tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hoạt động tín dụng là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng để tài
trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ. Hoạt
động tín dụng của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh
tế tại địa phương ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của
các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản
cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của
từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng
mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị
tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro
trong hoạt động ngân hàng cũng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản
cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ
các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau : quản lý yếu
kém, cho vay không tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không
hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế…
Điểm lại danh sách các ngân hàng thương mại đã từng bị đổ bể, bị thu hồi
giấy phép hoặc buộc phải sáp nhập tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy
nguyên nhân đều do không gánh chịu nổi hậu quả của các khoản nợ xấu. Do đó,
việc không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng mang một ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng.
Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng thời gian gần đây tuy đã có những
thay đổi tích cực theo hướng hội nhập quốc tế song năng lực cạnh tranh vẫn còn rất
hạn chế về nhiều mặt và ngày càng phải đối mặt với những thách thức đáng lo ngại
1
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
từ phía các ngân hàng nước ngoài. Những cam kết về mở cửa thị trường đang cuốn
hệ thống ngân hàng Việt Nam vào dòng chảy cải cách, trở thành một trong những
định hướng quan trọng nhất cho việc xây dựng chiến lược hoạt động của các ngân
hàng. Trong đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân
hàng Ngoại thương Huế nói riêng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì vậy, việc
nghiên cứu, xem xét một cách tổng quát và đầy đủ tình hình hoạt động tín dụng và
chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Huế trong
thời gian qua đồng thời đối chiếu với các yêu cầu đưa ra trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế và các cam kết của Việt Nam để đề xuất những giải pháp khả thi
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại
thương Huế trong giai đoạn tới là hết sức cần thiết.
Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Huế ” làm nội dung cho đề tài
tốt nghiệp.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Trên cơ sở lý luận về hoạt động tín dụng ngân hàng, đề tài đi sâu phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng và đề ra các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại
thương Huế.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, đề tài nhằm giải quyết những mục tiêu
cụ thể sau :
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng Ngân
hàng, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng tại
chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Huế.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Huế.
2
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với phạm vi của một luận văn thạc sỹ, đề tài sẽ chỉ tập trung nghiên cứu
những vấn đề cơ bản về chất lượng hoạt động tín dụng trên một số nội dung cơ bản
là các vấn đề liên quan chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng, các nhân tố ảnh
hưởng, điều kiện phát triển ở Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Huế, từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng
trong thời kỳ hội nhập.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tình hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân
hàng Ngoại thương Huế.
- Phạm vi thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chất
lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Huế,
các tài liệu phục vụ đánh giá thực trạng được thu thập trong khoảng thời gian từ
2004 đến 2006.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Chất lượng hoạt động tín dụng ngày càng được xem là yếu tố sống còn,
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng Thương mại, đặc biệt là
trong giai đoạn cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Vì thế, việc
xem xét, đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng để có những giải pháp thích hợp là
hết sức cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Huế.
5. KẾT CẤU NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài gồm có 4 chương :
Chương 1 : Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng và chất
lượng hoạt động tín dụng.
3
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
Chương 2 : Đặc điểm đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3 : Thực trạng và chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân
hàng Ngoại thương Huế.
Chương 4 : Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Huế.
4
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng đã ra đời từ lâu và trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều hình
thức khác nhau, vậy tín dụng là gì?
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại từ rất lâu đời trong xã hội loài người.
Tín dụng theo nghĩa La tinh là Creditim, có nghĩa là sự tín nhiệm, sự tin tưởng. Tên
gọi này xuất phát từ bản chất của quan hệ tín dụng. Trong quan hệ tín dụng người
cho vay sẽ cho người cần vốn vay theo các điều kiện đã được thoả thuận trước như
thời gian cho vay, thời gian vay và hoàn trả, lãi suất tín dụng...Trong quan hệ đó
người cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng
các thoả thuận, làm ăn có lãi và có khả năng hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Mặc dù có thể diễn giải tín dụng bằng những từ ngữ khác nhau, song chúng
ta có thể hiểu một cách đơn giản nhất, tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên
tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi vay và người cho vay.
Có thể định nghĩa tín dụng ngân hàng như sau:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một
tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá
nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người
cho vay [38].
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại là người cho vay lớn
nhất đối với các tổ chức kinh tế và dân cư. Với tư cách là tổ chức huy động để cho
5
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
vay, ngân hàng đã góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của các tổ chức kinh tế, các
thương nhân giúp họ có thêm vốn để bổ sung vào hạt động sản xuất kinh doanh, tận
dụng được cơ hội kinh doanh, tăng lợi nhuận cho chính mình.
Là người huy động vốn, ngân hàng sẽ thực hiện việc tìm kiếm, và thu hút vốn từ
các tổ chức kinh tế trong phạm vi toàn xã hội, là người cho vay, ngân hàng đáp ứng
nhu cầu vốn cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ
sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, tín dụng ngân
hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng yêu cầu tái sản xuất
xã hội. Cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín
dụng ngân hàng là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội đã
thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong
khi các tổ chức cá nhân khác lại có nhu cầu vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả
các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục.
Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ có ngân hàng là tổ chức
chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó khi ngân hàng giữ
vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Có ba loại quan hệ chủ yếu trong quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm:
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài nước.
Ngày nay, tín dụng ngân hàng đã và đang là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Bản chất của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của tín dụng, vì tín dụng ngân
hàng là một hình thức của tín dụng. Để thấy rõ bản chất của tín dụng ta hãy xem xét
6
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
quá trình vận động và mối quan hệ của nó trong quá trình tái sản xuất, thể hiện qua
các giai đoạn:
- Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: giai đoạn này vốn tiền tệ từ
trung gian tài chính là các ngân hàng được chuyển sang người đi vay.
- Sử dụng vốn: người đi vay sau khi nhận được quyền sử dụng lượng giá trị
đó sẽ sử dụng cho các mục đích khác nhau như tiêu dùng hay sản xuất. Tuy nhiên
tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, do đó người đi vay chỉ có quyền sử dụng tạm
thời trong một khoảng thời gian nhất định chứ không có quyền sở hữu nó.
- Hoàn trả tín dụng: đây là giai đoạn kết thúc để hoàn thành một chu trình
quay vòng vốn, vốn tín dụng lại quay trở lại hình thức tín dụng ban đầu có thêm phần
giá trị tăng thêm, người vay phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
Như vậy, hoàn trả là bản chất của tín dụng nói chung cũng như của tín dụng
ngân hàng nói riêng. Hoàn trả tín dụng là sự quay trở về của giá trị. Hoàn trả phải
luôn được bảo tồn về mặt giá trị và có phần tăng thêm dưới hình thức lợi tức.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại, nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho một ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế xã hội, là trung gian chuyển vốn từ người có vốn tạm thời
nhàn rỗi sang người thiếu vốn để đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu, hoạt động của ngân
hàng thượng mại đã tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp
ứng nhu cầu thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình
sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Trong quá trình phát triển, mặc
dù môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, sản phẩm mới,
công cụ kinh doanh mới xuất hiện và được ứng dụng vào kinh doanh song hoạt động
7
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động
của ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay thường chiếm trên 70% tổng tài sản
có. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ lệ cao, ở các nước
phát triển chiếm khoảng 60% trên tổng lợi nhuận của ngân hàng, ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay chiếm khoảng 90% lợi nhuận. Điều này thể hiện rõ hoạt động tín dụng
là hoạt động quan trong bậc nhất của một ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày
càng được phát triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế,
theo đó quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho
hoạt động tín dụng ngân hàng càng đa dạng và phức tạp hơn. Hiện nay, các
doanh nghiệp đang hoạt động trong môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt, ngân
hàng cũng không nằm ngoài xu thế đó. Để ngân hàng thương mại có thể đứng
vững trong điều kiện cạnh tranh thị trường gay gắt và phục vụ nền kinh tế ngày
càng tốt hơn, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh của mình, mở rộng phạm vi hoạt động, nghiên cứu và đưa nhiều sản phẩm
mới vào phục vụ khách hàng, và đặc biệt là nâng cao chất lượng tín dụng của
ngân hàng thích ứng tốt với tình hình mới.
1.1.3.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế thị trường
- Tín dụng ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong tất
cả các thành phần kinh tế để cho các doanh nghiệp, cá nhân vay, góp phần mở rộng
sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Vốn là yếu tố hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức
kinh tế. Khi có đủ vốn họ có thể dễ dàng hơn trong việc thực hiện các kế hoạch đầu
tư sản xuất hay xây dựng cơ bản của mình, ngược lại khi thiếu vốn họ sẽ luôn gặp
khó khăn trong các quyết định kinh tế, khi có vốn tạm thời nhàn rỗi họ cũng mất chi
phí cơ hội của vốn. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp cần vốn phải tìm kiếm
nguồn vốn để bù đắp, những doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi lại muốn cho vay. Tuy
nhiên việc các tổ chức thiếu vốn tìm được chủ thể khác thừa vốn tạm thời trong nền
8
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
kinh tế là hết sức khó khăn và tốn kém. Sự có mặt của tín dụng ngân hàng được coi
như là một công cụ để kết nối nhu cầu của người có vốn tạm thời nhàn rỗi và người
thiếu vốn. Lợi tức đi vay và cho vay của ngân hàng luôn là công cụ điều chỉnh các
quan hệ cung cầu vốn tín dụng. Nhờ có ngân hàng mà vốn tiền tệ được vận động
một cách liên tục, điều đó vừa làm tăng khả năng tích luỹ tư bản của các ngân hàng,
vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế nhờ vào nguồn thu từ việc cấp tín dụng
của ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế
Trong nền kinh tế thường tồn tại các ngành có trạng thái phát triển đối lập
nhau, một số ngành do có điều kiện thuận lợi và có lịch sử lâu dài có thể phát triển
tốt với nhiều thế mạnh và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngược lại một số ngành
do nhiều nguyên nhân khác nhau nên kém phát triển. Trong chiến lược phát triển
kinh tế lâu dài của quốc gia, nhiều quốc gia đã thực hiện phân loại những ngành
kinh tế mũi nhọn và những ngành kinh tế kém phát triển để có kế hoạch đầu tư
nhằm cân đối lại cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Muốn thực
hiện được kế hoạch đó cần phải có vốn và tín dụng ngân hàng góp phần đáp ứng
điều đó. Ngân hàng cung cấp cho các ngành thực hiện đầu tư theo cả chiều rộng và
chiều sâu, hình thành các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
và khai thác triệt để các nguồn lực, điều này thể hiện qua việc cấp tín dụng cho các
dự án, chương trình phát triển để khuyến khích đẩy nhanh tốc độ dịch chuyển cơ
cấu kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả tới sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ, doanh nghiệp cần
vốn đầu tư máy móc thiết bị và luôn phải đổi mới công nghệ. Tín dụng ngân hàng
đáp ứng được yêu cầu đó với điều kiện phải hoàn trả cả vốn vay và lãi; nếu vi phạm
hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp phải chịu phạt như chịu lãi suất nợ quá hạn cao,
mất quyền sử dụng tài sản thế chấp...Do vậy, doanh nghiệp luôn phải nâng cao hiệu
9
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
quả sản xuất, cạnh tranh trên thị trường để kinh doanh có lãi, thu hồi vốn đầu tư trả
nợ cho ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào sự phát triển các công ty cổ phần
Để thành lập công ty cổ phần đòi hỏi phải có một số vốn ban đầu do các cổ
đông đóng góp và ngân hàng có thể là một cổ đông lớn. Trong quá trình hoạt động,
việc phát hành cổ phiếu thông qua ngân hàng là một biện pháp hữu hiệu, tiết kiệm
được một phần chi phí và thời gian .
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ kinh tế đối
ngoại
Trong điều kiện hiện nay, các nước đều thực hiện nền kinh tế mở, nên nhu
cầu giao lưu kinh tế với các nước khác là rất cần thiết. Tín dụng ngân hàng là một
phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau thông qua hoạt động đầu tư vốn
xuyên quốc gia. Ngoài ra, muốn thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có
vốn và vốn tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu này kịp thời.
Tín dụng ngân hàng có một vai trò rất lớn, không chỉ đối với ngân hàng mà còn
đối với xã hội. Xã hội càng phát triển thì tín dụng ngân hàng càng trở nên cần thiết
1.1.4. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị
tổng tài sản và tạo ra hầu hết nguồn thu của ngân hàng. Các loại hình cho vay cũng
rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý người ta có thể
phân loại tín dụng thành nhiều hình thức khác nhau.
1.1.4.1. Theo mục đích vay vốn của khách hàng
Các hình thức cho vay có thể chia thành:
- Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây dựng
ngắn hạn và giải phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay dài hạn tài trợ cho
việc mua đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại và mua các tài sản nước ngoài.
10
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
Đối với loại hình cho vay này ngân hàng được đảm bảo bằng chính tài sản thực: đất
đai, toà nhà và các công trình khác.
- Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản tín dụng dành
cho ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Cho vay nông nghiệp: Nhằm hỗ trợ người nông dân trong quá trình gieo
trồng, thu hoạch và bảo quản sản phẩm.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: nhằm giúp các doanh nghiệp trang
trải những khoản chi phí như mua hàng nhập kho, mua sắm các máy móc thiết bị
khác trong hoạt động kinh doanh...
- Cho vay đối với các cá nhân: giúp tài trợ cho việc mua sắm các tài sản như
ô tô, xe máy, nhà ở, hay các khoản tiêu dùng cá nhân cần thiết khác.
- Các khoản cho vay khác: có thể là các khoản cho vay Chính phủ, cho vay
Chính phủ nước ngoài, cho vay theo thương phiếu chấp nhận thanh toán của các
ngân hàng khác...
- Tài trợ thuê mua: đây là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng cho khách
hàng, là nghiệp vụ mà ngân hàng đảm nhận việc thanh toán tiền mua máy móc, thiết
bị và giữ quyền sở hữu máy móc thiết bị đó; người thuê được quyền lựa chọn thiết
bị phù hợp với nhu cầu kinh doanh và lắp đặt tại nơi tiến hành hoạt động kinh
doanh của người thuê trong suốt thời hạn thuê, ngân hàng sẽ nhận được tiền từ
người thuê đồng thời khi kết thúc hợp đồng thuê, bên đi thuê có thể mua lại tài sản
đó theo giá bán được định trước khi ký kết hợp đồng thuê.
1.2.4.2. Theo loại tiền vay
Các hình thức tín dụng được chia thành:
- Cho vay bằng đồng bản tệ
- Cho vay bằng đồng ngoại tệ.
1.1.4.3. Theo tài sản bảo đảm tiền vay
11
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm là loại tín dụng không cần tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba.
- Tín dụng có tài sản bảo đảm là loại cho vay mà ngân hàng chỉ cho vay khi
khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc có người thứ ba đứng ra bảo lãnh.
1.1.4.4. Theo thời hạn sử dụng vốn vay
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng
hoàn trả của khách hàng.
Chia thành:
+ Cho vay ngắn hạn
+ Cho vay trung hạn
+ Cho vay dài hạn
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và
được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Thời hạn của tín dụng trung hạn thường là không cố
định. Trước đây thời hạn mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra đối với tín
dụng trung hạn là từ một đến ba năm. Tuy nhiên hiện nay, để đáp ứng yêu cầu vay
của doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định thời hạn của tín dụng
trung hạn là từ trên một năm đến năm năm. Việc nâng thời hạn tín dụng lên 5 năm
đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp vì đối với một số tài sản cố định có
thời hạn sử dụng tương đối dài nên cầu phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp mới
có thể hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng và sẽ giúp doanh nghiệp tránh rơi vào tình
trạng nợ quá hạn. Trên thế giới, có những nước quy định với các nước khác trên thế
giới thời hạn này lên tới 7 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tạo
hoặc đổi thiết bị, công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy
mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất…Trong nông nghiệp, tín dụng trung hạn
12
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước, xây dựng các
vườn cây công nghiệp như cà phê, điều…
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng mà thời hạn của nó dài hơn đối với tín
dụng trung hạn. Loại tín dụng này được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn
như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng
các xí nghiệp, nhà máy lớn, các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ là một phạm trù rất rộngvà phức tạp, phản ánh
tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Do tính phức tạp của nó nên hiện
nay có rất nhiều các quan niệm khác nhau về về chất lượng sản phẩm. Mỗi khái
niệm đều có những cơ sở khoa học và nhằm giải quyết những mục tiêu, nhiệm vụ
nhất định trong thực tế. Đứng trên các góc độ khác nhau và tuỳ theo mục tiêu,
nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh các doanh nghiệp có thể đưa ra những quan niệm về
chất lượng xuất phát từ người sản xuất, người tiêu dùng, từ sản phẩm hay từ đòi hỏi
của thị trường.
Quan điểm siêu việt cho rằng chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất của
sản phẩm. Khi nói đến sản phẩm có chất lượng, ví dụ nói về ô tô người ta nghĩ ngay
tới những xe nổi tiếng của các hãng như Roll Royal, Toyota…Quan niệm này mang
tính triết học, trừu tượng, khó xác định một cách chính xác nên nó chỉ có ý nghĩa
đơn thuần trong nghiên cứu.
Quan điểm xuất phát từ sản phẩm cho rằng chất lượng sản phẩm được phản
ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chẳng hạn, theo quan niệm của
Liên Xô (cũ) thì: “Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất của sản phẩm
chế định tính thích hợp của sản phẩm để thoả mãn những nhu cầu xác định phù hợp
với công dụng của nó”, hoặc một định nghĩa khác: “Chất lượng là một hệ thống đặc
trưng nội tại của sản phẩm được xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc
13
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
so sánh được, những thông số này lấy ngay trong sản phẩm đó hoặc giá trị sử dụng
của nó”. Quan niệm này đã đồng nghĩa chất lượng sản phẩm với số lượng các thuộc
tính hữu ích của sản phẩm. Tuy nhiên, sản phẩm có thể có nhiều thuộc tính hữu ích
nhưng không được người tiêu dùng đánh giá cao [10].
Theo quan niệm của các nhà sản xuất thì chất lượng là sự hoàn hảo và phù
hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, quy cách đã
được xác định trước.
Trong nền kinh tế thị trường, người ta đưa ra rất nhiều quan niệm khác nhau
về chất lượng sản phẩm. Những khái niệm chất lượng này xuất phát và gắn bó chặt
chẽ với các yếu tố cơ bản của thị trường như nhu cầu, cạnh tranh, giá cả,… Theo
hiệp hội tiêu chuẩn Pháp thì chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một
dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng. Còn theo Philip Crosby
– một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về quản lý chất lượng thì “Chất lượng là sự phù
hợp với yêu cầu”, yêu cầu ở đây là yêu cầu của người tiêu dùng và người sản xuất.
Còn theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) trong bộ tiêu chuẩn ISO đã đưa
ra định nghĩa chất lượng như sau: “Chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc
trưng của nó, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những biểu hiện tiêu dùng
xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”.
Trên cơ sở các quan niệm chất lượng ở trên ta có thể hiểu chất lượng tín
dụng ngân hàng như sau: Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt
nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn chế
rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận của ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh
tế xã hội.
- Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì chất lượng tín
dụng là khoản tín dụng được bảo đảm an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với
chính sách tín dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của ngân
14
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
hàng trên thị trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và
phát triển của ngân hàng.
- Xét trên góc độ lợi ích của khách hàng thì khoản tín dụng có chất lượng là
phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục
tín dụng đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo
được nguyên tắc tín dụng.
- Đối với nền kinh tế, khoản tín dụng có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt
động kinh doanh, tiêu dùng hợp pháp, góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông hàng
hoá, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, khai
thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn cho sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng
trưởng kinh tế.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM
Trong kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của
toàn bộ nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh
và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng
có hiệu quả kích thích sự tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thì sản phẩm truyền thống, chủ yếu và đóng vai trò then
chốt nhất đó là sản phẩm TDNH. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường thì rủi ro
trong kinh doanh là không thể tránh khỏi mà đặc biệt là rui ro trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng có phản ứng dây truyền, lây lan và ngày càng ảnh hưởng tiêu cực
đến toàn bộ nền kinh tế và có thể lan rộng sang qui mô quốc tế.
Không phải một cách ngẫu nhiên mà hoạt động của các ngân hàng luôn chịu sự
kiểm soát khắt khe của các cơ quan quản lý của Chính phủ, mà sự quản lí này nhằm:
- Đảm bảo sự an toàn cho khoản tiết kiệm của công chúng
- Kiểm soát mức cung ứng tiền tệ và tín dụng, phục vụ cho mục tiêu chung
của quốc gia như: tạo việc làm cao, tỉ lệ lạm phát thấp…
15
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
- Bảo đảm sự bình đẳng và công khai trong việc tiếp cận với các khoản tín
dụng và các dịch vụ tài chính của công chúng.
- Tăng cường lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính, đảm bảo các
khoản tiết kiệm được tập trung cho đầu tư sản xuất và đảm bảo quá trình thanh toán
được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.
- Ngăn chặn sự tập trung tiềm lực tài chính vào tay một số ít cá nhân hay
tổ chức
- Cung cấp cho chính phủ các khoản tín dụng, thuế và các dịch vụ tài
chính khác.
- Trợ giúp các khu vực của nền kinh tế có nhu cầu tín dụng đặc biệt như các
hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ, nông nghiệp…
Qua đó ta thấy được tầm quan trọng của hoạt đông ngân hàng, cũng như hoạt
động TDNH. Do đó, việc nâng cao chất lượng TDNH là đòi hỏi tất yếu của nền
kinh tế và cũng là nhu cầu thiết thực của chính các NHTM.
Đối với nền kinh tế : chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm bởi lẽ:
- Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò
trung tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn
tín dụng, với một số lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo
điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông và củng cố sức mua của đồng tiền.
- Chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung
gian tín dụng trong nền kinh tế: TDNH là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần
điều hòa vốn trong nền kinh tế. Tăng cường chất lượng tín dụng đồng nghĩa với
việc giảm thiểu lãng phí vốn do không sử dụng hết lượng tiền trong lưu thông giải
quyết mối quan hệ về cung cầu vốn trên thị trường, điều hòa và ổn định lưu thông
tiền tệ.
- Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng
trưởng kinh tế và nâng cao uy tín quốc gia: Điều này là do hoạt động tín dụng của
16
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
các NHTM có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong lưu thông, thông qua
cho vay chuyển khoản thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các NHTM có
khả năng mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với thực tế có. Đó là nhờ khả năng
tạo tiền của hệ thống ngân hàng, khối lượng tiền được mở rộng và đưa vào lưu
thông có quyền thanh toán và chi trả như các phương tiện khác và có thể được
chuyển thành tiền mặt- phương tiện lưu thông có tính lỏng cao nhất. Chính bởi lẽ đó
tín dụng là nơi tiềm ẩn lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho
NHTM cung cấp tổng phương tiện thanh toán phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tếtạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền
tệ và tăng uy tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của sản phẩm dịch vụ trong
tương lai của các công trình đầu tư.
Tín dụng là công cụ để thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về
phát triển kinh tế - xã hội theo ngành, theo lĩnh vực, theo địa phương. Bằng việc
phân tích, đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng kinh tế, khu vực kinh tế,
kết hợp với nguồn tín dụng các quyết định đầu tư đúng đắn sẽ khai thác được khả
năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động … để tăng cường năng lực sản xuất,cung
cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động. Nâng cao chất lượng tín dụng là góp phần tăng hỉệu quả
sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành các vùng trong cả
nước, ổn định và phát triển nền kinh tế.
Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hóa quan hệ tín dụng: hoạt động tín
dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản, thuận tiện, đảm bảo nguyên tắc tín
dụng góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết, giảm thiểu và xóa bỏ tình
trạng cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay ở khu vực nông thôn và miền núi xa xôi.
Với những vai trò quan trọng đó, để hoạt động tín dụng có chất lượng thì sự
nỗ lực của riêng bản thân các NHTM thôi là vẫn chưa đủ. Sự ổn định của nền kinh
tế với các cơ chế chính sách phù hợp, sự phối hợp nhịp nhàng và có hiệu quả giữa
các cấp các ngành là điều cần thiết.
17
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
Đối với mỗi NHTM, chất lượng tín dụng là yếu tố hàng đầu quyết định sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng đó vì:
- Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do
tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều
khách hàng, bởi lẽ sự phong phú và chất lượng của các sản phẩm dịch vụ tạo ra mọt
hình ảnh, uy tín cho ngân hàng tạo ra những khách hàng trung thành với ngân hàng.
- Chất lượng tín dụng gia tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các
chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay và yêu cầu kiểm tra tối
thiểu.
- Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế
mạnh của ngân hàng trong cạnh tranh.
- Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng bởi
vì chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và
những khoản lợi nhuận để bổ sung vào vốn đầu tư.
- Chất lượng tín dụng củng cố mối quan hệ xã hội của ngân hàng bằng những
điều kiện lao động tốt nhất.
Trước sức ép của cạnh tranh, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế với mục tiêu
tăng trưởng kinh tế - xã hội và sự phát triển vững mạnh của hệ thống ngân hàng,
việc không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách quan.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
Có rất nhiều nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng, nhưng gộp
chung lại có thể phân thành 4 nhóm nhân tố chính sau:
- Môi trường kinh tế
- Môi trường pháp lý
- Ngân hàng
- Khách hàng
18
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
1.2.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng
phát triển. Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp không có khủng hoảng, hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành tốt, có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao,
doanh nghiệp hoàn trả được vốn vay ngân hàng cả gốc và lãi thì hoạt động tín dụng
của ngân hàng phát triển, chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngược lại trong thời
kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút, lạm
phát cao, nhu cầu tín dụng giảm, vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử dụng
có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng
giảm sút về quy mô và chất lượng.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng, lợi tức của ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lợi nhuận
của doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng, nên với mức lãi suất cao các doanh
nghiệp vay vốn ngân hàng không có khả năng trả nợ ảnh hưởng tới sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nói riêng và tới toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động
tín dụng ngân hàng lúc này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển và chất lượng tín dụng cũng giảm sút.
Ngoài ra những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường cũng
ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài
chính Đông Nam Á đã cho thấy sự mất giá của đồng nội tệ ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.2.3.2. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp quy liên
quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước, pháp luật có vai trò
quan trọng, là một hàng rào pháp lý tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng
19
tailieuonthi
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, Nhà nước, cá
nhân công dân, bắt buộc các chủ thể phải tuân theo.
Nhân tố pháp lý ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là sự đồng bộ thống
nhất của hệ thống pháp luật, ý thức tôn trọng chấp hành nghiêm chỉnh những quy
định của pháp luật và cơ chế đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm
minh triệt để.
Quan hệ tín dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ
chế hoạt động tín dụng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng
lành mạnh, phát huy vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời duy trì
hoạt động tín dụng được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia
quan hệ tín dụng. Những quy định pháp luật về tín dụng phải phù hợp với điều
kiện và trình độ phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở đó kích thích hoạt động tín
dụng có hiệu quả hơn.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, gây khó khăn cho ngân
hàng khi kí kết thực hiện hợp đồng tín dụng. Luật ngân hàng còn nhiều sơ hở, chưa
đồng bộ với các văn bản luật khác. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lý chất
lượng tín dụng của ngân hàng.
Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu,
do thay đổi đột ngột, gây xáo động trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không
tiêu thụ được sản phẩm, hay chưa có phương án sản xuất kinh doanh mới dẫn đến
nợ quá hạn, nợ khó đòi, chất lượng tín dụng giảm sút.
1.2.3.3. Nhóm nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng liên quan đến sự
phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, gồm:
chính sách, công tác tổ chức, trình độ lao động, quy trình nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm
soát và trang thiết bị.
- Chính sách tín dụng
20
- Xem thêm -