Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay...

Tài liệu Giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay

.PDF
164
907
130

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH THƯƠNG GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP HIỆN NAY Chuyên ngành: Đạo đức học Mã số: 62 22 03 06 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Nhuận HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án NGUYỄN THỊ THANH THƯƠNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................... 5 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ..............................................................................................................6 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ................................18 1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ................................25 1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết ...............................................................31 Kết luận chương 1........................................................................................ 35 Chương 2. NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................................... 36 2.1. Một số vấn đề lý luận về nghĩa vụ đạo đức ....................................................36 2.2. Quan niệm về giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay và tầm quan trọng của nó ...................................................58 Kết luận chương 2........................................................................................ 78 Chương 3. GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA .................................................... 79 3.1. Thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ...................................................................................................79 3.2. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ..............................103 3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay…………………………………………117 Kết luận chương 3...................................................................................... 117 Chương 4. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP HIỆN NAY ................................ 119 4.1. Phát huy vai trò của các chủ thể giáo dục trong giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay .....................................120 4.2. Đổi mới nội dung và hình thức giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ..................................................................128 4.3. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ...................................134 4.4. Phát huy vai trò chủ động, tích cực của sinh viên các trường đại học công lập trong học tập và thực hiện nghĩa vụ đạo đức hiện nay ..................................139 Kết luận chương 4...................................................................................... 142 KẾT LUẬN ................................................................................................ 143 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .................................................................................................... 145 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Hiện nay, tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp và nguy cơ bùng phát những vấn nạn mang tính toàn cầu đang đặt ra nhiều vấn đề đạo đức được cả nhân loại quan tâm. Để giải quyết những vấn đề đó và bảo đảm cho sự phát triển bền vững, cần phải phát huy yếu tố con người không chỉ có tri thức khoa học, mà còn phải có giác ngộ đạo đức, nghĩa vụ đạo đức cao cả. Bởi đó chính là chiều sâu ý thức của con người (cá nhân, cộng đồng, xã hội) về trách nhiệm, bổn phận đạo đức của mình trước cộng đồng, xã hội và với chính bản thân mình. Nghĩa vụ đạo đức là nhân lõi của đời sống văn hoá, là động lực tinh thần to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta cũng đã khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần và vai trò của nó đối với xã hội: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [161]. Xây dựng đời sống tinh thần của đất nước bao gồm việc xây dựng tư tưởng chính trị, đạo đức, giáo dục, khoa học, văn hoá nhằm tạo ra những con người có lý tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh, kỷ cương để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong đó giáo dục nghĩa vụ đạo đức là một nhiệm vụ trọng tâm để mỗi người nhận thức rõ trách nhiệm đạo đức của mình trong các mối quan hệ xã hội. Ở nước ta, sinh viên các trường đại học công lập có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tiến trình đổi mới phát triển đất nước. Họ là những chủ nhân tương lai của nước nhà, là những người nắm giữ vai trò quyết định vận mệnh dân tộc đúng 1 như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là một phần lớn nhờ công học tập của các em” [85; 33]. Sinh viên các trường đại học công lập chiếm số lượng đông đảo trên tổng số sinh viên đại học cả nước. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển, họ ngày càng ý thức được trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, do những đặc điểm về tâm sinh lý, hạn chế về thế giới quan, nhân sinh quan, kinh nghiệm sống, nên trước biến đổi nhanh chóng của tình hình đất nước, cơ hội mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế gia tăng, đồng thời phải đối phó với sự du nhập của văn hoá, đạo đức, lối sống xấu độc từ bên ngoài vào làm nảy sinh những tiêu cực trong đời sống đạo đức của một bộ phận sinh viên như biểu hiện lối sống thực dụng, coi thường các giá trị truyền thống, vi phạm luật pháp … Những biểu hiện ấy không chỉ gây nguy hại đến các mặt của đời sống xã hội trong thời điểm hiện tại mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai đất nước. Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, mà trọng điểm phá hoại là thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” các thế hệ thứ ba, thứ tư của cách mạng Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, việc giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên các trường công lập nói riêng để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tính tự giác của mỗi người trong thực hiện các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội càng trở nên cấp thiết vì sự tiến bộ, phát triển chung của đất nước. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: “Giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ đạo đức, tầm quan trọng và thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập; qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay. 2 - Nhiệm vụ của luận án: + Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. + Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ đạo đức; giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên đại học công lập; phân tích tầm quan trọng của giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay. + Phân tích, làm rõ thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay và nguyên nhân của nó. + Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, nghĩa vụ đạo đức, giáo dục nghĩa vụ đạo đức, ngoài ra luận án tham khảo một số kết quả nghiên cứu đã được công bố có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án. - Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phân tích - tổng hợp; lôgic - lịch sử; đối chiếu và so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá… 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay. - Phạm vi khảo sát: sinh viên các trường đại học công lập ở Việt Nam; thời gian nghiên cứu là từ sau đổi mới (1986) đến nay. 5. Đóng góp mới của luận án - Góp phần làm sáng tỏ một số quan điểm về nghĩa vụ đạo đức trong lịch sử và quan điểm mácxít về nghĩa vụ đạo đức; làm rõ tầm quan trọng và nội dung giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên đại học công lập hiện nay. - Góp phần làm rõ thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay. 3 - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án - Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về nghĩa vụ đạo đức, giáo dục nghĩa vụ đạo đức. - Kết quả của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy đạo đức học và giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên. 7. Kết cấu của luận án - Luận án gồm: mở đầu, nội dung có 4 chương (13 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập quốc tế, tăng cường giao lưu, hợp tác với các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách đối ngoại rộng mở đã mang lại cho đất nước nhiều cơ hội phát triển, mở rộng các mối quan hệ kinh tế, giao lưu học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh doanh, trao đổi các giá trị văn hóa… Điều này không chỉ làm cho Việt Nam tiến gần hơn với những xu hướng chung của thế giới, mà còn giúp chúng ta khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Nhưng mở cửa, hội nhập cũng luôn tiềm ẩn những mặt trái của nó. Đó là tâm lý, lối sống thực dụng, quá coi trọng lợi nhuận và giá trị đồng tiền của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến sự lệch chuẩn các giá trị đạo đức, văn hóa, lối sống. Một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng rõ nét nhất sự tác động hai mặt của quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế đó là tầng lớp sinh viên, bởi họ có nhiều cơ hội tiếp xúc, giao lưu với các nhân tố mới được du nhập từ bên ngoài vào. Tình hình mới đặt ra yêu cầu mới đó là tăng cường giáo dục đạo đức, nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên tạo bước chuyển biến căn bản để họ nâng cao tính tự giác, tự nguyện thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vì vậy, giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay có ý nghĩa đặc biệt, cần được triển khai nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, luận án đề cập đến vấn đề đạo đức xã hội nói chung, giáo dục đạo đức với đối tượng học sinh, sinh viên nói riêng. Để có cái nhìn tổng quát nhất về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, tác giả đã khảo sát các tài liệu bao gồm sách giáo trình, sách tham khảo, tạp chí, báo mạng, luận văn, luận án… về đạo đức, giáo dục đạo đức, nghĩa vụ đạo đức; thực trạng đời sống đạo đức sinh viên hiện nay; định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục 5 nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên. Qua đó, rút ra được những yếu tố kế thừa, đồng thời chỉ ra những vấn đề luận án cần đi sâu nghiên cứu giải quyết, đóng góp mới của luận án khi nghiên cứu nghĩa vụ đạo đức, giáo dục nghĩa vụ đạo đức của sinh viên các trường đại học công lập hiện nay. 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay 1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức Nếu như đạo đức nói chung là mảng đề tài được nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm, thì những nghiên cứu chuyên sâu về nghĩa vụ đạo đức hiện nay còn khá khiêm tốn. Là một trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học Mác Lênin, vấn đề nghĩa vụ đạo đức chủ yếu được trình bày trong các giáo trình Đạo đức học dùng trong các trường đại học và cao đẳng như: Giáo trình đạo đức học (PTS. Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1996), Trần Thế Vĩnh, Nguyễn Văn Đằng, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội), Giáo trình Đạo đức học (PGS.TS Vũ Trọng Dung (chủ biên) (2005), Nxb Lý luận chính trị Hà Nội), Giáo trình Đạo đức học Mác - Lênin (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết học (2006), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội), Giáo trình Đạo đức học (Trần Đăng Sinh Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ biên) (2008), Nxb Đại học Sư phạm)… Trong các cuốn sách đó có thể nhận thấy nghĩa vụ đạo đức được trình bày khá đầy đủ về định nghĩa, lịch sử hình thành, phát triển của phạm trù cơ bản này từ cổ đại đến quan điểm của đạo đức học Mác - Lênin. Các tác giả đều thống nhất cho rằng nghĩa vụ đạo đức chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống đạo đức của xã hội và nó là sự thể hiện trách nhiệm đạo đức của con người vì lợi ích chung, lợi ích của người khác và của bản thân mình. Theo các tác giả, từ thời kì cổ đại, nhiều nhà triết học phương Tây và phương Đông đã bàn đến nghĩa vụ đạo đức. Phần lớn các triết gia phương Tây đều cùng quan điểm cho rằng nghĩa vụ đạo đức gắn liền với con người lý tính. Thực hiện nghĩa vụ đạo đức có nghĩa là mỗi người tự nguyện làm những điều 6 tốt, tránh xa những điều xấu và đó là con đường dẫn đến hạnh phúc. Chẳng hạn Xôcrát cho rằng, thực hiện nghĩa vụ đạo đức là vì mục đích sống của mỗi cá nhân và sự đòi hỏi của xã hội, còn Platon lại cho rằng, bổn phận đạo đức tối cao là chăm sóc cho tâm hồn mình. Cùng thời kì đó, các trường phái triết học phương Đông lại có khuynh hướng giải thích về nghĩa vụ đạo đức gắn liền với những vấn đề của đời sống xã hội. Con người không thể tồn tại nếu không thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Việc thực hiện đạo đức tốt đến đâu chính là cơ sở để xác định một người là chính nhân quân tử hay chỉ là bậc tiểu nhân; hoặc đã được “giải thoát” đến mức độ nào. Thời kỳ Trung cổ, đặc biệt ở phương Tây, quan điểm thần học thống trị đời sống xã hội khiến cho quan điểm về nghĩa vụ đạo đức cũng có sự thay đổi căn bản gắn với thần học. Thiên chúa giáo, nguồn gốc của nghĩa vụ đạo đức được lí giải chính là trách nhiệm của con người trước Thượng đế. Con người thực hiện nghĩa vụ đạo đức để chuộc những lỗi lầm của con người ở cuộc sống hiện tại và hướng tới cuộc sống giải thoát không còn đau khổ, hưởng hạnh phúc ở một thế giới khác sau cái chết (nơi Thiên đàng). Đến thế kỷ XVII - XVIII, khoa học thực nghiệm ra đời, chủ nghĩa duy vật siêu hình phát triển mạnh mẽ đã bác bỏ quan điểm thần học về nghĩa vụ đạo đức. Các nhà triết học cho rằng nghĩa vụ đạo đức gắn với đời sống của con người. Thực hiện nghĩa vụ đạo đức mang lại cho con người hạnh phúc, vinh quang, sự hài lòng và sự tôn trọng. Trong triết học Cổ điển Đức, I.Cantơ đã trình bày có hệ thống nhiều quan điểm, tư tưởng mới về đạo đức. Theo ông, đã là con người thì ai cũng phải thực hiện nghĩa vụ đạo đức, phải sống hài hòa với tự nhiên, tôn trọng mình và người khác, sống theo lẽ phải, bình đẳng. Do đứng trên lập trường quan điểm duy tâm và “bất khả tri” luận nên ông cho rằng “mệnh lệnh tuyệt đối” chính là cái điều khiển chuẩn mực đạo đức cũng như bắt buộc con người phải làm tròn bổn phận, thực hiện nghĩa vụ đạo đức của mình. 7 Quan điểm của các trường phái triết học hiện đại có nhiều điểm khác biệt so với những quan điểm truyền thống. Các nhà triết học theo chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa thực chứng đều có xu hướng cho rằng các chuẩn mực đạo đức và thực hiện nghĩa vụ đạo đức mang tính chủ quan. Sự tự do của con người - “tự luật” là cái tuyệt đối và chi phối tất cả. Các chuẩn mực đạo đức là do cá nhân qui định, còn các chuẩn mực, giá trị đạo đức bên ngoài do xã hội quy định - “tha luật” đều không có giá trị gì đáng kể. Nhiều giáo trình đã trình bày khái lược những nét cơ bản nhất trong quan niệm về nghĩa vụ đạo đức của một số triết gia, trường phái tư tưởng ngoài mácxít khác. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức tập trung nhiều vào mảng phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nghĩa vụ đạo đức. Trong khả năng bao quát của mình, tác giả nhận thấy phần lớn các giáo trình đều thống nhất cho rằng: “Nghĩa vụ đạo đức là sự thể hiện trách nhiệm đạo đức của con người trước lợi ích chung (cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) và lợi ích của người khác, là ý thức về cái cần phải làm và mong muốn được làm vì những lợi ích đó” [54; 117]. Như vậy, nghĩa vụ đạo đức vừa là yêu cầu của xã hội đối với cá nhân, vừa là cái bên trong mà mỗi con người ý thức được, chuyển hóa thành động lực thôi thúc hành động vì nhu cầu, sự hoàn thiện của chính mình. Cơ sở của việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức chính là sự tự nguyện, tự giác của con người. Mỗi cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức sẽ góp phần tạo nên xã hội lành mạnh, phát triển. Sự phát triển cao nhất trong ý thức của con người về thực hiện nghĩa vụ đạo đức mang giá trị xã hội cao nhất chính là tinh thần yêu nước, tự nguyện xả thân vì đất nước, mong muốn được đóng góp phần công sức của cá nhân cho sự nghiệp chung của đất nước. Nguồn gốc nhận thức của con người cá nhân về nghĩa vụ đạo đức được hình thành dần từ tuổi bé thơ thông qua giáo dục của gia đình, đến tuổi đi học, nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục về nghĩa vụ đạo đức và mỗi cá nhân cũng dần ý thức rõ, thực hiện trách nhiệm đạo đức đối với cộng đồng, xã hội 8 và trách nhiệm với chính bản thân mình. Ý thức về thực hiện nghĩa vụ đạo đức của mỗi người vừa là kết quả của quá trình giáo dục, truyền đạt, vừa là kết quả của sự trải nghiệm, trưởng thành của cá nhân. Con người nhận thức về nghĩa vụ của mình và thực hiện nghĩa vụ đạo đức ấy trong suốt cả cuộc đời và không ngừng tự hoàn thiện mình qua trải nghiệm cuộc sống. Việc khái lược các quan điểm trong lịch sử triết học về đạo đức học thường được các tác giả tổng hợp lại từ các sách viết về lịch sử triết học. Trong các sách như: Đạo đức học phương Đông cổ đại (PTS. Vũ Tình (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội), Triết lý trong văn hóa phương Đông (Nguyễn Hùng Hậu (2002), Nxb Đại học Sư phạm), Lược khảo triết học phương Tây hiện đại (Bùi Đăng Duy - Nguyễn Tiến Dũng (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội), Đại cương lịch sử triết học phương Tây TS. Đỗ Minh Hợp - TS. Nguyễn Thanh - TS. Nguyễn Anh Tuấn (2006), Nxb tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh), Diện mạo triết học phương Tây hiện đại (Đỗ Minh Hợp (2006), Nxb Hà Nội)… đã trình bày một cách tương đối hệ thống các quan điểm nổi bật của từng triết gia, từng trường phái triết học từ thời kì cổ đại đến hiện đại. Trong hệ thống quan điểm về nhân học, về chính trị - xã hội, về siêu hình học, về bản thể của thế giới, về phương pháp… vấn đề đạo đức có thể được trình bày xen kẽ hoặc trở thành vấn đề riêng. Quan điểm về đạo đức học nói chung, hay nghĩa vụ đạo đức nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc thế giới quan duy vật hay thế giới quan duy tâm của mỗi triết gia. Ví dụ như Xôcrát cho rằng, thực hiện nghĩa vụ đạo đức là vì mục đích sống của mỗi cá nhân và sự đòi hỏi của xã hội, còn Platon lại cho rằng, bổn phận đạo đức tối cao là chăm sóc cho tâm hồn mình; hay Cantơ cho rằng, “mệnh lệnh tuyệt đối” qui định các chuẩn mực đạo đức của con người và buộc con người thực hiện nghĩa vụ đạo đức đó. Thông qua việc tìm hiểu quan điểm của các triết gia về đạo đức, nghĩa vụ đạo đức, tác giả luận án đã rút ra những quan điểm cơ bản nhất và sắp xếp theo trình tự thời gian để tạo nên hệ thống quan điểm về nghĩa vụ đạo đức tồn tại như một bức tranh đa sắc. 9 Một số cuốn sách khác cũng bàn đến phạm trù nghĩa vụ đạo đức như Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên (PGS, TS Trần Hậu Kiêm - TS Đoàn Đức Hiếu (2004), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội), Tập bài giảng đạo đức học (Phạm Văn Chung (2012), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội). Trong đó tác giả Phạm Văn Chung cũng đã trình bày sơ lược lịch sử các quan điểm về nghĩa vụ đạo đức. Ngoài những quan điểm của các nhà triết học tiểu biểu, tác giả còn bổ sung thêm quan điểm của tác giả Nhật Bản Tomnobu Imamichi, tác giả người Pháp Francois Jullien. Một điểm khác biệt khi trình bày về nghĩa vụ đạo đức trong Tập bài giảng này là tác giả đã dành những mục riêng để trình bày sâu hơn về ngữ nghĩa của phạm trù nghĩa vụ đạo đức, bản chất, tính chất quan trọng, nguồn gốc, cơ sở và ý nghĩa của nghĩa vụ đạo đức. Đặc biệt khi trình bày về tính chất của nghĩa vụ đạo đức, tác giả đã chỉ ra nghĩa vụ đạo đức của con người có năm tính chất: tính chính đáng, yêu cầu làm tròn nghĩa vụ, sự thống nhất giữa tính đạo đức, xã hội và pháp lý của nghĩa vụ, tính đa dạng, phong phú và thống nhất của nghĩa vụ, tính lịch sử của nghĩa vụ. Đây là những nghiên cứu lý luận khá sâu sắc về nghĩa vụ đạo đức tạo điều kiện thuận lợi trong vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Qua việc tìm hiểu tính chất của nghĩa vụ đạo đức, tác giả của Tập bài giảng rút ra kết luận là đối với những đối tượng khác nhau trong xã hội thì yêu cầu về thực hiện nghĩa vụ đạo đức cũng khác nhau. Các chuẩn mực đạo đức mà đối tượng nhất định phải tuân theo cũng phải phù hợp với từng hoàn cảnh, thời điểm cụ thể chứ không có chuẩn mực chung cho mọi đối tượng, mọi xã hội, mọi thời điểm. Ngoài ra, tác giả cũng phân tích một số ví dụ về nghĩa vụ đạo đức trong lịch sử thể hiện trong Kinh Thi và sách Trung Dung. Như vậy, nghĩa vụ đạo đức được tác giả kết luận chính là việc người ta phải làm những công việc nhất định trong cuộc sống của mình. Trên thế giới, các tác phẩm có bàn đến nghĩa vụ đạo đức thường khai thác theo chiều cạnh lịch sử triết học hoặc khái lược những quan điểm nổi tiếng của các triết gia. Trong Đạo đức học, (G. Bandzeladze (1985), Nxb Giáo dục), tác 10 giả G. Bandzeladze đã chỉ ra “cuộc sống con người trước hết là đấu tranh để thực hiện nghĩa vụ trước những người khác và xã hội” [39; 288]. Như vậy, nghĩa vụ được hiểu là sự cần thiết phục tùng ý chí của xã hội. Khái niệm nghĩa vụ được hiểu cụ thể hơn khi đưa thêm vào những khái niệm “tự do bên ngoài”, “tự do bên trong”, “cưỡng chế bên ngoài”, “cưỡng chế bên trong”. Nếu trong hoạt động thực hiện nghĩa vụ có sự kết hợp giữa tất yếu khách quan và tự do chủ quan thì đó là nghĩa vụ pháp lý. Nếu hành động thực hiện nghĩa vụ là sự thống nhất giữa tất yếu chủ quan và tự do khách quan thì đó là nghĩa vụ đạo đức. Với cách hiểu như vậy, nghĩa vụ đạo đức chính là trách nhiệm đối với người khác hoặc đối với xã hội và nó xuất phát do sự thôi thúc từ bên trong của mỗi người. Trong tác phẩm 120 nhà triết học - cuộc đời, số phận, học thuyết (P.S.Taranốp (1997), người dịch và hiệu đính: Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Vũ Hảo, “tavria” Simpheropol), tác giả đã trình bày bao quát các nhân vật có tư tưởng rất quan trọng từ Vua Sôlômông đến Nitsê và Vaxili Rôđanốp. Cuốn sách đã nêu ngắn gọn những sự kiện tiểu sử làm nổi bật tính độc đáo của các nhà tư tưởng, những yếu tố quan trọng nhất trong học thuyết, lập trường khoa học, niềm tin, định hướng nhận thức… Tác giả Samuel Enoch Stumpf, trong sách Lịch sử triết học và các luận đề (Samuel Enoch Stumpf (2004), Biên dịch: Đỗ Văn Thuấn, Lưu Văn Hy; Hiệu đính: Nguyễn Việt Long, Nxb Lao động, Hà Nội), cũng dựa trên việc phân tích quan điểm của các nhà triết học, đã nêu lên đầy đủ, chi tiết nội dung tư tưởng của một số nhà triết học từ thời cổ đại đến cận đại. Tư tưởng của mỗi triết gia thường bao gồm trong đó là quan điểm đạo đức học và có đề cập đến vấn đề nghĩa vụ đạo đức. Ví dụ khi trình bày về triết học đạo đức của Platon, tác giả đã phân tích cơ sở hình thành quan điểm đạo đức của Platon, khái niệm về linh hồn; nguyên nhân của cái ác, quên hay ngu dốt; phục hồi đạo đức đã mất; đức hạnh như là sự hoàn thành chức năng. Với sự trình bày tỉ mỉ như vậy đã giúp cho người đọc có cái nhìn cụ thể về đối tượng muốn tìm hiểu. 11 Trong một tác phẩm khác là Bàn về xác lập cơ sở đạo đức (Francois Jullien (2013), Nxb Lao động), thông qua nghiên cứu đạo đức học của Mạnh Tử, Francois Jullien cũng đã bàn đến nghĩa vụ đạo đức như là sự tự giác, chân thành và chủ động của cá nhân trong hành vi đạo đức của mình. Tìm hiểu về đạo đức học của Mạnh Tử cũng đã giúp F.Jullien rút ra được mối quan hệ giữa những vấn đề đạo đức trong quá khứ và hiện tại, đặc biệt là mối quan hệ giữa trách nhiệm đạo đức của cá nhân đối với người khác, với cộng đồng và trách nhiệm đạo đức của cá nhân đối với chính bản thân mình. Với tác giả Edgar Morin (2012), ông đã trình bày quan điểm mới mẻ về đạo đức qua bộ Phương pháp (Chu Tiến Ánh dịch, Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu), Nxb Tri thức). Theo ông, đạo đức học hiện đại là sự thống nhất của tự thân - đạo đức, xã hội - đạo đức, nhân học - đạo đức. Đạo đức học phức hợp gắn bó chặt chẽ với đạo lý, luân lý và nó biểu lộ ra như là mệnh lệnh đối với mỗi cá nhân khi cá nhân cảm nhận về việc thực hiện bổn phận, nghĩa vụ đạo đức của mình. Đạo đức của con người cũng biểu lộ thông qua mối quan hệ giữa cá nhân - xã hội - giống loài. Trong bối cảnh hiện nay, khi diễn ra khủng hoảng trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức cũng rơi vào cuộc khủng hoảng. Tái tạo nguồn cho đạo đức chính là tái sinh các nguồn của tính trách nhiệm và mối liên kết giữa cá nhân, xã hội, giống loài. Có thể nói rằng, vấn đề nghĩa vụ đạo đức đã thu hút sự quan tâm của các nhà tư tưởng, các học giả, nhà nghiên cứu từ phương Đông đến phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại. Trong khả năng bao quát của mình, những tư liệu đó là tài liệu tham khảo hết sức quý giá để nghiên cứu sinh thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận án đã xác định. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tầm quan trọng của giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay Về vấn đề đạo đức sinh viên, nhìn chung các tác giả đều có quan điểm cho rằng, sự suy thoái đạo đức biểu hiện ở một bộ phận sinh viên hiện nay là một thực trạng đáng lo ngại và có ảnh hưởng xấu đến tương lai của nước nhà. Chính 12 vì vậy việc giáo dục cho thanh niên, sinh viên nhận thức đầy đủ về các giá trị đạo đức và thực hiện nghĩa vụ đạo đức trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một việc vô cùng quan trọng và cấp bách. Tại Hội thảo khoa học “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta: Thực trạng và giải pháp” do Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam tổ chức tháng 7-2008, đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cũng như các giảng viên, giáo viên. Trong số gần 70 tham luận, có một số tham luận đề cập đến vấn đề giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho học sinh, sinh viên. Tác giả Lê Như Bình, trong bài “Xác định những phẩm chất đạo đức cần rèn luyện cho sinh viên” cho rằng về giáo dục nghĩa vụ đạo đức trong trường đại học nên hướng vào rèn luyện cho sinh viên ở hai nội dung cơ bản đó là trách nhiệm cộng đồng và trách nhiệm bản thân” [155]. Tháng 4 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên”. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà giáo dục với hơn 40 bản tham luận, trong đó có nhiều báo cáo đã đề cập đến tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên. Tác giả Nguyễn Thị Thọ trong bài tham luận “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học hiện nay - Thực trạng và giải pháp” đã chỉ ra rằng về mặt lý luận, giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài và liên tục. Giáo dục đại học là sự tiếp nối của giáo dục gia đình và các bậc học trước đó nhằm hướng đến mục tiêu đào tạo ra những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Về mặt thực tiễn, hiện nay trên thế giới đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ do sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, thúc đẩy giao lưu, hợp tác giữa các nước. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã gây ra những tác động tiêu cực trong đời sống đạo đức con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nhiều những biểu hiện tiêu cực về mặt đạo đức như lối sống thực dụng, buông thả, không quan tâm đến trách nhiệm của bản thân với gia đình và xã hội… Trước tình hình đó, tác giả khẳng định “cùng với việc 13 “luyện tài” cho sinh viên thì “rèn đức” là vô cùng quan trọng” [12; 124] để sinh viên trở thành những người chủ tương lai thực sự của đất nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, sinh viên. Trong Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2010 - 2015), khi bàn về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, Đảng ta cũng nhấn mạnh: “… nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. [39; 216]. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng khẳng định “làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức, lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ” [31; 242, 243]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, quan điểm này một lần nữa được khẳng định trong “Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020” là “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân” [32; 296]. Điều này đã chứng tỏ rằng việc giáo dục đạo đức, nghĩa vụ đạo đức, trách nhiệm xã hội cho thế hệ trẻ nói chung và đội ngũ sinh viên nói riêng là công tác mang tính quốc gia và đặc biệt được coi trọng. Trong sách Sinh viên Việt Nam làm theo lời Bác thi đua học tập, rèn luyện, sáng tạo, tình nguyện vì ngày mai lập nghiệp, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh do Trung ương Hội sinh viên (biên soạn 2014) đã tổng hợp toàn bộ các bài phát biểu, báo cáo diễn ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam lần thứ IX. Đại hội đã nêu lên mục tiêu, phương hướng công tác Hội và phong trào sinh viên trong giai đoạn 2013 - 2018. Mục tiêu được đặt lên hàng đầu chính là “xây dựng lớp sinh viên thời kỳ mới có lý tưởng cao đẹp, đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh, luôn đi đầu trong học tập, 14 nghiên cứu khoa học, nắm bắt công nghệ mới; có kiến thức chuyên môn, lịch sử, xã hội phong phú; hiểu biết, tôn trọng và chấp hành pháp luật” [127; 44, 45]. Như vậy, đạo đức không chỉ là yếu tố song hành cùng tri thức mà nó còn là yếu tố được xem trọng hơn, giữ vai trò nền tảng trong cấu trúc nhân cách. Nhiệm vụ của Hội sinh viên Việt Nam chính là làm cho sinh viên nhận thức được về các giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội và thực hiện đúng theo những chuẩn mực đó cũng chính là thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu về đạo đức đã khẳng định giáo dục đạo đức cho sinh viên có vai trò rất quan trọng. Tác giả PGS. TS Lương Gia Ban và PGS. TS Nguyễn Thế Kiệt (2013) đã đưa ra những luận giải thuyết phục về tầm quan trọng và nội dung giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong sách Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Các tác giả đã phân tích sáu lý do khẳng định giáo dục đạo đức mới cho sinh viên là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt mang tầm chiến lược ở nước ta hiện nay là: góp phần xây dựng nhân cách sinh viên phát triển toàn diện; góp phần hoàn thiện con người nói chung và sinh viên nói riêng; góp phần xây dựng hài hòa đời sống vật chất và tinh thần; hướng sinh viên đến các giá trị nhân văn, nhân đạo; tạo ra cơ chế “phòng ngừa”, “miễn dịch” cho xã hội; xuất phát từ chính yêu cầu, nhiệm vụ của bản thân sinh viên. Tuy không trực tiếp bàn đến phạm trù nghĩa vụ đạo đức nhưng thông qua nội dung giáo dục đạo đức mới, các tác giả đã xác định nghĩa vụ đạo đức của sinh viên là “nối tiếp sự nghiệp của lớp người đi trước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh” [6; 68]. Những phân tích sâu sắc của các tác giả là nguồn tài liệu hữu ích cho nghiên cứu sinh trong việc triển khai nội dung nghiên cứu của luận án. Bàn đến tầm quan trọng của việc giáo dục cho sinh viên thực hiện nghĩa vụ đạo đức, sách Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên (PGS, TS Trần Hậu Kiêm - TS Đoàn Đức Hiếu (2004), Nxb Chính trị quốc gia Hà 15 Nội) đã chỉ ra “sinh viên là những người chủ tương lai của đất nước, họ sẽ là người kế thừa và làm phong phú thêm nội dung đạo đức mới xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển xã hội bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [69; 106]. Tác giả đã trích dẫn quan điểm Mác - Lênin về vai trò của đạo đức trong công tác tổ chức và xây dựng chủ nghĩa cộng sản, đồng thời đưa ra quan điểm của Hồ Chí Minh cho rằng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những con người có đạo đức cách mạng. Việc giáo dục đạo đức cách mạng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng là rất cần thiết cho tất cả mọi công dân Việt Nam. Trong đó, giáo dục cho thanh niên, sinh viên trách nhiệm thực hiện các chuẩn mực đạo đức là một bộ phận rất quan trọng để hướng đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy không bàn trực tiếp đến đối tượng sinh viên, song thông qua đối tượng thanh niên, sách Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp GS.VS. Nguyễn Duy Quý (2006), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội) đã chỉ ra việc giáo dục cho thanh niên thực hiện nghĩa vụ đạo đức là rất cần thiết trong bối cảnh của nước ta sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Tác giả khẳng định đại đa số đoàn viên, thanh niên có ý thức chính trị - xã hội tốt nhưng bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ thanh niên bộc lộ những hạn chế, yếu kém như giảm sút ý chí, mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, ca ngợi phương Tây quá mức, chạy theo lối sống vật chất, chỉ ham hưởng thụ… Những hạn chế này đã tạo ra điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch, phần tử xấu dụ dỗ, kích động thanh niên chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, việc giáo dục thực hiện các chuẩn mực đạo đức, định hướng lối sống cho thanh niên là công việc rất quan trọng để mỗi thanh niên có quan điểm sống, thái độ chính trị; định hướng giá trị; xác định mối quan hệ với tập thể; lựa chọn hành vi, thái độ tích cực với các hoạt động trong đời sống thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX03.16/06-10 “Thực trạng và xu hướng biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế” đã được xuất bản dưới nhan đề Thanh niên và lối sống 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan