Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh vi...

Tài liệu Giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên việt nam hiện nay

.PDF
668
503
104

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHÙNG THU HIỀN Gi¸ trÞ ®¹o ®øc truyÒn thèng víi viÖc h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn nh©n c¸ch sinh viªn ViÖt Nam hiÖn nay (qua thùc tÕ c¸c tr­êng §¹i häc, Cao ®¼ng ë Hµ Néi) Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 80 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. NGUYỄN THẾ KIỆT 2. PGS, TS. NGUYỄN MINH HOÀN HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận án Phùng Thu Hiền MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, đạo đức truyền thống, nhân cách và tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên 1.3. Những nghiên cứu liên quan đến phương hướng và giải pháp nhằm phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Chương 2: NHÂN CÁCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên 2.2. Giá trị đạo đức truyền thống và tầm quan trọng của nó trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay Chương 3: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VỚI VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA (QUA THỰC TẾ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở HÀ NỘI) 3.1. Thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay 3.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TỐT CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Phương hướng phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 6 6 18 21 26 26 46 70 70 93 114 114 128 148 151 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Mỗi con người phải biết quá khứ của mình, mỗi dân tộc phải biết lịch sử của mình. Một dân tộc mà đánh mất quá khứ thì cũng là đánh mất chính bản thân mình. Các giá trị văn hóa truyền thống là tài sản vô giá của dân tộc. Nó là dòng chảy liên tục nảy sinh, tồn tại, phát triển trong suốt tiến trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của cha ông. Đây là cơ chế tích lũy, lưu truyền, chắt lọc, chuyển giao tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác, hình thái kinh tế - xã hội này qua hình thái kinh tế - xã hội khác. Việc khai thác, phát huy vai trò của các giá trị văn hóa nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách của con người, trong đó có sinh viên là đòi hỏi mang tính chiến lược của thời đại theo xu hướng nhân văn hóa, là một yếu tố cơ bản để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong tiến trình hội nhập và phát triển ở nước ta hiện nay. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn động viên tuổi trẻ phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập để vươn lên xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước. Trong Di chúc để lại cho chúng ta, Người đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Người nhận xét: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” [152, tr.25]. Đồng thời, Người đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết” [152, tr.25]. Ngày nay, cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng quan hệ quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, lối sống của sinh viên Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Hàng loạt các giá trị mới được hình thành, góp phần làm đa dạng, phong phú thêm lối sống của các tầng lớp nhân dân. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho các cá nhân, các nhóm xã hội năng động, 2 cởi mở và giàu khả năng thích nghi với những biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế. Giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng đã và đang tạo điều kiện cho sinh viên tiếp thu các giá trị tốt đẹp từ lối sống của các quốc gia, dân tộc khác để bổ sung và không ngừng hoàn thiện nhân cách, lối sống của mình. Trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta đã tạo ra một thế hệ sinh viên với những phẩm chất tốt đẹp như: bản lĩnh, tự tin, chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy... Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa đã có ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống, nhân cách của một bộ phận không nhỏ thanh niên, sinh viên, làm thay đổi quan niệm của họ về các giá trị truyền thống của dân tộc. Hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và sinh viên đã và đang diễn ra hết sức phức tạp. Tiêu cực xã hội có chiều hướng gia tăng, đời sống văn hoá tinh thần, nhất là sự xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống, khuynh hướng muốn hiện đại hoá, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi thường thuần phong mỹ tục, lãng quên truyền thống cha ông để lại... đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong thanh niên, sinh viên. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế, xã hội, trong đó có đạo đức, đang nảy sinh ngày càng nhiều vấn đề, nhiều tình huống phức tạp. Những mất mát, lệch lạc về giá trị, lối sống, nhân cách, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống đạo đức xã hội, tội phạm ngày càng gia tăng, đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên, sinh viên đang là mối quan tâm của toàn xã hội... Hơn nữa, do đặc điểm tâm sinh lý đặc thù và còn thiếu kinh nghiệm sống, bản lĩnh chưa thật sự vững vàng, sinh viên là tầng lớp rất nhạy cảm, dễ bị cuốn hút bởi cái lạ, cái mới, do đó, cũng dễ rơi vào cạm bẫy của cái xấu, cái phản giá trị từ những tác động bên ngoài. Vì vậy, trong cuộc sống hiện nay, họ thường gặp khó khăn trong việc định hướng, phân biệt giữa cái tốt và cái xấu. Để giúp sinh viên có bản lĩnh vững vàng, giúp họ có “sức đề kháng” trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và xu thế mở cửa, hội nhập, việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong hình thành và phát triển nhân cách sinh viên hiện nay, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của công cuộc đổi mới là việc làm quan trọng và cần thiết. Sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội cũng không nằm ngoài cái chung đó. 3 Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn chủ đề: “Giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội)” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống đối với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên thời gian qua, luận án đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt giá trị đạo đức truyền thống để hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội). 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài; - Phân tích, làm rõ khái niệm nhân cách, các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay; - Làm rõ giá trị đạo đức truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, tầm quan trọng và nội dung của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay; - Phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam và những vấn đề đặt ra; - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận án tập trung nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam dưới những hình thức thể hiện khác nhau. - Nhân cách sinh viên Việt Nam với các bộ phận hợp thành dưới tác động của các giá trị đạo đức truyền thống. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận án chỉ tập trung nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. - Sinh viên là một khái niệm rộng chỉ lực lượng xã hội đông đảo ở mọi miền đất nước, nhưng luận án chỉ giới hạn nghiên cứu sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội; số liệu khảo sát chủ yếu từ năm 1986 đến nay. - Khi phân tích thực trạng, luận án không xem xét một cách tổng thể, mà đi vào xem xét việc phát huy từng khía cạnh giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống, về con người và nhân cách. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử - lôgíc, phương pháp hệ thống, điều tra xã hội học, so sánh, ... để làm rõ các nội dung mà luận án đề cập. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Luận án góp phần làm rõ tầm quan trọng và nội dung của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Phân tích, chỉ rõ thực trạng việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay và những vấn đề nảy sinh từ thực trạng đó. - Đề xuất các phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để nâng cao hiệu quả phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Những vấn đề mà luận án đề cập và giải quyết góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, đoàn thể, cá nhân trực tiếp làm công tác bồi dưỡng, giáo dục sinh viên. - Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai nghiên cứu giảng dạy và cả những ai quan tâm đến vấn đề giá trị đạo đức truyền thống, phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Đạo đức, giáo dục đạo đức luôn gắn liền với tư tưởng về con người, về nhân cách con người trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại và đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Những công trình nghiên cứu khoa học đó tồn tại dưới các hình thức đề tài khoa học, luận án, luận văn, sách, tạp chí, báo. Qua các công trình đã công bố, chúng tôi có thể khái quát như sau: 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG, NHÂN CÁCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN - Trong các tác phẩm: “Lời nói đầu phê phán triết học pháp luật của Hêghen”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, “Chống Đuyrinh” [122]…đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức là sản phẩm của điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ý thức đạo đức là sản phẩm của những hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, nó phản ánh thực tiễn đạo đức của xã hội, “xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp” [122, tr.137]. Trong đó, nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế mà lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức. Các ông đã kiên quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức có tính chất duy tâm, tôn giáo, phi lịch sử. Các khái niệm, phạm trù đạo đức được sử dụng trong tác phẩm như: thiện, ác, lương tâm, danh dự, vị tha, vị kỷ… đã được C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa, lọc bỏ những nội dung có tính chất duy tâm, tôn giáo…, đem lại cho chúng những nội dung mới, đặt nền tảng cho một nền đạo đức khoa học - đạo đức cộng sản. 7 V.I.Lênin trong công trình nghiên cứu của mình đã viết: “Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [103, tr.371]. Như vậy, theo quan điểm mácxít, đạo đức không phải xuất hiện từ bên ngoài xã hội. Sự xuất hiện của đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời sống xã hội, mà trước hết là do nhu cầu liên kết giữa con người với nhau trong lao động sản xuất, trong đấu tranh… Vì thế, “đối với chúng ta, đạo đức ở ngoài xã hội loài người thì không thể có được; đó là lừa bịp” [103, tr.368]. Trên nền tảng phương pháp luận Mác-Lênin, đã xuất hiện các công trình khoa học về đạo đức, cả trong và ngoài nước. Trong rất nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện của mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đạo đức và việc giáo dục đạo đức đối với việc hình thành, phát triển và bồi dưỡng nhân cách. Trong đó, nổi bật nhất là tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hồ Chí Minh viết năm 1927, là cuốn sách bồi dưỡng cho lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết Mác - Lênin và con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại - con đường cách mạng vô sản mà Người đã lựa chọn. Mở đầu cuốn sách - bài nói về “Tư cách một người cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có “cái trí” thì “cái đức” chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo. Những khái niệm như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính… đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước trước công nguyên; khái niệm dân chủ, tự do, công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã, chúng đã bị xuyên tạc trong nhiều thế kỷ qua, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời, bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức của thời đại mới. Vì vậy, những giá trị đạo đức mới đã được hoà nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Hơn nữa, những giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới. - Tác phẩm “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” của V.A.Xukhômlinxki [198], dưới hình thức những lời khuyên bảo của nhà giáo 8 dục với trẻ em, thanh thiếu niên và những lời của tác giả nói với các nhà giáo dục, trước hết là với các thầy giáo, cô giáo. V.A.Xu-khôm-lin-xki trình bày một cách cụ thể, sinh động, hấp dẫn các phạm trù đạo đức, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức cùng phương pháp hình thành chúng trong học sinh. Giáo dục cho học sinh biết sống đúng, hành động đúng, có thái độ đúng đối với bản thân và đối với người khác. “Muốn cho lý tưởng đạo đức trở thành hiện thực, cần dạy cho con người biết sống đúng, hành động đúng, có thái độ đúng đối với bản thân và đối với người khác” [198, tr.17]. V.A.Xukhômlinxki đã nhấn mạnh giáo dục đạo lý làm người như một điều hệ trọng bậc nhất, đối với thế hệ trẻ, từ trẻ thơ trong giáo dục mầm non đến thanh thiếu niên trong giáo dục phổ thông và đại học. Điều hệ trọng ấy chính là làm cho mỗi con người, từ khi còn là một đứa trẻ đến khi trưởng thành, khôn lớn và vào đời, trong trái tim và tâm hồn của nó luôn luôn nảy nở những tình cảm cao thượng, đẹp đẽ, hướng tới những gì tốt đẹp nhất của con người và cuộc sống, để làm cho con người có “khát vọng nhìn thấy vẻ đẹp của con người và của tâm hồn con người, củng cố cái đẹp trong bản thân mình, khinh ghét sự hèn nhát, sự yếu đuối và sự nhu nhược” [198, tr.470]. Lòng nhân hậu, vị tha là cội nguồn và là nền tảng vững chắc của những tình cảm đẹp đẽ ấy, mà thiếu nó, con người không thể có được đời sống tinh thần phong phú, sự nhạy cảm và tâm hồn dễ xúc động trước những cuộc đời và số phận con người. Đó là sự quên mình, là làm cho đứa trẻ sớm biết quan tâm tới những niềm vui và nỗi đau của người khác, rằng nó cần phải sống tốt đẹp, lương thiện và tử tế, vì nó cần cho những người khác, nó sống vì người khác. Đó là chỗ sâu sắc nhất của nhân tính. Phát triển và hoàn thiện nhân tính, đó là chức năng cơ bản của giáo dục đạo đức. Vì thế, văn hóa đạo đức trở thành thước đo hàng đầu về văn hóa làm người của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, tác giả cũng đã nhấn mạnh về vai trò của người giáo viên - với tư cách là một nhà giáo dục khi và chỉ khi họ “nắm vững công cụ giáo dục vô cùng tinh tế là khoa học về đạo đức - đạo đức học. Đạo đức học trong trường phổ thông - đó là “triết học thực hành về giáo dục” [198, tr.17]. 9 - Cuốn sách: “Đạo đức học” của tác giả G.Bandzeladze [9], đã phân tích và luận giải về vai trò của đạo đức, làm sáng tỏ nhiều hiện tượng đạo đức xã hội cũng như mối quan hệ giữa đạo đức với “tính người” của con người. Trong đó, ông nhấn mạnh đến đặc trưng của đạo đức: “Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã hội” [9, tr.48]. Và ông coi “đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung” [9, tr.104]. Căn cứ vào sự phân tích quan hệ giữa đạo đức và chính trị, pháp lý, nghệ thuật…, G.Bandzeladze chỉ rõ những đặc điểm cụ thể của nội dung đạo đức, từ đó khẳng định: đạo đức là đặc trưng bản tính của con người, chỉ con người mới có đạo đức, do đó nó không thể không phản ánh những đặc trưng của bản tính người (hiểu theo nghĩa bản chất tiêu biểu và tốt đẹp nhất của con người). Theo ông, đạo đức bắt nguồn từ chỗ con người quan hệ với người khác như quan hệ với chính mình. Trong quan hệ với mình, con người không thể nào tư lợi thì trong quan hệ đạo đức với người khác, con người cũng không thể tư lợi. Do đó, đặc trưng cơ bản nhất, bản chất nhất của đạo đức là “chí công vô tư”; “Bản chất của đạo đức là sự quan tâm tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi ích của xã hội. Khác với hành động bản năng của loài vật, hành vi đạo đức là ở chỗ: sự quan tâm tự giác đến hạnh phúc của những người khác có tính chất tự nguyện” [9, tr.104]. - Trong cuốn sách: “Triết học xã hội” của A.G.Xpirkin [196], đã khẳng định đạo đức là: “Hệ thống những chuẩn mực xã hội điều chỉnh sự giao tiếp giữa các cá nhân và hành vi con người nhằm bảo đảm sự thống nhất lợi ích của cá nhân và tập thể” [196, tr.84]. Với quan niệm như vậy, đạo đức chính là “công cụ” để điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với con người, nhằm tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với xã hội. - Trong cuốn “Giáo trình đạo đức học” của Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Thế Kiệt [112], đã định nghĩa một cách khái quát: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã 10 hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [112, tr.8]. Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, đạo đức nảy sinh từ tồn tại xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội về lĩnh vực đạo đức. Đặc trưng cơ bản của đạo đức là ý thức, năng lực, hành vi tự nguyện, tự giác của con người đối với con người và đối với xã hội. Nó có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người thông qua các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại, phát triển, đảm bảo được quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giúp cho con người hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. - “Giáo trình đạo đức học” của tác giả Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ [168], đã trình bày xuất phát từ việc đánh giá vai trò, chức năng của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử và luôn được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Đặc biệt, trong điều kiện đổi mới đất nước ta hiện nay, việc giáo dục lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của chính mình, có ý thức bảo vệ thành quả của lao động, chăm lo lợi ích của cộng đồng, tránh lối sống ích kỷ, thực dụng, ăn bám, dối trá, chạy theo đồng tiền bất chính có vai trò quan trọng. - Cuốn sách: “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc [27], các tác giả chỉ rõ mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là đã tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự phát triển, song mặt khác kinh tế thị trường đã có những tác động tiêu cực nhất định tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức. Vì vậy, để lý giải rõ những vấn đề đạo đức nảy sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, cần phải thấy rõ vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển kinh tế - xã hội, để từ đó xây dựng đạo đức phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Cuốn sách: “Mấy vấn đề về đạo đức học mácxít và xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn 11 Thế Kiệt [93], đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về đạo đức như: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, quy luật vận động và phát triển của đạo đức; Đạo đức mới, vai trò và các nguyên tắc của đạo đức mới (đạo đức xã hội chủ nghĩa); Xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. - Cuốn sách “Tập bài giảng đạo đức học” của tác giả Phạm Văn Chung [29], đã góp phần làm sáng tỏ và cụ thể hơn về lịch sử, lý luận và thực tiễn những vấn đề, nội dung đạo đức cơ bản, quan trọng vốn được nêu lên và giải đáp trong lịch sử và lý luận đạo đức như: bản chất, tính chất, nguồn gốc, cơ sở của đạo đức, của các phạm trù: thiện, ác, hạnh phúc, lương tâm, nghĩa vụ, lẽ sống. Tác giả đã xem xét mối liên hệ bên trong giữa các phạm trù, quan niệm đạo đức học theo một trình tự nhất định trong hệ thống của chúng và cuối mỗi bài thường có sự nhận định về vị trí và ý nghĩa của mỗi phạm trù, quan niệm sau này. - Luận án tiến sỹ triết học: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Sỹ Phán [157], đã làm sáng tỏ thực chất, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên Việt Nam nói riêng trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, giao lưu hội nhập mở cửa hiện nay. Tác giả khẳng định: Để phát triển giáo dục, đào tạo theo hướng cân đối giữa “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”, trong đó “dạy người” là mục tiêu cao nhất, trước mắt cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên để hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức, những giá trị nhân cách trong họ, mà sự phát triển những phẩm chất đạo đức, những giá trị nhân cách là nội dung cơ bản và là mục tiêu trực tiếp của giáo dục đạo đức [157, tr.39]. - Luận án Tiến sĩ triết học: “Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” của tác giả Lê Thị Thủy [177], đã đề cập đến mối liên hệ giữa đạo đức với sự hình 12 thành và phát triển nhân cách; Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người Việt Nam hiện nay dưới tác động của đạo đức, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người Việt Nam hiện nay. - Cuốn sách: “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc [27], tập hợp các bài viết chọn lọc được trình bày trong hội thảo khoa học “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” do Viện Triết học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia tổ chức tại Hà Nội, tháng 8 năm 2001. Ở đây, có một số bài viết đề cập tới việc xây dựng, giáo dục đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. Có tác giả khẳng định: Giáo dục đạo đức trong cơ chế mới của chúng ta không phải là xây dựng đạo đức trong kinh tế thị trường bất kỳ, mà là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là kinh tế thị trường dưới sự tác động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội đó, ý thức đạo đức xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo trong đời sống đạo đức. Đây là một đặc thù cơ bản của giáo dục đạo đức trong kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay [27, tr.278-279]. - Cuốn sách “Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” của tác giả La Quốc Kiệt [90], đã cho rằng trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục, đào tạo, cùng với việc dạy chữ thì việc dạy người, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống cho sinh viên trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, sinh viên là những chủ nhân đất nước trong tương lai, là những người đại diện cho nền giáo dục của xã hội, bộ mặt văn hóa của xã hội. Vì vậy, sinh viên cần phải tu dưỡng đạo đức tư tưởng, đây là: Môn học về phẩm chất đạo đức và tư tưởng, môn lý luận mácxít và môn đạo đức tư tưởng của các trường đại học nói chung là con đường chủ yếu và khâu cơ bản tiến hành giáo dục lý luận mácxít và giáo dục đạo đức tư tưởng cho sinh viên một cách hệ thống, là một trong những đặc trưng bản chất của trường đại học xã hội chủ nghĩa, 13 là môn học cần thiết cho mỗi sinh viên, có tác dụng không thể thay thế trong việc đào tạo họ trở thành người xây dựng và kế tục sự nghiệp xã hội chủ nghĩa [90, tr.16]. - Bài viết: “Về việc tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phúc [160], trên cơ sở phân tích một cách khách quan sự biến động của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường, “Việc chuyển sang thể chế kinh tế mới tất yếu dẫn đến những biến đổi về chuẩn mực, giá trị đạo đức theo hướng đáp ứng yêu cầu của thể chế mới” [160, tr.4], tác giả đã luận chứng một số giải pháp căn bản để tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta. - Luận án tiến sĩ Triết học “Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay” của tác giả Hoàng Anh [4], tác giả bàn đến nhân cách và những nhân tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam, tầm quan trọng và thực trạng giáo dục lý luận Mác-Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và đưa ra phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò giáo dục Mác - Lênin trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. - Bài viết: “Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phan Quốc Huy [81], cho rằng: trong tình hình mới của đất nước, khu vực và thế giới có nhiều biến động phức tạp, kẻ thù đang dùng mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng hòng làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa và làm lung lay ý chí cách mạng của thế hệ trẻ. Vì vậy, việc quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, nhằm hình thành nên những lớp người có trí tuệ, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có ý chí, nghị lực, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, biết làm giàu chính đáng, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Theo tác giả, nội dung giáo dục đạo đức cách 14 mạng cho sinh viên là: Giáo dục phẩm chất trung với nước, hiếu với dân, phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, giáo dục cho sinh viên lòng yêu thương con người; Giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. - Bài viết: “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phan Văn Bính [19], đã trình bày rõ tính tất yếu của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên là: Xuất phát từ yêu cầu của sự phù hợp ý thức đạo đức với đặc điểm phát triển của xã hội; Xuất phát từ mục tiêu, quan điểm giáo dục của Đảng và Nhà nước; Xuất phát từ yêu cầu khắc phục những tồn tại, yếu kém trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ rõ nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay là: Giáo dục theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Giáo dục những giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc; Giáo dục đạo đức nghề nghiệp; Giáo dục tinh thần tự chủ, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu để tự khẳng định mình; Giáo dục văn hóa giao tiếp, tình yêu lứa đôi, hạnh phúc gia đình. Để giáo dục đạo đức cho sinh viên một cách hiệu quả nhất, cần chú trọng tới một số hình thức giáo dục như: Giáo dục thông qua môn học lý luận (triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh); Sử dụng hình thức nêu gương “người tốt việc tốt”; Giáo dục thông qua hình thức hoạt động tập thể; Cơ sở đào tạo có trách nhiệm tham gia xây dựng nền đạo đức mới cho sinh viên. - Cuốn sách: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của tác giả Trần Văn Giàu [54], đã phân tích sâu sắc về các giá trị tinh thần truyền thống dân tộc và sự vận động của chúng qua những giai đoạn lịch sử Việt Nam. Theo tác giả, mục đích tìm hiểu giá trị tinh thần truyền thống không chỉ là tìm hiểu thêm về lịch sử dân tộc, mà còn “nhằm mục đích thiết thực là góp phần xây dựng con người trong giai đoạn lịch sử cách mạng hiện nay, phục vụ cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội” [54, tr.40]. - Bài viết: “Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Huyên [82], đã khẳng định tính bền vững, trường tồn của các giá trị truyền thống, trong đó có giá trị 15 đạo đức, cũng như vai trò, sự cần thiết phải bảo vệ, giữ gìn, kế thừa và phát huy chúng trong quá trình xây dựng xã hội mới. - Luận án tiến sỹ triết học “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Lý [117], đã phân tích những mặt tích cực và hạn chế trong đạo đức truyền thống dân tộc, làm rõ vai trò của kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ rõ sự cần thiết, xác định những nội dung cơ bản cần được kế thừa, bổ sung và đổi mới trong các giá trị đạo đức truyền thống và đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản, đảm bảo kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng đời sống đạo đức tốt đẹp của con người và xã hội Việt Nam hiện nay. - Bài viết: “Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống Việt Nam trong giá trị nhân loại” của tác giả Lê Thị Lan [95], đã phân tích giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển dân tộc, nội dung và vị thế của giá trị truyền thống Việt Nam trong giá trị nhân loại. Trong đó, tác giả khẳng định chủ nghĩa yêu nước là một đặc trưng căn bản nhất của giá trị truyền thống Việt Nam, nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự biến đổi hệ giá trị của dân tộc và “Do quá trình toàn cầu hóa, một cơ hội mang tính toàn cầu mà mỗi dân tộc cần tận dụng là khuyến khích sự đa dạng và chia sẻ các giá trị đạo đức. Điều đó có nghĩa là giá trị của mỗi dân tộc có cơ hội tìm được vị thế của mình trong giá trị nhân loại” [95, tr.16]. - Cuốn sách: “Đạo đức học - mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật” của tác giả Đỗ Huy [79], đã bàn về “Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta từ góc nhìn đạo đức học” và “các giá trị đạo đức truyền thống ở nước ta và sự chuyển biến của chúng sang hiện đại”, tác giả khẳng định: Bảng giá trị Việt Nam đang quá độ rất mạnh mẽ với mục tiêu kết hợp được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, kết hợp các giá trị dân tộc với các giá trị quốc tế; kết hợp các giá trị dân tộc với các giá trị sắc tộc, các giá trị cá nhân với các giá trị cộng đồng… 16 Hiện nay trong xã hội đang thiết lập một hệ thống giá trị mà ở đó cái lợi phải thống nhất cái đúng, cái tốt và cái đẹp [79, tr.40]. - Bài viết: “Quan hệ giữa các giá trị đạo đức truyền thống và hiện đại trong xây dựng đạo đức” của tác giả Lê Thị Lan [96], từ chỗ cho rằng, thực tiễn dân tộc nào dung hòa được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, hay nói cách khác, tìm được phương thức biểu hiện mới của giá trị truyền thống trong thời hiện đại thì sẽ phát triển. Các giá trị dân tộc truyền thống cần phải được biến đổi cho phù hợp với thời đại mới. Tuy nhiên, trong quá trình biến đổi đó, cần phải có sự gạn lọc, kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống, kết hợp với những giá trị mới mang tinh thần của thời đại. Tác giả đi đến khẳng định: “Việc giải quyết mối quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại không thể dựa trên ý muốn chủ quan của nhà lý luận, mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn, dựa vào nền tảng kinh tế xã hội mà trên đó, các giá trị cũ hoặc mới được thừa nhận, phát triển hay loại bỏ” [96, tr.25]. Trong đó, tác giả đã khẳng định tinh thần yêu nước là một đặc trưng căn bản nhất của giá trị truyền thống Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyết suốt sự biến đổi hệ giá trị của dân tộc Việt Nam. - Trong bài viết: “Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện” trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Hùng Hậu [64], cho rằng Chân - Thiện - Mỹ là khát vọng, hoài bão, ước mơ của loài người, là giá trị phổ quát của mọi nền văn hóa, “Thiện trong truyền thống là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa cái Thiện của người Việt với những tinh hoa, tinh túy của cái Thiện trong Nho, Phật, Lão” [64, tr.29], “Ngày nay, trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cái Thiện cũng được bổ sung bằng nhiều nội dung mới. Nếu như trước kia, Thiện cao nhất, lớn nhất là yêu nước, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, thì ngày nay, Thiện phải làm sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…” [64, tr.31]. Từ đó, tác giả đi đến kết luận: “trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, cái Thiện mang một nội dung mới, một ý nghĩa thiết thực cụ thể chứ không chỉ là cái Thiện chung chung, trừu tượng ở trong tâm mỗi người” [64, tr.32]. 17 - Luận án tiến sĩ: “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị Hoài Thanh [170], đã đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức, vận dụng mối quan hệ này vào hoạt động giáo dục đạo đức cho thanh niên. Tác giả cũng đã nêu rõ vai trò của giáo dục đạo đức đối với thanh niên và chỉ rõ thực trạng của vấn đề này, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” của Dương Thị Liễu [108], đã phân tích làm rõ nội dung cơ bản của các giá trị đạo đức truyền thống điển hình của dân tộc Việt Nam, mối quan hệ biện chứng giữa các giá trị đạo đức truyền thống với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, từ đó khẳng định sự cần thiết của việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị trường. Bởi lẽ: Dưới tác động của kinh tế thị trường đã xuất hiện xu hướng biến động thái quá của các giá trị đạo đức hiện nay, trong đó có những biểu hiện lệch chuẩn. Đó là từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị - xã hội chạy sang cực các giá trị kinh tế - vật chất, từ chỗ lấy con người xã hội - tập thể làm mẫu mực sang chỗ quá nặng về con người cá nhân, thậm chí cá nhân chủ nghĩa, từ chỗ lấy đức làm gốc chuyển sang coi nhẹ đạo đức..., từ chỗ coi trọng lối sống lành mạnh, giản dị đến chỗ xa hoa lãng phí, phô trương... Lối sống thực dụng của cơ chế thị trường đã và đang làm đảo lộn quan niệm về giá trị truyền thống. Những quan niệm truyền thống trở thành chuẩn mực trước kia thì đến nay không còn phù hợp với con người hiện đại... [108, tr.35]. - Luận án Tiến sĩ triết học: “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” của Võ Văn Thắng [172], đã phân tích thực trạng, những vấn đề đang đặt ra trong quá trình kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay, tác giả khẳng định: “Kế thừa và phát
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan