VIỆN HÀN
- LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
TRIỆU QUỲNH CHÂU
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI TÀY
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Ở HYỆN BẠCH THÔNG TỈNH BẮC KẠN
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Chuyên ngành: Nhân học
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Mã số: 62 31 03 02
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các cứ liệu
khoa học nêu ra trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố.
Những luận điểm kế thừa kết quả nghiên cứu của những nhà nghiên cứu trước đều
ghi rõ xuất xứ.
Tác giả luận án
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Triệu Quỳnh Châu
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài “Dòng họ của người Tày ở huyện
Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn”, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh, người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo đóng
góp ý kiến trong suốt quá trình làm luận án.
Tập thể các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Viện Dân tộc học, Khoa Dân tộc Nhân học, Phòng Quản Lý Khoa học và Đào tạo thuộc Học viện Khoa học xã hội đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi theo học nghiên cứu sinh, cũng như giúp đỡ về
các thủ tục trong quá trình viết, bảo vệ luận án.
Lãnh đạo huyện Bạch Thông, các xã Vi Hương, Quang Thuận, thị trấn Phủ
Thông đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong quá trình khảo sát, nghiên cứu. Đặc biệt, xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc về sự đón tiếp nhiệt tình của đồng bào Tày ở các thôn bản,
đã vui lòng cung cấp những tư liệu quý báu để tôi hoàn thành luận án này.
Tác giả luận án cũng bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám đốc Đại học
Thái Nguyên, Ban lãnh đạo Trường Đại học Khoa học, Phòng Thanh tra - Pháp chế
nơi tôi đang công tác, cũng như sự giúp đỡ ân tình của gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, đã động viên tạo điều kiện thời gian, tinh thần, vật chất, chia sẻ công việc
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập nghiên cứu./.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Triệu Quỳnh Châu
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Các chữ viết tắt
DT
Dân tộc
DTH
Dân tộc học
ĐTNCSHCM
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
GS
Giáo sư
HĐND
Hội Đồng Nhân dân
KHHGĐ
Kế hoạch hoá gia đình
KHXH
Khoa học xã hội
KHXH&NV
Khoa học xã hội và nhân văn
Nxb
Nhà xuất bản
PGS
Phó Giáo sư
PL
Phụ lục
PVS
Phỏng vấn sâu
THCS
Trung học cơ sở
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TS
Tiến sĩ
Tr
Trang
UBND
Uỷ ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................ 7
1.2. Cơ sở lý thuyết ..................................................................................................... 16
1.3. Vài nét về huyện Bạch Thông .............................................................................. 22
1.4. Khái quát về địa điểm nghiên cứu........................................................................ 35
Tiểu kết chương 1........................................................................................................ 37
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ DÒNG HỌ TÀY Ở CÁC ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.1. Quan niệm về dòng họ ......................................................................................... 39
2.2. Những biểu hiện của đặc điểm dòng họ ............................................................... 45
2.3. Truyện kể về dòng họ ........................................................................................... 66
2.4. Họ quan và họ dân trong xã hội truyền thống Tày............................................... 68
2.5. Tổ chức dòng họ ................................................................................................... 71
Tiểu kết chương 2........................................................................................................ 80
Chương 3: QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG ĐỜI SỐNG TỘC NGƯỜI
3.1. Quan hệ trong nội bộ dòng họ .............................................................................. 81
3.2. Quan hệ dòng họ với dòng họ khác ................................................................... 103
3.3. Mối quan hệ dòng họ với thiết chế bản .............................................................. 105
3.4. Quan hệ dòng họ trong đời sống chính trị xã hội ............................................... 107
Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 117
Chương 4: VAI TRÒ, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
CỦA DÒNG HỌ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI TÀY HIỆN NAY
4.1. Vai trò của dòng họ trong đời sống người Tày ở huyện Bạch Thông ............... 118
4.2. Một số thách thức đối với phát triển kinh tế - xã hội ở dòng họ người Tày
huyện Bạch Thông .................................................................................................... 127
4.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của dòng họ người Tày ở huyện Bạch
Thông ........................................................................................................................ 130
Tiểu kết Chương 4 ..................................................................................................... 137
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 139
CHÚ THÍCH ............................................................................................................. 142
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............. 143
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 144
PHỤ LỤC BẢNG ..................................................................................................... 155
PHỤ LỤC BẢN ĐỒ.................................................................................................. 171
PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................................ 172
PHỤ LỤC GIA PHẢ CÁC DÒNG HỌ NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN BẠCH THÔNG192
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Phân bố các dòng họ người Tày ở huyện Bạch Thông............................... 50
Bảng 2.2: Thuật ngữ tên gọi các thế hệ ở người Tày huyện Bạch Thông… .............. 65
Bảng 2.3: Thuật ngữ tên gọi các thế hệ ở người Tày huyện Bạch Thông ở Bạch
Thông theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ......................................................................... 70
Bảng 3.1: Một số hình thức tương trợ trong đám cưới cho con trai gia đình ông
Nông Đức Nguyên thôn Đầu Cầu, thị trấn Phủ Thông ............................................... 93
Bảng 3.2: Một số hình thức tương trợ trong đám cưới cho con trai gia đình ông
Nông Đức Chu thôn Đầu Cầu, thị trấn Phủ Thông ..................................................... 95
Bảng 3.3: Một số hình thức tương trợ trong đám tang của gia đình ông Hoàng Lục
Diệm . ....................................................................................................................... 102
Bảng 3.4: Tổ chức Đảng, chính quyền xã Quang Thuận ............................................... 108
Bảng 3.5: Tổ chức Đảng, chính quyền thị trấn Phủ Thông ...................................... 110
Bảng 3.6: Tổ chức Đảng, chính quyền xã Vi Hương ................................................ 111
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Cấu trúc và thành phần dòng họ người Tày
(Họ Hà - xã Quang Thuận)………………………………………………………….62
Sơ đồ 3.1. Quan hệ dòng họ với Bí thư Đảng uỷ xã Quang Thuận………………..113
Sơ đồ 3.2. Tổ chức Đảng, chính quyền thị trấn Phủ Thông ……………………....114
Sơ đồ 3.3. Tổ chức Đảng, chính quyền xã Vi Hương………………………….…..115
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của của luận án
Người Tày là tộc người thiểu số có số dân đông nhất Việt Nam sau người
Kinh, từ địa bàn sinh tụ khởi nguyên thuộc vùng thấp như chân núi, ven suối, thung
lũng lòng chảo... đến nay, đồng bào Tày sinh sống ở nhiều địa vực khác nhau trên
khắp 63 tỉnh, thành trong cả nước. Song tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi vùng
Đông Bắc Việt Nam như Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Bắc Kạn... và một số tỉnh
thuộc Tây Nguyên như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Bình Phước. Với sự đa dạng về địa
vực cư trú, phương thức mưu sinh và sự giao lưu, tiếp biến với các cộng đồng xen
cư, tộc người Tày đã tạo nên những sắc thái văn hoá đa dạng, phong phú, vừa có
những nét tương đồng, vừa có dấu ấn riêng.
Trong quá trình sinh sống lâu đời tại địa bàn huyện Bạch Thông, người Tày
đã tạo dựng nên nền văn hoá truyền thống khá phong phú vừa để khẳng định bản
sắc riêng, vừa để thích nghi với môi trường và cảnh quan sinh thái nơi cư trú, đồng
thời để phân biệt với các tộc người khác cư trú cận kề. Các thành tố văn hoá tộc
người luôn được các thế hệ người Tày, gìn giữ, trao truyền, thực hành và phát huy
trong môi trường gia đình, dòng họ và cộng đồng cùng với thời gian và ở mức độ
khác nhau, góp phần tạo nên sự đa dạng trong thống nhất của nền văn hoá các dân
tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Một trong
những thành tố văn hoá tộc người đến nay luôn giữ vai trò quan trọng đối với cộng
đồng người Tày ở huyện Bạch Thông chính là thiết chế dòng họ.
Thiết chế dòng họ của người Tày là một trong những yếu tố văn hóa có nhiều
điểm tương đồng với một số dân tộc thiểu số khác, nhưng đồng thời cũng có những
nét đặc thù riêng. Dòng họ có vị trí đặc biệt quan trọng, là một trong những thành tố
cốt lõi tạo nên xã hội người Tày. Là nền tảng cho sự tồn tại của thiết chế xã hội
truyền thống, giữ vai trò quan trọng chi phối đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội, trong sự phát triển chung của địa phương, quốc gia. Thông qua các hoạt động
1
kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, nghi lễ thờ cúng dòng họ của các cá
nhân, các gia đình người Tày đã tạo nên chất keo bền vững, chặt chẽ, trong quan hệ
dòng họ, đồng thời thể hiện vai trò và vị trí của dòng họ đối với các gia đình thành
viên, với cộng đồng xã hội. Dòng họ người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn,
trước đây được hình thành dựa trên cơ sở nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp, khép
kín. Ngày nay trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế, dưới tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan, văn hoá tộc
người Tày ở huyện Bạch Thông trong đó có thiết chế dòng họ đang có những biến đổi
nhất định để phù hợp, thích nghi với những biến đổi đang diễn ra ở tộc người Tày huyện
Bạch Thông nói riêng, tỉnh Bắc Kạn nói chung.
Từ trước đến nay, đã có không ít những thành tựu nghiên cứu về dân tộc
Tày với những cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu khác nhau về nhiều góc
độ, lĩnh vực, vấn đề khác nhau như các lễ thức trong nghi lễ vòng đời (sinh nở,
cưới hỏi, tang ma...), đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần... Tuy nhiên, việc
tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về dòng họ người Tày ở huyện Bạch Thông
chưa được các nhà Dân tộc học/Nhân học ở Việt Nam quan tâm thoả đáng. Lựa
chọn vấn đề “Dòng họ người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn” để nghiên
cứu, tác giả mong muốn có thêm hiểu biết một cách đầy đủ và sâu sắc hơn về
văn hoá tộc người Tày với những đặc điểm riêng - chung về dòng họ Tày ở
huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn dưới góc nhìn nhân học. Đồng thời, đề tài còn
có ý nghĩa khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc, góp phần phát huy vai trò của
những người uy tín trong dòng họ đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở địa phương, nhằm xây dựng
nông thôn mới ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, cũng như vùng Đông Bắc
hiệu quả hơn. Thông qua đó góp thêm cơ sở khoa học để các nhà quản lý và
hoạch định chính sách tham khảo cho công tác quản lý xã hội, phát triển kinh tế,
và xây dựng chương trình nông thôn mới ở địa phương.
2
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Tìm hiểu các đặc điểm và mối quan hệ của dòng họ người Tày ở huyện
Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn truyền thống và hiện nay.
- Từ kết quả nghiên cứu đề xuất một số giải pháp, phát huy vai trò của dòng
họ trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có nhiệm vụ:
- Triển khai điền dã, tổng hợp, thu thập các nguồn tư liệu thành văn viết về người
Tày nói chung, người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn nói riêng.
- Trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; xác
định cơ sở lý thuyết và các khái niệm cho triển khai nội dung luận án.
- Mô tả và tìm ra những đặc điểm cơ bản của dòng họ người Tày truyền thống và
biến đổi.
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy vai trò của dòng họ trong
xây dựng nông thôn mới vùng người Tày hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu người Tày tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn trên các phương
diện đặc điểm, vai trò và mối quan hệ của dòng họ trong đời sống kinh tế, văn hoá,
xã hội từ truyền thống đến biến đổi.
Việc lựa chọn dòng họ để nghiên của cứu luận án theo một số tiêu chí sau:
thứ nhất lựa chọn các dòng họ có cách bố trí bàn thờ tổ tiên, tục cúng hang chàn
khác nhau như họ Hoàng, Đinh, Nông, Lường ... để thấy được sự khác biệt của các
dòng họ. Thứ hai, ở các điểm nghiên cứu lựa chọn một số dòng họ có dân số đông
và tụ cư từ lâu đời để thấy được quá trình phát triển của các dòng họ.
3
Trong quá trình thực hiện đề tài để bảo mật thông tin cá nhân một số nhân vật
đã được tác giả luận án thay đổi.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu ở các xã Vi Hương (vùng cao), Quang
Thuận (vùng thấp), thị trấn Phủ Thông (giáp thành phố), đây là những nơi người Tày cư
trú tập trung và còn lưu giữ được nhiều phong tục tập quán truyền thống.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu dòng họ của người Tày ở huyện Bạch
Thông, tỉnh Bắc Kạn trước năm 1986 (trước đổi mới) và sự biến đổi từ đổi mới năm
1986 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và chính sách dân tộc. Đặc biệt, luận án
bám sát đến các quan điểm biện chứng, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể để
triển khai các ý tưởng nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện dưới góc nhìn Nhân học, trong đó phương pháp chủ
đạo là điền dã dân tộc với các hình thức sau:
Quan sát, quan sát tham dự: quan sát trực tiếp, tham gia các hoạt động của
cư dân, hỏi chuyện người dân (phỏng vấn sâu và ghi chép về những điều có liên
quan đến luận án), kết hợp sử dụng các kỹ thuật bổ trợ để tăng thêm độ tin cậy của
tư liệu như chụp ảnh, ghi âm, ghi hình các sự vật và hiện tượng đang tồn tại trong
dòng họ. Tuy nhiên, ở tỉnh Bắc Kạn người Tày cư trú ở nhiều thôn bản, thuộc nhiều
xã, nhiều huyện khác nhau, do đối tượng nghiên cứu chính của luận án là dòng họ,
nên kỹ năng quan sát tham dự được tác giả đặc biệt quan tâm. Trong các chuyến
điền dã, tác giả đã tham dự một số nghi lễ của các dòng họ khác nhau như những
4
thành viên chính thức, từ lễ cúng cầu an đầu năm, lễ cầu mùa, lễ ma nhét (đầy
tháng), lễ cúng chữa bệnh, cho đến nghi lễ trong đám cưới, đám tang... các nghi lễ
cúng bái do thầy Tào, Mo, Then, Pụt, các cá nhân, gia đình và cộng đồng cư dân thực
hiện. Đồng thời, tác giả đã tiến hành phỏng vấn những người này về những gì đang diễn
ra, mục đích và ý nghĩa của các nghi lễ đó đối với người Tày như thế nào?
Tại huyện Bạch Thông, tác giả đã được chứng kiến 3 đám tang của người
Tày, ở lứa tuổi, bộ phận Tày khác nhau. Tại đây, tác giả ghi chép về nghi lễ cầu an
giải hạn, lễ cầu mùa và các nghi lễ luật tục tiễn năm cũ, đón năm mới, mối quan hệ
dòng họ, quan hệ cộng đồng cư dân Tày trong đời sống sản xuất, sinh hoạt hàng
ngày, quan hệ tương trợ trong sản xuất kinh tế, trong thực hiện các nghi lễ vòng
đời... Qua lời kể của người dân, trưởng bản, lãnh đạo địa phương: Bí thư, Chủ tịch
xã... và các thầy Tào, thầy Then, thầy Pụt nhằm có được cái nhìn khái quát ban đầu
về địa bàn nghiên cứu. Đồng thời, sử dụng các phương tiện kỹ thuật như ghi âm,
chụp ảnh, quay phim... để lưu giữ lại hình ảnh về người Tày ở đây.
Phỏng vấn sâu: đối tượng được phỏng vấn sâu có sự đa dạng về nghề
nghiệp, giới tính, lứa tuổi, trình độ học vấn... Nội dung các cuộc phỏng này được
chuẩn bị sẵn bằng một bộ câu hỏi phù hợp với nội dung nghiên cứu của luận án.
Thảo luận nhóm: tác giả thực hiện các cuộc thảo luận nhóm với nhiều thành
phần tham dự (Bí thư chi bộ, Trưởng bản, Chi hội trưởng Hội Phụ nữ, Chi hội
trưởng Hội Nông dân...). Những ý kiến của những người này giúp cho tác giả có
được thông tin đa chiều khi đánh giá, tìm hiểu, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy
các yếu tố tích cực cũng như hạn chế của dòng họ người Tày ở huyện Bạch Thông,
tỉnh Bắc Kạn. Ngoài ra, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh cũng được sử
dụng nhằm thu thập các tài liệu, báo cáo, thông tin có liên quan về các vấn đề dòng
họ dân tộc Tày.…
Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong ngành
Dân tộc học/Nhân học nhằm bổ sung, hoàn thiện các kiến thức còn thiếu sót trong
quá trình thực hiện luận án.
5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu nhân học đầu tiên về dòng họ người Tày
truyền thống và biến đổi ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
Luận án góp phần làm rõ vai trò, ảnh hưởng của dòng họ người Tày ở huyện
Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
Luận án góp thêm cơ sở khoa học và đề xuất một số giải pháp phát huy
những giá trị tốt đẹp của dòng họ, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực trong
xây dựng nông thôn mới ở vùng người Tày nói riêng và vùng các dân tộc thiểu số
nói chung.
Trong một chừng mực nhất định, luận án còn là tài liệu tham khảo cho sinh
viên các bộ môn lịch sử địa phương, văn hoá học, dân tộc học...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ đặc điểm của dòng họ
người Tày; đồng thời, khẳng định vai trò dòng họ của người Tày trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học và gợi mở một số vấn đề có thể vận
dụng vào thực tiễn nhằm phát huy hơn nữa vai trò của dòng họ ở vùng người Tày
huyện Phủ Thông trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu;
Chương 2: Đặc điểm một số dòng họ Tày ở các điểm nghiên cứu;
Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tộc người;
Chương 4: Vai trò, giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của dòng họ trong
đời sống người Tày hiện nay.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về dòng họ của các tác giả nước ngoài
Vấn đề về dòng họ đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm từ
rất sớm. Trong các tên tuổi đó phải kể tới Emily A.Schultz, Robert H.Lavenda,
Claude Lévi-Strauss, Radcliffe-Brown...
Với học thuyết về liên minh, nhà Dân tộc học người Pháp nổi tiếng - Claude
Lévi-Strauss trong tác phẩm The Elementary Structures of Kinship (Cấu trúc cơ bản
của quan hệ thân tộc) đã đưa ra mô hình một trật tự xã hội có cấu trúc chặt chẽ.
Theo ông, mọi xã hội con người đều xây dựng trên một đơn vị tối thiểu về thân tộc,
là hạt nhân của thân tộc. Ông là người đầu tiên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
liên minh bên trong cấu trúc thân tộc và nêu bật sự cần phải trao đổi có đi có lại
trong cấm kỵ loạn luân. Với phương pháp cấu trúc, Claude Levis- Strauss đã đem
lại một sinh khí mới cho việc nghiên cứu quan hệ thân tộc [111; tr. 155-163].
Theo hai tác giả Emily A.Schultz và Robert H.Lavenda trong tác phẩm Nhân
học một quan điểm về tình trạng nhân sinh thì dòng họ được xác định bằng những
mối quan hệ với tổ tiên, vì vậy dòng họ có một bề dày thời gian. Nguyên tắc của
quan hệ dòng họ bao gồm sự truyền lại qua mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái và
liên kết những người này lại với nhau thành một nhóm xã hội. Trong một xã hội tư
cách thành viên trong dòng họ sẽ quyết định cách thức người đó được huy động để
phục vụ cho hành động xã hội như thế nào. Những quan hệ bắt nguồn từ hành vi
tính giao được gọi là hôn nhân và những mối quan hệ dựa trên sinh đẻ được gọi là
dòng họ. Quan hệ dòng họ là phạm trù có tính chất chọn lọc, phản ánh quan điểm
của nền văn hóa nào đó về vai trò của con người. Xã hội mẫu hệ đề cao vai trò của
phụ nữ thông qua sinh đẻ và xây dựng hệ thống thân tộc, dòng họ, không chú ý
nhiều đến vai trò của nam giới trong sinh sản. Ngược lại, xã hội phụ hệ đề cao vai
trò của người cha và xây dựng hệ thống thân tộc, dòng họ thông qua những người
7
nam giới, coi nhẹ vai trò mang thai của phụ nữ. Các nhà nhân học cho rằng, có thể
có hai cách chính mà người ta sử dụng để thiết lập dòng họ: Dòng họ song hệ là
nhóm các thành viên có liên quan với nhau bằng một quan hệ như nhau, thông qua
bên cha và bên mẹ; dòng họ đơn hệ gồm những người có liên hệ với nhau chỉ thông
qua bên cha hoặc bên mẹ [66].
Nhà nghiên cứu nhân học Grant Evans khi nghiên cứu dòng họ và hôn nhân
lại chỉ tập trung vào mối quan hệ, vai trò của dòng họ và các tổ chức của những xã
hội không có chữ viết [42], còn Radcliffe-Brown từ nguồn tài liệu điền dã cho rằng,
bản chất của một hiện tượng thân tộc hiểu rộng là sự thành lập những đơn vị có cấu
trúc chặt chẽ và trường tồn trong thời gian, nghĩa là có trước những cá nhân thành
viên của những đơn vị ấy và tồn tại sau khi những cá nhân ấy đã chết [112].
Đóng góp nhiều nhất về phương pháp luận nghiên cứu dòng họ và hệ thống
thân tộc là nhà dân tộc học Liên Xô (nước Nga ngày nay) M.V. Kriukov. Ông là
một trong những nhà dân tộc học Xô Viết xây dựng không ít những công trình lý
luận quý giá trong việc nghiên cứu hệ thống thuật ngữ thân tộc. Trong đó, công trình
Các hệ thống thân tộc và khoa dân tộc học được coi là cơ sở nền tảng nghiên cứu về
dòng họ và hệ thống thân tộc ở Việt Nam [44]. Vận dụng lý thuyết này, ông đã phát
hiện vấn đề nguồn gốc tộc người Tà - mun, công bố trên Tạp chí Dân tộc học, năm
1990 [45, tr.36 - 39].
Có thể nói các công trình nghiên cứu về dòng họ trên thế giới với những
hướng tiếp cận khác nhau là nguồn tài liệu tham khảo cơ bản, thiết thực cho chúng
tôi trong quá trình thực hiện luận án.
1.1.2. Nghiên cứu dòng họ của các tác giả ở Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu về dòng họ người Kinh (Việt)
Ở Việt Nam, dòng họ là một thiết chế xã hội quan trọng, góp phần tạo nên
kết cấu làng xã và rộng hơn là đất nước, bởi gia đình - họ hàng - làng - nước được
coi là sự tổng hòa của các mối quan hệ văn hóa - xã hội - chính trị - luật tục trong xã
hội truyền thống.
Chúng ta có thể tìm thấy những mô tả về phả hệ của các dòng họ, hệ thống
các dòng họ trong các tác phẩm lớn như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử
8
thông giám cương mục, Đại Nam thực lục... Tuy nhiên, các tác phẩm này chưa đi
sâu tìm hiểu về cấu trúc, nội dung, ảnh hưởng của dòng họ. Tài liệu đầu tiên có
nhiều gợi ý quan trọng cho đề tài của chúng tôi là công trình Người nông dân châu
thổ Bắc Kỳ của Pierre Gourou. Từ khảo sát thực tế tác giả đã thống kê được 202
dòng họ ở vùng châu thổ sông Hồng và bước đầu có những nhận xét về tên họ, sự
phân bố các dòng họ tại làng xã, vùng miền [41]. Vào thập niên 90 của thế kỷ XX,
việc nghiên cứu dòng họ được triển khai mạnh mẽ dưới nhiều góc độ khác nhau như
Sử học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn hóa học. Tiêu biểu là các công trình của các
tác giả Phan Văn Các [17]; Đặng Nghiêm Vạn [102], [103]; Phan Đại Doãn [33],
[34], [35]; Mai Văn Hai [46], Trần Quốc Vượng [107].
Từ phương diện Dân tộc học, trong bài Bàn về dòng họ người Việt, Đặng
Nghiêm Vạn cho rằng “họ” có thể được hiểu theo ba nghĩa: (1) Là những người
cùng mang một tên họ, nhưng không thể chứng minh có chung một nguồn gốc; (2)
Là những thành viên mang cùng tên họ, có cùng một nguồn gốc...; (3) Là những
người cùng thuộc về một ông tổ 5 đời (chi họ) [102; tr.4-14].
Từ góc nhìn Sử học, GS. Phan Đại Doãn trong bài Cơ sở kinh tế và thể chế
tông pháp của dòng họ người Việt cho rằng dòng họ của người Việt có một thể chế
phức tạp và chặt chẽ thường được gọi là thể chế tông pháp. Đó là những quy định
về cách ứng xử giữa con người với con người cùng một tổ tiên, trước hết là các
công việc quan, tang, hôn, tế, hay nói cách khác là các quan hệ trên cơ sở huyết
thống về các mặt. Quan hệ dòng họ với người Việt thực sự có ý nghĩa quan trọng
trong đời sống hàng ngày và có ý nghĩa là điểm tựa thường xuyên của cuộc sống
con người [34; tr.3-9]; trong cuốn Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế văn hoá
xã hội tác giả phân tích rõ đặc điểm tính quan hệ cộng đồng của dòng họ có khả
năng chi phối mạnh mẽ đến các thành viên [35].
Với cách tiếp cận nghiên cứu liên ngành Xã hội học và Sử học, hai nhà
nghiên cứu Mai Văn Hai và Phan Đại Doãn trong cuốn Quan hệ dòng họ ở châu thổ
sông Hồng đã chỉ rõ vai trò của dòng họ trong cộng đồng làng xã với tư cách là một
đơn vị kinh tế, một bộ phận của tổ chức quyền lực và quản lý làng xã, một thiết chế
trong đời sống văn hóa tín ngưỡng. Đồng thời tác giả cũng khẳng định sự cố kết của
9
dòng họ có ảnh hưởng rất lớn đến việc thúc đẩy vai trò của dòng họ đối với các
thành viên [46].
Trên cơ sở nghiên cứu Vài nét về hệ thống thân tộc người Việt qua ngôn ngữ
cũng như tài liệu điền dã dân tộc học Ngô Thị Chính đã đưa ra một bức tranh khá
đầy đủ về hệ thống thân tộc phụ hệ truyền thống của người Việt [23; tr.50-57].
Trong khi đó, dưới góc nhìn văn hóa học, Trần Quốc Vượng cho rằng hệ thống thân
tộc, dòng họ của người Việt chủ yếu với mối quan hệ ba họ, đó là: họ bố, họ mẹ, họ
vợ chồng [107].
Một trong những công trình mang tính chuyên sâu về dòng họ được đánh giá
cao là cuốn Cơ cấu tổ chức của Làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ của Trần Từ. Ông
cho rằng, dòng họ đóng một vai trò nhất định trong lịch sử xây dựng làng mới...
Dòng họ còn đóng vai trò như một chỗ dựa tinh thần, và đôi khi là cả vấn đề chính
trị chứ không phải chỉ đơn giản là sự viện trợ về vật chất cho các thành viên trong
làng [101].
Mới đây nhất, có hai nghiên cứu quan trọng về dòng họ của người Việt đã
được thực hiện (Bạch Hoàng Khánh 2014, Nguyễn Thu Hiền 2015). Luận án Tiến sĩ
của Bạch Hoàng Khánh đã nghiên cứu mối quan hệ tương quan giữa gia đình, dòng
họ với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên, làm rõ vai trò của gia đình
dòng họ, đối với việc tổ chức thực hiện nghĩa vụ quân sự, xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, bảo vệ an ninh tổ quốc [43]. Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thu Hiền (2015)
tập trung nghiên cứu về quan hệ dòng họ ở làng gốm Bát Tràng từ truyền thống đến
biến đổi. Nghiên cứu cho rằng quan hệ dòng họ ở Bát Tràng vừa có nét chung của
làng Việt cổ truyền vùng đồng bằng Bắc Bộ, vừa có yếu tố riêng của làng nghề [57].
Những năm gần đây, bộ môn Dân tộc học nay là Khoa Nhân học thuộc Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội hướng dẫn nhiều khóa
luận, luận văn liên quan đến dòng họ ở một số địa phương như Dòng họ và đời sống
làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ qua tư liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất (Hà
Tây cũ); Văn hóa dòng họ Nguyễn Quý ở làng Đại Mỗ (xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm,
Hà Nội); Dòng họ và quan hệ dòng họ của người Việt ở làng Hoành Nha, huyện
Giao Thủy, tỉnh Nam Định... Các công trình này cho thấy thực trạng và xu hướng
10
vận động, biến đổi của dòng họ, quan hệ dòng họ tại các địa phương khác nhau, từ đó
bước đầu làm rõ vai trò của quan hệ dòng họ cả về mặt tích cực lẫn hạn chế, trong mọi
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
1.1.2.2. Nghiên cứu về dòng họ các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam
Dòng họ các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc đã được các nhà dân tộc
học Việt Nam tiến hành nghiên cứu và công bố quan các ấn phẩm như Sơ lược giới
thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, 1968 [63], Những nhóm dân
tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, 1972 [104]; Người Dao ở Việt Nam,
1971 [38], “Quan hệ dòng họ trong các bản của người Thái ở Vùng Tây Bắc”, 1977
[98], Mấy vấn đề cơ bản về lịch sử kinh tế - xã hội cổ đại người Thái Tây Bắc Việt
Nam, 1987 [99]; Văn hoá nếp sống của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì- Lô Lô,
1985 [53]; “Quan hệ dòng họ trong xã hội người Hmông”, 1987 [76]; Những đặc
điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc, 1996 [29]; Đặc trưng văn hoá
và truyền thống cách mạng các dân tộc ở Kỳ Sơn - Nghệ An, 1995 [51]; Dân tộc
Khơ - mú ở Việt Nam, 1999 [30]; Dân tộc Si La ở Việt Nam, 2000 [31]; Văn hoá
các tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thuỷ điện Sơn La, 2012 [52], Văn
hoá các dân tộc vùng lòng hồ thuỷ điện Lai Châu, 2016 [89].
Nghiên cứu người Khơ mú, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng các dòng họ mang tên
thú, chim và cây cỏ là tàn dư văn hoá nguyên thuỷ. Qua tên dòng họ, có thể thấy
được vết tích của những bào tộc mẹ (theo Ăng ghen là những thị tộc đầu tiên) và
các thị tộc từ các bào tộc phát triển ra [104]. Tuy nhiên, dòng họ của người Khơ mú được tổ chức khá lỏng lẻo, không chặt chẽ như dòng họ của người Hmông [30,
tr.180]. Với dòng họ người Thái ở vùng Tây Bắc, mối quan hệ: ải nọng, lúng ta, nhính
xao xuất hiện ngay trong một bản, có mối quan hệ mật thiết với nhau, không chỉ về
huyết thống mà còn cả những mối quan hệ khác (không phải anh cũng là em; chẳng
phải họ bên vợ cũng là họ bên mẹ, bên bà; không phải họ bên nội cũng là họ nhà dâu
gia) [98, tr. 73-80]. Tác giả cũng cho rằng sự xuất hiện của tổ chức clan (dòng họ),
gọi theo tiếng Thái là đẳm là một cơ cấu của cộng đồng người lấy dòng máu cha để
quy tụ [99, tr.202]. Đối với người Thái, người Mường dòng họ không chỉ mang tính
huyết thống mà trong xã hội phong kiến còn mang tính giai cấp, đẳng cấp. Ở vùng
11
người Mường giai cấp quý tộc cai quản một lãnh địa thường thuộc về một dòng họ
như Đinh, Quách, Bạch, Hà, nông dân chỉ có một dòng họ duy nhất: họ Bùi. Ở vùng
người Thái, giai cấp quý tộc thuộc dòng họ Bạc, Cầm, Hà, Đèo, Sa [102, tr.11]. Còn
ở các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng Miến “Tục thờ vật tổ của dòng họ dù đậm
nhạt khác nhau nhưng đều có ở các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô..., vật tổ
của dòng họ có thể là chim, thú rừng, cây hay gia súc đã được thuần dưỡng” [53, tr.
122)].
Ở người Hmông tính cố kết dòng họ được thể hiện qua hai hình thức: cố kết
rộng và cố kết hẹp, mỗi dòng họ được xem như một đơn vị cố kết cộng đồng huyết
thống theo hệ cha. Các thành viên trong cộng đồng gắn bó chặt chẽ với nhau bởi
cùng phả hệ dòng nam do một ông tổ sinh ra. Ông tổ là người đã chết mà người già
ở thế hệ cao nhất trong phả hệ còn nhớ [51, tr. 267). Đặc trưng của dòng họ còn
được một số tác giả mô tả qua nghi lễ tang ma. Theo Vương Duy Quang cách thức
làm ma của mỗi dòng họ khác nhau, như trong ma bò (nhux đangz) lẫn ma lợn (buô
đangz hay buô tair) và ma cửa (buô trôngz) đều có một số chi tiết riêng biệt giữa họ
này với họ khác [76, tr. 73].
Ngoại hôn dòng họ là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hôn nhân của các dân
tộc thiểu số miền núi miền Bắc. Ở dân tộc Khơ- mú, những người vi phạm nguyên
tắc ngoại hôn sẽ bị coi là phạm tội loạn luân, bị phạt theo luật lệ của bản rất nghiêm
ngặt..., người Khơ mú quan niệm, tội loạn luân sẽ gây ra sự ô uế cho đất, nước,
động đến thần linh làm cho các thần tức giận trừng trị con người, gây ra lũ lụt hạn
hán, bão tố sấm sét, động rừng... Do đó người Khơ- mú đã bắt những người vi phạm
tội loạn luân phải làm lễ hiến sinh một con dê để cúng thần linh. Hình phạt đối với
những người phạm tội xưa kia rất khắc nghiệt. Hai người phạm tội không một mảnh
vải che thân và phải ăn trên máng lợn trước sự chứng kiến của họ hàng và dân bản
[30, tr. 196], với người Thái tất cả mọi thành viên ở trong cùng một tông tộc đều
phải tuân thủ tập tục ngoại hôn. Do vậy ở người Thái, việc thiết lập các quan hệ hôn
nhân trái ngược với những chuẩn mực tập tục của họ dứt khoát bị cấm và bị xã hội
lên án gay gắt và bị nộp phạt rất nặng [16, tr. 42).
12
Khi đề cập đến vai trò của trưởng họ, Phạm Quang Hoan trong công trình
dân tộc Khơ- mú ở Việt Nam cho rằng, trưởng họ ở người Hmông có vai trò rất
quan trọng. Người trưởng dòng họ biết chữ, biết làm nghề thầy cúng thì càng có uy
tín trong dòng họ; không biết chữ, không biết cúng thì mức độ uy tín có giảm đi.
Mọi thành viên trong dòng họ phải luôn nghe theo và làm theo người trưởng dòng
họ. Tuy nhiên, mỗi khi giải quyết việc gì đó, trưởng họ không độc đoán mà có bàn
bạc với các bậc già làng, các bậc cha chú trong dòng họ. Song ý kiến của trưởng họ
mang tính chất quyết định hơn cả [30, tr. 167].
Ngoài các công trình kể trên, dòng họ của dân tộc thiểu số còn được lựa chọn
làm đề tài luận án tiến sĩ, đó là Dòng họ của người Hmông Trắng tỉnh Sơn La do Hồ
Ly Giang thực hiện, nghiên cứu này chỉ rõ đặc điểm dòng họ, các mối quan hệ và
vai trò của dòng họ trong đời sống cộng đồng người Hmông Trắng [39]. Cùng
hướng nghiên cứu dòng họ, Lê Minh Anh chọn đề tài luận án tiến sĩ Quan hệ dòng
họ của người Nùng Phàn Slình (nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).
Trong đó, tác giả trình bày về cấu trúc, chức năng của dòng họ đối với đời sống cá
nhân, gia đình và sự liên kết cộng đồng tộc người, đồng thời đưa ra khuyến nghị
nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở
người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới hiện nay [5].
Có thể khẳng định rằng, tổ chức dòng họ, ở các dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc có vai trò quan trọng trong đời sống tộc người xưa và nay. Dòng họ, dù
là của dân tộc nào cũng đều chi phối đến mọi mặt đời sống của từng gia đình,
từng thành viên cộng đồng cũng như có sự liên quan đến toàn bộ tổ chức kinh tế
- xã hội của các tộc người thiểu số.
1.1.2.3. Nghiên cứu về dòng họ người Tày
Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về dòng họ
của dân tộc Tày. Vấn đề này, thường được đề cập đến trong các công trình nghiên
cứu tổng hợp như Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, 1992 [106]; Văn hóa truyền
thống Tày - Nùng, 1994 [78]; Đến với người Tày và văn hóa Tày, 2010 [108];
Nghiên cứu một số nét biến đổi văn hoá người Tày tại Lạng Sơn trong quá trình đổi
mới kinh tế - xã hội, 2012 [47]; Dòng họ của người Tày trong đời sống xã hội hiện
13
- Xem thêm -