Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn tp. hồ chí minh...

Tài liệu động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn tp. hồ chí minh

.PDF
105
1125
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Thị Thùy Linh ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Thị Thùy Linh ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Mã số : Tâm lý học 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH PHƯƠNG DUY Thành phố Hồ Chí Minh – 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả Lê Thị Thùy Linh 1 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Tâm lý - Giáo dục, Phòng Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học và hoàn tất luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Đinh Phương Duy đã tận tâm giảng dạy và hướng dẫn tôi trong quá trình học và trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Những định hướng và điều chỉnh của Thầy đã giúp tôi trưởng thành hơn, chuyên nghiệp hơn trong nghiên cứu khoa học. 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1 LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2 MỤC LỤC .................................................................................................................... 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ...........................................................................6 2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................7 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ..............................................................................8 4. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................................8 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................8 6. Giới hạn của đề tài ..........................................................................................................8 7. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA ............ 10 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................10 1.1.1. Quan điểm của một số học thuyết về động cơ. .....................................................10 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam. .............................................14 1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia trên thế giới .........................16 1.1.4. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia ở Việt Nam............................18 1.1.5. Các chính sách về phòng chống tác hại của rượu, bia ở Việt Nam.......................20 1.2. Những vấn đề lí luận chung về động cơ sử dụng bia rượu ....................................21 1.2.1. Khái niệm động cơ ................................................................................................21 1.2.2. Cấu trúc động cơ của nhân cách. ...........................................................................25 1.2.3. Phân loại động cơ ..................................................................................................28 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ sử dụng bia rượu ...........................................29 1.3. Ảnh hưởng của hành vi lạm dụng bia rượu đối với con người. ............................30 CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP HCM ..................................................................... 35 2.1. Thể thức nghiên cứu ..................................................................................................35 2.2. Kết quả nghiên cứu. ...................................................................................................36 2.2.1. Mục đích sử dụng rượu, bia của sinh viên ............................................................37 3 2.2.2. Nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM về rượu bia và tác hại của hành vi lạm dụng rượu bia...............................................................................................40 2.2.3. Thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia. .......................................59 2.2.4. Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên ................................................................61 2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên ..............................67 2.2.6. Nhu cầu và mức độ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM .........................................................................................................................................72 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP SINH VIÊN TỰ ĐIỀU CHỈNH NHU CẦU VÀ MỨC ĐỘ SỬ DỤNG RƯỢU BIA ........................................................... 80 3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp .............................................................................................80 3.1.1. Cơ sở Tâm lí ..........................................................................................................80 3.1.2 Cơ sở pháp lý..........................................................................................................81 3.2 Biện pháp thực hiện phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia của nhà nước. .............................................................................................................................................83 3.2.1 Biện pháp về kiểm soát nhu cầu sử dụng rượu, bia ...............................................83 3.2.2. Biện pháp về kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia ...............................................84 3.2.3 Biện pháp về giảm tác hại ......................................................................................85 3.2.4. Biện pháp về huy động nguồn lực .........................................................................86 3.2.5. Biện pháp về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế .........................................87 3.3. Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên tự điều chỉnh hành vi sử dụng rượu bia .............................................................................................................................................88 3.3.1. Tác động nâng cao nhận thức của sinh viên về rượu bia và hậu quả của việc lạm dụng rượu bia. .................................................................................................................88 3.3.2. Tác động thay đổi hành vi .....................................................................................89 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93 PHỤ LỤC ................................................................................................................... 95 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐH CN : Đại học Công Nghiệp ĐH LĐ-XH : Đại học Lao Động - Xã Hội ĐH TDTT : Đại học Thể Dục Thể Thao ĐLC : Độ lệch chuẩn SL : Số lượng TB : Trung Bình 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Trong tâm lí học động cơ là một vấn đề được các nhà khoa học rất quan tâm. Tất cả những công trình nghiên cứu nhằm mục đích lí giải vì sao con người hành động thế này hay thế khác về thực chất là những công trình nghiên cứu về động cơ. Khái niệm động cơ thường được dùng như một trong những khái niệm trung tâm để lí giải hành vi của con người. Các nhà tâm lí học đã nghiên cứu và chỉ ra rằng động cơ có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Động cơ chính là lực thúc đẩy con người hành động để đạt được mục đích của mình. Nói khác đi động cơ chính là yếu tố thôi thúc con người hành động để thoả mãn nhu cầu. Vậy thì, những động cơ nào có vai trò thúc đẩy hành vi sử dụng rượu bia của con người nói chung và tầng lớp sinh viên nói riêng? Thanh niên trong đó có sinh viên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII về công tác thanh niên trong thời kỳ mới đã khẳng định: “Thanh niên là lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên”. Lứa tuổi thanh niên trong đó có sinh viên là lực lượng hậu bị của đất nước. Đây là độ tuổi mà mỗi cá nhân khởi đầu quá trình thực sự chủ động và tích cực tham gia vào đời sống xã hội. Hoạt động chủ đạo của sinh viên là học tập và rèn luyện chuẩn bị cho nghề nghiệp. Nếu họ không nhận thức được tác hại của bia rượu nói riêng và các chất kích thích nói chung mà có hành vi lạm dụng thì sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân và cộng đồng. Vấn đề sử dụng rượu bia đã có từ lâu đời nhưng càng ngày càng trở nên thịnh hành bởi vì Việt Nam cũng như một số nước châu Á khác (Nhật Bản, Hàn Quốc…) 6 thì uống rượu bia trở thành nhu cầu đòi hỏi trong làm ăn. Quán ăn, nhà hàng là nơi nhiều giao kèo quan trọng được kí kết, chính nhu cầu này đã ảnh hưởng đến nhận thức của giới trẻ hiện nay về hành vi uống bia rượu, đặc biệt là hình thành trong họ quan niệm “bia rượu” là thứ không thể thiếu trong bước đường xây dựng sự nghiệp của một người thành công. Quan niệm người Việt Nam coi biết uống bia rượu như là một “tố chất”, “làm sếp thì phải biết uống bia rượu”, thậm chí uống bia rượu được coi như một cách để chứng tỏ bản lĩnh của bản thân như là: nam giới tửu lượng kém thì bị coi là “đàn bà”, “yếu”, người có tửu lượng cao thì được coi là “đấng nam nhi”… những quan niệm này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi sử dụng rượu bia của giới trẻ hiện nay. Theo nghiên cứu của WHO thì rượu là nguyên nhân đứng thứ 5 trong danh sách 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất trên toàn cầu. Theo đánh giá của bộ y tế mỗi năm người Việt Nam tiêu thụ hàng tỉ lít bia và là nước tiêu thụ Heineken đứng thứ 3 trên thế giới (sau Mĩ và Đức). Năm 2011 Việt Nam tiêu thụ 2,6 tỉ lít bia. Một nghiên cứu mới đây của Viện Chiến lược và Chính sách y tế cho thấy, có 1/3 dân số Việt Nam sử dụng bia rượu. Tỷ lệ lạm dụng rượu là gần 1/5 (đối với bia, tỷ lệ này thấp hơn). Theo thống kê của Viện chiến lược & chính sách y tế thì 1/3 số người sử dụng rượu bia bắt đầu uống trước 20 tuổi, đây là lứa tuổi học sinh và đầu sinh viên. Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về động cơ, đặc biệt là các đề tài về động cơ học tập và động cơ lựa chọn nhề nghiệp…. Tuy nhiên, tôi nhận thấy chưa có một đề tài cụ thể nào nghiên cứu về động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên trong phạm vi rộng và ở phạm vi hẹp hơn là sinh viên TP HCM. Vì những lí do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học TP HCM” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM, người nghiên cứu chỉ ra những động cơ chủ đạo thúc đẩy hành vi sử dụng và hành vi lạm dụng rượu bia ở sinh viên. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị giúp 7 sinh viên tự điều chỉnh mức độ và cường độ sử dụng bia rượu cho phù hợp với sức khỏe của cá nhân và yêu cầu của cộng đồng. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Sinh viên các trường đại học trên địa bàn TP HCM 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên 4. Giả thuyết nghiên cứu - Hiện nay, sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM sử dụng rượu bia thường xuyên và ở mức độ lạm dụng. - Sinh viên sử dụng rượu bia vì một số động cơ mang tính chất tâm lý như: để giảm thiểu các cảm xúc tiêu cực, để hòa nhập với nhóm bạn bè, để phù hợp với yêu cầu của xã hội. - Không có sự khác biệt về động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên các nhóm ngành được khảo sát. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề lí luận về động cơ, lý thuyết về ảnh hưởng của rượu bia đối với con người - Khảo sát động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM - Đề xuất một số kiến nghị giúp sinh viên tự điều chỉnh mức độ và cường độ sử dụng bia rượu cho phù hợp với sức khỏe của cá nhân và yêu cầu của cộng đồng. 6. Giới hạn của đề tài 6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM ở 3 mặt biểu hiện (nhận thức của sinh viên về rượu bia và tác hại của hành vi lạm dụng rượu bia, thái độ - tình cảm của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia, mức độ và cường độ sử dụng 8 rượu bia của sinh viên), sự khác nhau về động cơ sử dụng rượu bia giữa sinh viên các nhóm ngành. 6.2. Phạm vi khảo sát: Khảo sát động cơ sử dụng bia rượu của 371 sinh viên thuộc một số trường đại học trên địa bàn TP HCM: + Trường ĐH Công Nghiệp TP HCM + Trường ĐH Lao Động – Xã Hội + Trường ĐH Thể Dục Thể Thao TP HCM …. 7. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đề tài nghiên cứu có tham khảo một số giáo trình, tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, các bài viết trên các tạp chí, website có liên quan. Đó là những cơ sở để người nghiên cứu phân tích, tổng hợp và khái quát những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm làm cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu và nội dung nghiên cứu. 2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo cách tiếp cận thực tiễn và hoạt động. Vì thế, người nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo nhằm thu thập thông tin thực tế từ học sinh và giáo viên về vấn đề động cơ chọn nghề. Bảng hỏi được xây dựng theo thứ tự các bước sau: Bước 1: Xây dựng phiếu thăm dò mở Bước 2: Xây dựng phiếu thăm dò ý kiến chính thức 3. Phương pháp thống kê toán học: Người nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử lý số liệu thu được bằng các phép toán thống kê. 9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Quan điểm của một số học thuyết về động cơ. Hướng nghiên cứu động cơ hoạt động của động vật và đặc biệt là của con người đã tồn tại từ rất lâu trong tâm lý học. Bằng các cách tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu khác nhau, các nhà tâm lý học đã tìm cách lý giải tại sao con người lại thực hiện một hành vi nào đó, tại sao anh ta lại tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ này hay tỏ ra thờ ơ trong khi thực hiện nhiệm vụ kia…Tất cả những tìm tòi thuộc loại này thực chất là nghiên cứu về động cơ. Động cơ là một trong những vấn đề trọng tâm trong Tâm lý học được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Ronald E. Smith cho rằng, khái niệm động cơ được dùng như một khái niệm trung tâm nhằm giải thích cho hành vi và các nguyên nhân của nó. Có nhiều trường phái nghiên cứu khác nhau khi nghiên cứu về động cơ. Các tác giả đều coi động cơ con người là vấn đề trung tâm, tuy nhiên giữa các tác giả lại có quan điểm rất khác nhau khi bàn về nội hàm của khái niệm động cơ. Từ thời cổ đại, khi tâm lý học chưa trở thành một bộ môn khoa học độc lập, mà nó còn là một bộ môn của triết học thì vấn đề nguyên nhân thúc đẩy bên trong hoạt động của con người đã được các nhà nghiên cứu khoa học đặt ra. Ví dụ như, Aristote (384-322 TCN), tác giả cuốn Tâm lý học đầu tiên “Bàn về tâm hồn” đã dựa trên cơ sở sinh vật học để giải thích động cơ hoạt động. Ông cho rằng nhiều hành vi con người được thúc đẩy bởi “sự thèm muốn”. Hành động luôn hướng tới thỏa mãn “sự thèm muốn”. Nghĩa là hành vi được thúc đẩy bởi các trạng thái nội tại như đói, khát, ham muốn tình dục… Nếu hành động thành công con người sẽ cảm thấy khoái lạc. Tuy nhiên, Aristote cũng đã chỉ ra được rằng, con người khác con vật ở chỗ con người có khả năng dùng lý trí của mình để ức chế các thèm muốn. Tuy vậy, những kết luận trong thời kỳ bấy giờ thiếu cơ sở khoa học để chứng minh động cơ một cách rõ ràng. 10 Phân tâm học, đứng đầu là S. Freud đã lý giải bản chất động cơ con người theo hướng sinh vật hoá. Quan điểm này cho rằng, bản năng sẵn có từ khi con người mới sinh là động lực thúc đẩy (động cơ) mọi hoạt động của con người. Do đó theo ông, về bản chất động cơ của con người mang tính vô thức. Đời sống con người do bản năng tình dục (libido) chi phối tất cả các hoạt động. Năng lượng ấy thoát ra ngoài ở những dạng hoạt động khác nhau. Nếu nhu cầu về bản năng ấy không được thỏa mãn, con người sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng. Atler, nhà tâm lý học theo trường phái Phân tâm học kiểu mới cho rằng, động lực cơ bản của hành vi quyết định mục đích cũng như con đường của hoạt động. Mối quan hệ giữa khát vọng hung mạnh và cảm giác yếu kém quy định tính chất những động cơ khi con người hành động. Nhìn chung, lý thuyết Phân tâm nhìn nhận động cơ con người như những bản năng. Tâm lý học Hành vi: (đại diện tiêu biểu là J. Watson) đã lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu của mình. Những người theo chủ nghĩa hành vi cho rằng cái quy định (động cơ) của phản ứng là những kích thích từ bên ngoài vào nhu cầu của cơ thể lúc tiếp nhận kích thích đó (S->R, S-O-S hay S-r-s-R). Cả chủ nghĩa hành vi cổ điển lẫn chủ nghĩa hành vi mới đều mắc phải sai lầm là đã sinh vật hóa con người, đồng nhất tâm lý con người và tâm lý động vật. Các tác giả theo trường phái này cũng chưa giải thích được nguyên nhân nào thúc đẩy con người thực hiện các hành động. Họ cho rằng, nhu cầu con người cũng tương đương với nhu cầu của động vật, bỏ qua tính chất xã hội của con người. Tâm lý học Ghestalt (đại diện tiêu biểu là M. Wertheimer, V. Kohler và K. Koffka). Trường phái này chủ yếu nghiên cứu về tri giác và các quy luật của nó, ngoài ra còn nghiên cứu một phần về tư duy. K. Lewin – một trong những đại diện của trường phái này đã chú ý nhiều hơn đến vấn đề nhân cách, vấn đề động cơ. Theo ông, đông cơ là sự tương tác của lực bên trong trường lực, phủ nhận tác động từ thế giới bên ngoài. K. Lewin mới chỉ có thể nói đến những dấu hiệu đặc trưng tiến trình vận động của động cơ, những yếu tố tâm lý ảnh hưởng tiến trình đó, làm động cơ mạnh lên hay ngược lại. Lewin đã không quan tâm đến kinh nghiệm con người, đánh 11 giá thấp những đặc điểm nhân cách, nhu cầu và khát vọng đã có ở một người. Nhược điểm của Lewin là chỉ mới chú ý đến mặt cơ động của động cơ mà chưa chú ý đến mặt nội dung của nó. Bên cạnh đó, ông đã phủ nhận vai trò của những tác động bên ngoài trong việc hình thành động cơ. Tâm lý học Nhân văn: (đại diện tiêu biểu C. Roger) cho rằng sự hình thành động cơ hoạt động của con người diễn ra một cách có ý thức trên nền tảng bền vững của bẩm sinh và di truyền. Tâm lý học Hoạt động có nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định r ằng: Động cơ hoạt động của con người được hình thành và phát triển ngay trong quá trình con người hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội mà nó gia nhập vào một cách có ý thức. Động cơ hoạt động của con người do đó có bản chất xã hội không tách tời khỏi sự vận động, phát triển của ý thức. Vào năm 1926, L.X. Vưgôtxki đã đề xuất phải xây dựng “một khoa học về hành vi con người”. Ông đề xuất nghiên cứu hành vi con người trong mối quan hệ con người với thực tại xung quanh. Mặc dù chưa đề cập đến động cơ thúc đẩy hành vi con người, nhưng Vưgôtxki đã xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận làm nền tảng cho hàng loạt công trình nghiên cứu về động cơ sau này. Năm 1953, X.L. Rubinstein xem “hành động ý chí nhất thiết bao hàm động cơ cho nên có thể phân biệt mức độ của hành động ý chí tùy thuộc tính chất của những động cơ chủ đạo”. Theo tác giả, động cơ ý chí có thể bắt nguồn từ những ham muốn, nhu cầu, cảm xúc, tính cách, tư tưởng, nhận thức trước những nhiệm vụ mà đời sống xã hội đặt ra. X.L. Rubinstein mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu nhiệm vụ chính của phạm trù động cơ và chỉ ra con đường giải quyết nhiệm vụ. Đến năm 1966 xuất hiện lý thuyết “tâm thế” của D.N. Uzanadze, cho rằng động cơ thúc đẩy hành vi con người tuân theo lý thuyết tâm thế. Ông cho rằng “nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực” của nhân cách. Khi chủ thể hướng ra môi trường bên ngoài nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu trước mắt, thì mọi tình trạng xuất hiện nhất định gây ra trong chủ thể một tâm thế nhất định, và thông qua tâm thế này hướng dẫn toàn bộ hành vi tiếp theo của nó. Ông không tán thành việc 12 đưa khái niệm “đấu tranh động cơ” vào tâm lý học. Vì ông cho rằng, mọi hành vi chỉ có một động cơ đem lại ý nghĩa cho hành vi đó. Quan điểm của ông bị các nhà tâm lý học khác phê phán, bởi động cơ tồn tại như một hệ thống những động cơ. Khi thực hiện một hoạt động bất kỳ, bao giờ cũng có sự đấu tranh giữa các động cơ đó. Tuy nhiên, ông đã vạch ra được những hiểu biết mới về khái niệm nhu cầu, các dạng nhu cầu, mối liên hệ của chúng với các hình thức hành vi con người, mối tương quan giữa hành vi và tâm thế. P.M.Jakobson thì xác định con người thực hiện những hành động do mục đích chung hoặc mục đích cụ thể. Ông phân biệt động cơ hành vi theo nghĩa hẹp, đó là những động cơ của hành vi cụ thể, và theo nghĩa rộng thì động cơ hành vi là tổng hòa những yếu tố tâm lý quyết định hành vi của con người nói chung. V.S.Merlin đồng nhất khái niệm động cơ với nhu cầu, nó biểu thị mối quan hệ con người với sự vật, hiện tượng. Mỗi động cơ đều có hai khía cạnh kích thích hành động và thái độ cảm xúc. Trong lịch sử nghiên cứu về vấn đề động cơ, Leonchiev là tác giả nghiên cứu sâu sắc và có sức thuyết phục lớn. Theo Leonchiev, đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, khi chúng bộc lộ ra và được chủ thể nhận biết. Đối tượng ấy có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động, tức trở thành động cơ. Ông mô tả “đối tượng ấy xuất hiện với tính chất là một hiện tượng tinh thần, một động cơ thúc đẩy từ bên trong”. A.N. Leonchiev cho rằng động cơ là: a) Động cơ và nhu cầu là hai hiện tượng tâm lý gắn bó chặt chẽ với nhau; b) Động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đã được chủ thể tri giác, biểu tượng, tư duy… Đó là sự phản ánh chủ quan về đối tượng thỏa mãn nhu cầu; c) Động cơ có chức năng thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu. B.Ph. Lomov cho rằng, nhu cầu có quan hệ mật thiết với động cơ và chúng ta không thể tách biệt nhu cầu và động cơ. Vì thế, khi nghiên cứu động cơ phải nghiên cứu động cơ trong mối liên hệ với nhu cầu. Theo B.Ph. Lomov, động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu và ngược lại, nhu cầu là cơ sở của động cơ. “Sự thay đổi những động cơ này chỉ xảy ra khi có thay đổi cơ bản về hoàn cảnh sống và hoạt động sống cá nhân trong xã hội (và hơn cả thế nữa: sự thay đổi của chính xã hội)”. Khác với 13 Tâm lý học phương Tây, các nhà tâm lý học của Liên Xô (cũ) không xem xét động cơ như một thành tố độc lập. Động cơ không những là một bộ phận cấu thành của hoạt động mà còn là một thành phần của một hệ thống phức tạp có mối liên hệ với nhu cầu. “… Động cơ là sự phản ánh của nhu cầu. Những đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác tồn tại trong hiện thực khách quan, một khi chúng bộc lộ ra, được chủ thể nhận biết (ý thức được) sẽ thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động. Nói khác đi, khi nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thỏa mãn thì trở thành động cơ hoạt động”. Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu về động cơ hoạt động của các tác giả theo quan điểm tâm lý học Hoạt động, có thể đi đến những kết luận sau: - Động cơ chính là những yếu tố kích thích, thúc đẩy con người hoạt động. Nội dung của động cơ là mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường. - Hoạt động của con người có một hệ thống động cơ thúc đẩy theo cấu trúc thứ bậc. Động cơ nào chiếm ưu thế sẽ qui định xu hướng hành vi của con người. Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều quan điểm khác nhau về động cơ. Tuy nhiên, các quan điểm đều thống nhất xem động cơ là những yếu tố kích thích, quy định sự lựa chọn và định hướng của hành vi, nguyên nhân thúc đẩy con người hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam. Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về động cơ. Quan điểm của các nhà tâm lý học Việt Nam về động cơ: Nguyễn Quang Uẩn cho rằng, động cơ là “cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, là cái làm nảy sinh tính tích cực và quy định xu hướng của hướng tích cực đó. Động cơ là động lực kích thích trực tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành vi”. Theo Vũ Dũng (Từ điển Tâm lý học, 2008) động cơ là: “cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thỏa mãn những nhu cầu của chủ thể, là toàn bộ điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng khơi dậy tính tích cực của chủ thể và xác định tính xu hướng của nó; Đối tượng (vật chất hay tinh thần) thúc đẩy và xác định sự lựa chọn xu hướng của hành động mà vì nó hành động được thực hiện; Nguyên nhân, cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi”. Các 14 nhà tâm lý học của Việt Nam chịu sự ảnh hưởng tư tưởng của các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ). Vì thế, quan điểm về động cơ của các nhà tâm lý học Việt Nam khá giống với quan điểm của các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ). Có thể nói những đề tài được tập trung nghiên cứu sớm và nhiều nhất liên quan đến động cơ trong hoạt động giáo dục như động cơ học tập, động cơ chọn nghề hay ngành học: Hoàng Thị Thu Hà (2003), Các yếu tố kích thích hoạt động học tập của sinh viên ĐH Sư phạm, tạp chí Tâm lý học số 3/2003. Vũ Bích Hạnh (2007), Tìm hiểu thực trạng hình thành và phát triển động cơ học tập của sinh viên khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoá luận tốt nghiệp 2003-2007. Đào Lan Hương (2006), Nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên trường Cao đẳng Sư Phạm Bắc Ninh. Dương Thị Kim Oanh (2004), Nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật trường ĐH Bách khoa Hà Nội, tạp chí Tâm lý học, số 4/2004. Trần Thị Thơm (2006), Động cơ học tập chuyên ngành Tâm lý học của sinh viên khoa Tâm lý, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoá luận tốt nghiệp 2002-2004. Trần Thị Thìn, Động cơ học tập của sinh viên sư phạm - thực trạng và phương hướng giáo dục, Luận văn Tiến sĩ Tâm lý học 2004. Lê Xuân Tiến (1997), Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh lớp 5, Luận án Thạc sĩ khoa học sư phạm - tâm lý. Trương Thành Trung (2006), Hình thành động cơ đúng đắn trong hoạt động học tập của sinh viên Đại học Quân sự hiện nay, tạp chí Tâm lý học số 3/2006. Một mảng nghiên cứu được nhiều người quan tâm nữa đó là động cơ thành đạt. Động cơ thành đạt là một trong những vấn đề được rất nhiều người quan tâm, vì con người nhìn chung có xu hướng mong muốn được thành đạt trong cuộc sống. Hơn thế nữa, thực tiễn cuộc sống cho thấy tất cả mọi người từ mỗi cá nhân đến các tổ chức có quy mô lớn nhỏ, từ các nhà kinh doanh đến các nhà giáo dục, các nhà lãnh đạo đất nước trên khắp thế giới đều quan tâm đến sự thành đạt của con người, của các tổ chức, các quốc gia và đó là động lực thúc đẩy con người vươn tới đỉnh cao thành đạt. Có lẽ nhu cầu xã hội thiết thực đã làm cho vấn đề động cơ thành đạt sớm trở thành đề tài nghiên cứu của tâm lý học: Trần Anh Châu (2006), Giới thiệu một số nghiên cứu 15 về động cơ thành đạt, tập chí Tâm lý học số 5.Võ Thị Ngọc Châu, Nghiên cứu nhu cầu thành đạt và quan hệ của nó với tính tích cực nhận thức của sinh viên (1999). Lê Thanh Hương (2001), Động cơ thành đạt trong khoa học của cán bộ nghiên cứu thuộc trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. Lê Thị Thanh Hương (2008), Động cơ thành đạt của thanh niên hiện nay, đề tài cấp viện. Lã Thị Thu Thuỷ (2006), Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của trí thức…. Tiếp theo, vấn đề nghiên cứu động cơ trong lĩnh vực kinh tế - quản trị kinh doanh như: động cơ lao động, động cơ lựa chọn sản phẩm tiêu dùng…cũng đang được quan tâm nghiên cứu sâu rộng: Văn Thị Kim Cúc (2006), Động cơ làm việc của chủ doanh nghiệp kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Tâm lý học số 3/2006. Lê Văn Hảo (2006), Động lực làm việc bên trong và bên ngoài của cán bộ nghiên cứu Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Tạp chí Tâm lý học số 6/2006… Ngoài ra, các đề tài liên quan đến mảng động cơ phạm tội của tội phạm cũng đã được nghiên cứu nhiều: Ngô Thị Thuận (2007), Động cơ phạm tội của kẻ phạm tội, Niên luận… Nói chung, ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về động cơ dựa vào cơ sở lý luận và phương pháp luận của tâm lý học hoạt động. Các công trình nghiên cứu về động cơ đã được các nhà nghiên cứu đề cập ở nhiều góc độ, lĩnh vực khác nhau, ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của nó đối với đời sống tâm lý mỗi con người. 1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia trên thế giới Các nghiên cứu gần đây của nhiều nước trên thế giới như Thụy Điển, Anh,… cho thấy xu hướng trẻ hóa tuổi bắt đầu uống rượu, gia tăng trong tần suất và lượng rượu tiêu thụ ở nhóm tuổi thanh niên (WHO, 2004). Trong năm 2004 - 2005, cứ 100.000 học sinh trung học ở Anh thì có 146 học sinh bị nhà trường tạm thời cho nghỉ học vì có liên quan đến đồ uống có cồn và 06 trên 100.000 học sinh bị đuổi khỏi trường học. Và, đồ uống có cồn còn được xác định là có mối liên quan đến tình trạng 16 trốn học. Ở London, trong độ tuổi 14-16 có hơn 2/3 lạm dụng rượu, bia và đó là những đối tượng thường xuyên trốn học (Best, D; Manning, V; Gossop, M et al. (2006). Excessive drinking and other problem behaviours among 14-16 year old children. Addictive Behaviours. 31(8): 1424-1435). Độ tuổi và địa điểm sử dụng rượu, bia có mối liên hệ với việc sử dụng rượu, bia của giới trẻ, theo một cuộc khảo sát ở North West của Anh cho thấy: Khoảng 90% số học sinh (tuổi 15 và 16) được khảo sát cho biết họ thỉnh thoảng uống rượu. 38.0% thường rơi vào trạng thái “hũ chìm”, 24.4% là thường xuyên uống (uống hai hay nhiều lần một tuần) và 49.8% uống tại các nơi công cộng (chẳng hạn như tại các câu lạc bộ, đường phố và công viên). Trẻ em thường uống rượu ở các nơi công cộng nhiều hơn là uống tại gia đình (Trích lại từ Alcohol and adolescents, 2010). Nghiên cứu của Victoria White và Jane Hayman, 2006 về “Sử dụng đồ uống có cồn của học sinh trung học Úc vào năm 2005”. Kết quả, tỷ lệ học sinh hiện đang uống rượu, bia trước thời điểm khảo sát tăng lên theo lứa tuổi với 10% ở tuổi 12 và tăng lên tới 49% ở độ tuổi 17. Cha mẹ là yếu tố có sự tác động phổ biến nhất đến việc sử dụng rượu, bia của học sinh, với 37% nam giới và 38% nữ giới cho thấy họ đã được cha mẹ họ cho uống rượu trong tuần qua. Ba địa điểm mà giới trẻ thường uống rượu là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại các bữa tiệc. Các kết quả khảo sát mới nhất của Anh cho thấy không có sự khác biệt về giới tính trong việc sử dụng rượu, bia của giới trẻ và sự tác động của bạn bè cũng như áp lực tự thân là một trong yếu tố khiến giới trẻ tìm đến rượu, bia: nữ giới ngày nay đã “bắt kịp” nam giới về việc tiếp cận và sử dụng rượu, bia. Ở Anh, dưới 18 tuổi không được phép mua rượu cho mình nhưng 63% những người tuổi từ 16 – 17 và 10% người ở độ tuổi 12 – 15 đã say sưa trong năm qua nói rằng họ thường mua rượu trong quán rượu, quầy bar và câu lạc bộ đêm. Giới trẻ coi rượu như là một phương tiện giao lưu xã hội với bạn bè (62%). Uống rượu để gia tăng sự tự tin cũng là một chỉ báo quan trọng (www.ias.org.uk/resources/factsheets/adohlescents.pdf). Các chương trình quảng cáo về rượu, bia trên các phương tiện truyền thông đại chúng có sự tác động nhất định 17 đến việc sử dụng rượu trong thanh thiếu niên. Một nghiên cứu gần đây về ảnh hưởng của việc quảng cáo rượu đối với thanh thiếu niên ở Ai-len cho thấy: Đa số những thanh thiếu niên được khảo sát đều khẳng định là họ yêu thích các chương trình quảng cáo về rượu. Và, hầu hết các thanh thiếu niên tin rằng nội dung của các chương trình quảng cáo sẽ góp phần định hướng cho hành động hay mục tiêu cho họ, bởi vì các chương trình quảng cáo mô tả cảnh - nhảy múa, sự giải trí ở hộp đêm, âm nhạc sôi động... Thanh thiếu niên coi những quảng cáo về rượu, bia như là những gợi ý, những chương trình quảng cáo rượu, bia tạo nên khuynh hướng bao trùm rằng rượu sẽ đem đến thành công trong cuộc sống và tình dục… (Trích lại từ Alcohol and advertising, 2010). Theo nghiên cứu về nước Pháp, các vấn đề do rượu, bia gây ra thiệt hại chiếm 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1997, cao hơn so với thuốc lá (1,2%). Nghiên cứu khác ở Mỹ báo cáo một con số cao hơn là 2,1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) (Trích lại từ điều tra Y tế Việt Nam, 2006:97). Như vậy, qua các nghiên cứu của mình, các tác giả phương Tây cho thấy rằng, lứa tuổi lần đầu tiếp cận rượu, bia đang được trẻ hóa. Sử dụng rượu, bia khác nhau theo lứa tuổi và không có sự khác biệt về giới trong việc sử dụng rượu, bia. Địa điểm mà giới trẻ sử dụng rượu, bia là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại các bữa tiệc. Cùng với gia đình thì yếu tố nhóm bạn, các chương trình quảng cáo về rượu, bia cũng có sự tác động nhất định đến hành vi sử dụng rượu, bia của giới trẻ. 1.1.4. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia ở Việt Nam Ở Việt Nam các vấn đề về rượu, bia đã được nghiên cứu từ những năm 90 của thập kỷ trước. Các nghiên cứu chỉ ra rằng: tuổi lần đầu sử dụng rượu, bia có sự chênh lệch với các nước trong khu vực, nam giới sử dụng, lạm dụng và nghiện rượu, bia nhiều hơn so với nữ giới, tỉ lệ đã từng uống hết một cốc rượu, bia tăng theo độ tuổi. Nghiên cứu tại phường Trung Trực, Hà Nội năm 1994 với số mẫu là 7.986 người từ 15 tuổi trở lên cho thấy nghiện rượu chỉ có ở nam giới, với 1.9% nghiện rượu, bia và 50 – 60% tổng số người nghiện rượu ở lứa tuổi 30 đến 50. Cuộc Điều tra Y tế quốc gia (2001 – 2002), đã phát hiện 22.2% dân số trên 15 tuổi có uống rượu bia từ một 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan