại Công ty TNHH Đức Nam Long (doanh nghiệp ngoài Quốc doanh) lấy được 150 phiếu theo nguyên tắc điều tra bằng bảng hỏi. 150 phiếu này được chọn làm mẫu so sánh với 150 phiếu điều tra tại Công ty dệt may Hà Nội (doanh nghiệp Quốc doanh) để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận văn. 5.3. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: 5.3.1.Phương pháp trưng cầu ý kiến. Đây là phương pháp thu thập thông tin thực nghiệm cơ bản nhất của luận văn. 6 Phiếu trưng cầu được xây dựng trên cơ sở của nội dung nghiên cứu bao gồm các câu hỏi về cơ cấu dân số - xã hội của người lao động trong doanh nghiệp và nhân tố ảnh hưởng. Dung lượng mẫu: 314. Đơn vị lấy mẫu: doanh nghiệp. Phạm vi lấy mẫu: tại thành phố Hà Nội. Cơ cấu của đối tượng được lựa chọn trên cơ sở: giới tính, trình độ học vấn, tuổi, tình trạng hôn nhân… 5.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu Các phương pháp này được sử dụng để bổ sung thông tin định tính cho hệ thống thông tin thu được qua phiếu trưng cầu. Các vấn đề không trực tiếp thu nhận được trong phiếu trưng cầu ý kiến được tác giả đưa vào nội dung của các phỏng vấn sâu. Phỏng vấn sâu 10 công nhân của doanh nghiệp Quốc doanh và 10 công nhân doanh nghiệp ngoài Quốc doanh. Nội dung câu hỏi xoay xung quanh vấn đề lối sống trong gia đình, mối quan hệ vợ chồng và định hướng giáo dục cho con cái. 5.3.3. Phân tích tài liệu. Đề tài sử dụng một số tài liệu chính (các kết quả khảo sát, các bài viết trên sách, báo và tạp chí chuyên ngành, các công trình nghiên cứu trước..). Các thông tin thu thập, được kế thừa và sử dụng một cách có chọn lọc, sáng tạo. 5.3.4. Kỹ thuật xử lý thông tin: Thông tin thu được qua phiếu trưng cầu ý kiến được xử lý bằng Computer với phần mềm xử lý thống kê xã hội SPSS for Windows 12.5. 6. Giả thuyết nghiên cứu:  Mức sống của gia đình công nhân làm việc tại doanh nghiệp ngoài Quốc doanh khá hơn mức sống của gia đình công nhân làm việc tại doanh 7 nghiệp Quốc doanh. Tuy nhiên, quan điểm của họ về hôn nhân không có gì khác biệt.  Mối quan hệ vợ chồng của gia đình công nhân làm việc tại doanh nghiệp được thể hiện một cách tương đối dân chủ, tuy nhiên hơi thiên lệch về phía người đàn ông.  Trình độ học vấn của cha mẹ là nhân tố ảnh hưởng đến định hướng giáo dục cho con cái. 8 7. Khung lý thuyết: Các yếu tố Kinh tế Chính trị - Văn hóa xã hội Gia đình Cộng đồng Môi trường xã hội Nhận thức của công nhân về gia đình ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ VỀ GIA ĐÌNH CỦA CÔNG NHÂN Định hướng về hôn nhân Định hướng về vai trò và quan hệ vợ chồng Định hướng về giáo dục cho con cái 9 Định hướng giá trị trong việc sử dụng thời gian rỗi PHẦN 2. NỘI DUNG CHÍNH CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.Tổng quan vấn đề nghiên cứu: Trong những năm gần đây, chủ đề gia đình đã trở thành mối quan tâm của mọi Quốc gia trên thế giới. Chính vì tầm quan trọng của gia đình nên nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm nghiên cứu cả cấp độ vĩ mô và vi mô nhằm tìm ra mối quan hệ giữa gia đình và sự phát triển xã hội. Thực sự có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu mang tính khả thi đã đóng góp các phương án cũng như dự báo xu hướng vận động và biến đổi các mối quan hệ trong gia đình trong giai đoạn hiện nay. Chẳng hạn như đề tài mang mã số: KX 07 - 09 "Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam" của Trung tâm nghiên cứu Khoa học về gia đình và Phụ nữ do GS. Lê Thi làm chủ biên, đã đề cập đến một số nội dung cơ bản sau: - Phân tích mô tả thực trạng vai trò của gia đình Việt Nam trong việc nuôi dạy, hoàn thiện nhân cách con người. - Nghiên cứu những vấn đề thuộc về mặt lý luận chỉ ra quá trình xã hội hoá con người và chức năng cuả xã hội hoá trong gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. - Chỉ ra những hạn chế trong quá trình giáo dục gia đình trong việc hình thành nhân cách con người trong giai đoạn hiện nay; đồng thời đưa ra một số giải pháp tư vấn cho gia đình thực hiện các chức năng của mình. 10 Hay cuốn "Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá" của tác giả Lê Văn Ngọc - Nxb. Giáo dục, 1996; đã đề cập đến quá trình xã hội hoá cá nhân, mối quan hệ giữa gia đình và các tác nhân xã hội hoá khác; bên cạnh đó tác giả còn chỉ ra phương pháp giáo dục cũng như xu hướng vận động và biến đổi chức năng gia đình trong giai đoạn hiện nay. Trong Công trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp Nhà nước KX 07 - 18 do PGS - TS. Nguyễn Trọng Bảo làm chủ biên: "Giáo dục, nhà trường, xã hội với việc phát hiện tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài" đã đề cấp đến: Gia đình với việc hình thành và phát triển tài năng cho con người, hay nói cách khác sự cần thiết của gia đình trong việc hình thành và phát triển tư duy, năng khiếu của con người. Tạp chí Khoa học về gia đình và Phụ nữ, tác giả Lê Thi đã trình bày: "Gia đình với vấn đề xã hội hoá trẻ em, xây dựng nhân cách của con người", Ông đã đề cập đến việc thực hiện chức năng của gia đình trong việc truyền thụ các giá trị văn hoá - xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, về cơ bản các đề tài bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau các tác giả đã bám sát các vấn đề cơ bản, phác thảo bức tranh về gia đình cũng như vị trí, vai trò và chức năng của gia đình truyền thống và hiện đại. Ở công trình nghiên cứu này, tác giả đi sâu và việc phân tích các khía cạnh định hướng giá trị trong các gia đình công nhân, viên chức và lao động, từ đó tìm ra nguyên nhân cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến sự định hướng giá trị cho con cái trong các gia đình công nhân, viên chức và lao động. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về gia đình nói chung, lối sống cũng là một vấn đề xã hội được rất nhiều nhà khoa học quan tâm. Những công 11 trình nghiên cứu khởi đầu cho những nghiên cứu của Xã hội học về lối sống gồm có: “Thế nào là lối sống xã hội chủ nghĩa” của Thanh Lê chủ biên (Viện thông tin khoa học, HN 1979, 114 trang). Cuốn sách được đánh giá là công trình khởi đầu cho hướng nghiên cứu Xã hội học lý thuyết về lối sống xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cuốn sách đã đề cập đến những mặt, những vấn đề cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa (khái niệm mức sống, lối sống và lối sống xã hội chủ nghĩa; cơ sở kinh tế, chính trị tinh thần của lối sống xã hội chủ nghĩa; những đặc điểm về nội dung của lối sống xã hội chủ nghĩa; sự phát triển của lối sống và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển đó; các đặc trưng của lối sống xã hội chủ nghĩa và lối sống tư bản... ) “Về lối sống mới của tác giả", của các tác giả Phong Châu, Nguyễn Trọng Thụ, NXB Sự thật, năm 1983. Cùng với một số nghiên cứu của Thanh Lê, cuốn sách là một trong số ít những công trình nghiên cứu Xã hội học lối sống đầu tiên ở nước ta trong những năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ này. Tuy lối viết còn nặng về lý luận, đôi chỗ còn sa vào việc tuyên truyền, kêu gọi. Nhưng bằng 78 trang sách, các tác giả đã cung cấp cho người đọc một cách nhìn hệ thống về nội dung của lối sống mới cũng như vai trò nhiệm vụ và biện pháp để xây dựng lối sống mới ở nước ta. Các tác giả đã gắn nội dung và biểu hiện của lối sống mới với các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống xã hội như hoạt động lao động, hoạt động văn hoá tinh thần, hoạt động xã hội, sinh hoạt cá nhân. Từ đó khái quát các đặc điểm của lối sống mới - lối sống xã hội chủ nghĩa. Cuốn sách có một chương dành cho việc phân tích mối quan hệ giữa lối sống và sự biến đổi của xã hội qua 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản 12 xuất; cách mạng KHKT; cách mạng văn hoá tư tưởng. Chương này cũng dành một phần quan trọng để nói về những biện pháp cần thực hiện nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phát triển, xây dựng con người mới và lối sống mới. Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lối sống trong thời kỳ 1985 1995: Từ những năm sau 1986, nhiều vấn đề thực tiễn xã hội Việt Nam đặt ra cho các nhà nghiên cứu lý luận về lối sống. Họ thấy sự cần thiết phải có sự thống nhất trong khái niệm lối sống, trong cơ sở lý luận khi nghiên cứu lối sống và vạch rõ khả năng của một chuyên ngành Xã hội học - Xã hội học về lối sống trong hệ thống các chuyên ngành Xã hội học hiện nay. Với “Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng văn hoá, năm 1987” , tác giả Vũ Khiêu đặt vấn đề lý luận trong nghiên cứu lối sống: xác định rõ nội hàm của khái niệm lối sống, phân biệt khái niệm lối sống với một số khái niệm dẫn xuất khác ( nếp sống, mức sống, phong cách sống, chất lượng sống...), chỉ rõ sự cần thiết phải nghiên cứu lối sống xã hội chủ nghĩa trong sự đối lập với lối sống tư sản chủ nghĩa và khẳng định đối tượng nghiên cứu của Xã hội học lối sống ngày nay. Trong “ Từ nghiên cứu "lối sống" đến nghiên cứu "phong cách sống” của Nguyễn Đức Truyến, tạp chí Xã hội học, tác giả nêu ra những hạn chế trong cách tiếp cận lối sống trong những năm trước 1990, chỉ ra hướng tiếp cận phong cách sống trong việc xác định hướng nghiên cứu của “Xã hội học của đời sống hàng ngày”. 13 Trong thời gian từ sau 1990, Học viện Nguyễn ái Quốc, Trung tâm Xã hội học - tin học (nay là Trung tâm Xã hội học, Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh) đã đưa vào chương trình đào tạo cử nhân Xã hội học ( hệ 2 năm ) chuyên ngành Xã hội học lối sống. Chuyên ngành này được Trung tâm xác định là một trong những chuyên ngành cơ bản khác ( Xã hội học đô thị, Xã hội học nông thôn, Xã hội học thanh niên, Xã hội học lao động...) Ngoài ra, trong thời gian này (1985 - 1995), còn một số nghiên cứu thực tiễn của một số cơ quan, Viện nghiên cứu và tổ chức đoàn thể về các khía cạnh như giá trị, định hướng giá trị, lối sống của thanh niên sinh viên trong bối cảnh mới của xã hội Việt Nam: “Nữ thanh niên thập kỷ 90”, tập báo cáo những bài viết sau Hội nghị thông tin khoa học về nữ thanh niên lần thứ 3 (tháng 9-1990) của các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn, tập trung vào 3 vấn đề lớn: tình hình tư tưởng và lối sống nữ thanh niên; lao động, việc làm và một số chính sách với nữ thanh niên; nữ thanh niên trong hôn nhân - dân số - kế hoạch hoá gia đình. "Thực trạng lối sống văn hoá của thanh niên hiện nay", một tổng luận phân tích của Phạm Bằng, Viện nghiên cứu Thanh niên, năm 1993. Mục tiêu của tổng luận là tiến hành phân tích một cách hệ thống về lối sống văn hoá của thanh niên ta ngày nay. Trên cơ sở đó dự báo xu thế phát triển của lối sống thanh niên những năm tới, đề xuất một số kiến nghị với Đảng, Nhà nước, với Đoàn thanh niên về những giải pháp nhằm định hướng cho thế hệ trẻ hôm nay nhằm xây dựng cho mình một lối sống văn hoá hiện đại, lành mạnh, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. 14 “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” do Thái Duy Tiên chủ biên (chương trình KHCN cấp Nhà nước KX07), năm 1994. Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và phương pháp luận, thực trạng, kinh nghiệm nước ngoài và dự báo về ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, trong đó vấn đề thực trạng định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường là một trong những vấn đề quan trọng nhất. “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” (khuôn khổ của đề tài KHCN cấp Nhà nước KX07 - 04), viết năm 1995 của nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn nhằm phát hiện những đặc trưng cơ bản của nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Phát hiện những mặt mạnh, yếu, xu thế phát triển và suy thoái của nhân cách trong sự chuyển đổi của điều kiện kinh tế - xã hội. Chủ yếu tập trung vào 3 nội dung: Định hướng giá trị của nhân cách; tiềm năng, khả năng của nhân cách; phẩm chất, hành vi, nếp sống, thói quen của nhân cách. Từ đó dự đoán và xây dựng mô hình nhân cách cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Những nghiên cứu này phần lớn được rút ra từ các cuộc nghiên cứu riêng lẻ về những khía cạnh thực tiễn cụ thể. Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong thời gian từ 1996 đến nay Tiếp tục triển khai những nghiên cứu về lối sống, phản ánh thực tiễn đời sống của cư dân ( đô thị, thanh niên, sinh viên...) trong điều kiện kinh tế thị trường, làm phong phú thêm bức tranh về lối sống của họ. “Lối sống đô thị miền Trung, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn “ do Lê Như Hoa chủ biên, NXBVHTT, HN 1998 15 Các tác giả cuốn sách đã vạch ra những khía cạnh, những vấn đề lý luận cần thiết khi những lối sống đô thị: khái niệm đô thị và lối sống đô thị; lịch sử hình thành, thực trạng và biểu hiện của lối sống đô thị hiện nay... Dựa vào các đặc trưng về điều kiện địa lý, các yếu tố lịch sử, văn hoá, tôn giáo, dân tộc v.v... các tác giả đã phân tích nguyên nhân, thực trạng và xu hướng biến đổi, phát triển của đô thị miền trung. Một số vấn đề cụ thể trong lối sống đô thị miền trung như: giáo dục gia đình, văn hoá đen, lối sống thực dụng... được các tác giả tập trung bàn luận và coi đó là những vấn đề cần lưu ý trong quá trình xây dựng, phát triển lối sống văn hoá ở các đô thị miền trung. “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật” của Đào Trí Úc (trong khuôn khổ của chương trình KHCN KX07) Từ các cuộc điều tra Xã hội học với nhiều đối tượng khác nhau trên một số vùng đại diện của 3 miền và từ việc nghiên cứu các tài liệu lý luận trong và ngoài nước các tác giả đã phác hoạ hiện trạng ý thức, lối sống theo pháp luật của con người Việt Nam. Qua đó làm sáng tỏ những ảnh hưởng của phương thức sản xuất, của hệ tư tưởng, văn hóa, đạo đức, điều kiện kinh tế chính trị đến ý thức lối sống của tác giả. Các kết luận khoa học được rút ra là cơ sở quan trọng để hình thành hệ thống các biện pháp nhằm xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật cho các tầng lớp dân cư. Đề tài nghiên cứu đặc điểm kiến thức pháp luật và lối sống pháp luật của người dân trên cơ sở đánh giá đúng các “kênh” của kiến thức pháp luật: qua đào tạo chuyên môn về pháp luật, qua phương tiện thông tin đại chúng... Từ đó sẽ thấy rõ hơn phương pháp để hoàn thiện việc đưa tri thức pháp luật vào đời sống người dân, giúp hình thành trong họ văn hoá và tình cảm pháp luật. Một nội dung quan trọng của đề tài là tập trung nghiên cứu về chính sách và hệ thống pháp luật của Nhà nước, coi đó là tiền đề định hướng cho việc giáo dục 16 lối sống theo pháp luật và làm giàu tư duy pháp lý của con người. Đề tài cũng chú ý nghiên cứu về hoạt động áp dụng pháp lý, các thủ tục pháp lý, cơ chế bảo vệ quyền con người như là phương tiện để xây dựng lối sống theo pháp luật. Đây là những đảm bảo về mặt thực tiễn và trực tiếp nhất cho việc nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật. “Văn hoá và lối sống - hành trang vào thế kỷ 21” của Thanh Lê (NXBKHXH, HN 1999, 184 trang) Đây là một tập hợp các bài viết về văn hoá lối sống, là sự tiếp nối của một loạt các tác phẩm, bài viết bàn về lối sống của chính tác giả từ những năm 80. Nội dung của cuốn sách bao gồm những vấn đề về mối quan hệ giữa lối sống - nếp sống - mức sống ; cơ sở tinh thần của lối sống xã hội chủ nghĩa; nhận diện một số kiểu dạng của lối sống trong điều kiện kinh tế thị truờng và cơ sở kinh tế, chính trị của lối sống xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn như đề tài mang mã số: KX 07 - 09 "Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam" của Trung tâm nghiên cứu Khoa học về gia đình và Phụ nữ do GS. Lê Thi làm chủ biên, đã đề cập đến một số nội dung cơ bản sau: - Phân tích mô tả thực trạng vai trò của gia đình Việt Nam trong việc nuôi dạy, hoàn thiện nhân cách con người. - Nghiên cứu những vấn đề thuộc về mặt lý luận chỉ ra quá trình xã hội hoá con người và chức năng cuả xã hội hoá trong gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. - Chỉ ra những hạn chế trong quá trình giáo dục gia đình trong việc hình thành nhân cách con người trong giai đoạn hiện nay; đồng thời đưa ra một số giải pháp tư vấn cho gia đình thực hiện các chức năng của mình. 17 Hay cuốn "Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá" của tác giả Lê Văn Ngọc - Nxb. Giáo dục, 1996; đã đề cập đến quá trình xã hội hoá cá nhân, mối quan hệ giữa gia đình và các tác nhân xã hội hoá khác; bên cạnh đó tác giả còn chỉ ra phương pháp giáo dục cũng như xu hướng vận động và biến đổi chức năng gia đình trong giai đoạn hiện nay. Trong Công trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp Nhà nước KX 07 - 18 do PGS - TS. Nguyễn Trọng Bảo làm chủ biên: "Giáo dục, nhà trường, xã hội với việc phát hiện tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài" đã đề cấp đến: Gia đình với việc hình thành và phát triển tài năng cho con người, hay nói cách khác sự cần thiết của gia đình trong việc hình thành và phát triển tư duy, năng khiếu của con người. Tạp chí Khoa học về gia đình và Phụ nữ, tác giả Lê Thi đã trình bày: "Gia đình với vấn đề xã hội hoá trẻ em, xây dựng nhân cách của con người", tác giả đã đề cập đến việc thực hiện chức năng của gia đình trong việc truyền thụ các giá trị văn hoá - xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác … Hay phải kể đến Vũ Tuấn Huy với “Những khía cạnh của sự biến đổi gia đình” (Tạp chí Xã hội học số 4/1995). Tác giả đã phân tích thông tin thu được qua một cuộc điều tra chọn mẫu và kết luận về sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong mô hình hôn nhân, về vai trò người phụ nữ trong gia đình, quan hệ vợ chồng trong gia đình. Những biến đổi đó dưới sự tác động của những biến đổi xã hội và giao lưu văn hóa. Ngoài ra còn có công trình của GS. Đỗ Thái Đồng với “Gia đình truyền thống với những biến thái ở Nam bộ Việt Nam” (Tạp chí Xã hội học số 3/1990). Tác giả kết luận: kiểu gia đình truyền thống ở nông thôn Nam bộ sẽ đứng vững 18 trong một thời gian dài nữa và đặt ra câu hỏi: kiểu gia đình truyền thống Việt Nam ở Bắc cũng như Nam sẽ thay đổi như thế nào trong tương lai. Daniele Belanger và Khuất Thu Hồng với “Một số biến đổi trong hôn nhân và gia đình ở Hà Nội trong những năm 1965 – 1985”. Tác giả tập trung trả lời hai vấn đề chính: vai trò cá nhân, gia đình và Nhà nước trong việc lựa chọn bạn đời; tiêu chuẩn người bạn đời trong hai mô hình hôn nhân khác nhau ra sao? Nguyễn Hữu Minh với “Quyền tự do chọn bạn đời ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng: truyền thống và biến đổi” (Tạp chí Xã hội học số 1/1999). Tác giả tập trung phân tích quyền tự do chọn bạn đời trong truyền thống, các yếu tố ảnh hưởng đến quyền tự do lựa chọn bạn đời ở Đồng bằng sông Hồng. Như vậy, suốt trong 10 năm trở lại đây (không kể những nghiên cứu trước 1985), định hướng giá trị về gia đình đã trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và các tổ chức xã hội. Những nghiên cứu này, một mặt đã phần nào đáp ứng được nhu cầu phản ánh thực tiễn xã hội (đặc biệt là biểu hiện sự định hướng giá trị của nhóm cư dân, trong đó có thanh niên, sinh viên Việt Nam) và ngày càng hoàn thiện dần hệ thống lý luận về lối sống, lối sống xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, đã góp phần giúp các nhà quản lý lập kế hoạch định hướng, giáo dục thanh niên sinh viên trên các bình diện rộng và hẹp của đất nước. Tuy nhiên, so với thực tế của sự biến động mạnh của nền kinh tế thị trường đang hàng ngày hàng giờ kéo theo những đổi thay về nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử, nhu cầu, lợi ích và định hướng giá trị của người dân thì các nghiên cứu đã có lại hầu như chưa phản ánh một cách đầy đủ. Chưa có nhiều nghiên cứu riêng biệt, đi sâu vào những mặt, những vấn đề cụ thể trong đời sống sinh hoạt, tâm lý, nhận thức và tư tưởng của người dân hiện nay. Trên thực tế 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan