Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn huyện đông anh ...

Tài liệu Giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn huyện đông anh hiện nay

.PDF
120
643
93

Mô tả:

Đại học quốc gia Hà Nội trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Nguyễn Đức Bình Giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh hiện nay Luận văn thạc sĩ Triết học Hà Nội - 2006 119 Đại học quốc gia Hà Nội trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Nguyễn Đức Bình Giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh hiện nay Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60.22.80 Luận văn Thạc sĩ Triết học Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Quang Thọ Hà Nội - 2006 120 Mục lục Mở đầu ............................................................................................................. 3 Chương 1. Nhân cách và vai trò của giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện nay ............................................ 7 1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện nay ....................................................................................................... 7 1.2. Giáo dục nhân cách học sinh trung học phổ thông - vai trò, nội dung, phương thức giáo dục nhân cách trong điều kiện hiện nay ........ 33 Chương 2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra của việc giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông Đông Anh hiện nay ........................... 46 2.1. Khái lược về tình hình kinh tế, văn hóa xã hội huyện Đông Anh. ...... 46 2.2.Thực trạng giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông ở Đông Anh hiện nay ............................................................................ 51 2.3. Những vấn đề đặt ra. ......................................................................... 72 Chương 3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông ở Đông Anh hiện nay ....... 80 3.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và chính quyền các cấp đối với việc giáo dục nhân cách ..................................................................... 80 3.2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi người về việc giáo dục nhân cách cho học sinh trong điều kiện hiện nay ................................ 83 3.3. Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục nhân cách theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực và năng lực thực hành của học sinh . 88 3.4. Tăng cường sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lý, giáo dục học sinh ......................................................... 92 3.5. Tạo môi trường tích cực đối với giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông ........................................................................... 97 Kết luận....................................................................................................... 109 Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................ 111 1 Bảng quy ước chữ viết tắt trong luận văn BCHTƯ : Ban chấp hành Trung ương CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNH : Công nghiệp hoá GDCD : Giáo dục công dân HĐH : Hiện đại hoá KHKT : Khoa học kỹ thuật THPT : Trung học phổ thông THCS : Trung học cơ sở TNCS : Thanh niên Cộng sản UBND : Uỷ ban nhân dân 2 Mở đầu 1. Lí do chọn đề tài Kể từ khi chúng ta tiến hành đổi mới, Đảng ta luôn coi “con người và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Do đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã xác định “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lí tưởng XHCN, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn” là phẩm chất của thế hệ trẻ ngày nay. Trong thành tựu chung của công cuộc đổi mới, chúng ta vui mừng thấy có sự đóng góp to lớn của nền giáo dục nước nhà. Phần lớn thanh niên năng động phấn đấu vươn lên, vượt qua thử thách, đua tranh, tự chịu trách nhiệm với bản thân, lao vào học tập rèn luyện lập nghiệp. Tuy nhiên cũng từ khi chúng ta thực hiện nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì trật tự giá trị trong phần lớn nhân dân bị thay đổi, đặc biệt là thế hệ trẻ, như Nghị quyết TƯ2 khoá VIII đã nhận định: Một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, có lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp, có lối sống thụ động trông chờ. Qua thực tế cho thấy lối sống của học sinh hiện nay đang có xu hướng coi nặng các giá trị vật chất, kinh tế, coi nhẹ các giá trị tinh thần xã hội, con người sẵn sàng hy sinh chuyển sang con người hướng vào lợi ích cá nhân. Thực trạng trên, trách nhiệm một phần thuộc về ngành giáo dục - đào tạo. Chúng ta phải thừa nhận rằng trong những năm qua nền giáo dục nước ta có phần thiên về “dạy chữ”, ít chú ý đến “dạy người”, hoặc phương thức “dạy người” chủ yếu nặng về lí thuyết truyền đạt, bắt học sinh phải theo một “mẫu” có sẵn, mà chưa chú ý đến các phương thức giáo dục tích cực chủ động nhằm tạo nên động cơ, mục đích bên trong từ đó phát huy quá trình 3 hình thành nhân cách một cách tự giác trong học sinh. Trong khi đó chúng ta biết rằng 3 mục tiêu: Dân trí, nhân lực, nhân tài của giáo dục - đào tạo chỉ có thể đạt được trên một cơ sở chung là nhân cách. Chính vì thế mà giáo dục nhân cách cho học sinh, đặc biệt là học sinh THPT - đối tượng chuẩn bị trở thành chủ thể của xã hội - là vấn đề mang tính cấp thiết hơn lúc nào hết. Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội, là địa phương mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ. Những giá trị nhân cách, nhất là học sinh THPT ở Đông Anh cũng ngày càng bị thay đổi theo sự biến đổi của xã hội. Chính vì vậy nhằm định hướng cho nhân cách của các em như mong muốn thì việc giáo dục nhân cách và định hướng những giải pháp giáo dục cho học sinh THPT ở đây càng trở thành vấn đề cấp thiết. Xét tình hình thực tế ở Đông Anh và với cương vị của một nhà giáo cho nên tôi đã chọn đề tài “Giáo dục nhân cách cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Đông Anh hiện nay” mong được góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển con người và nguồn nhân lực địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu Nhân cách là những phẩm chất xã hội của một con người cụ thể, nó được hình thành và phát triển dưới tác động chủ yếu của các yếu tố xã hội. Cho nên khi cuộc sống của con người bị thay đổi thì các thang giá trị của nhân cách cũng thay đổi theo. Kể từ khi chúng ta bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì nó cũng kéo theo những sự thay đổi nhất định về nhân cách con người Việt Nam nói chung và nhân cách thế hệ trẻ nói riêng. Chính vì vậy, trong những năm gần đây rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Đề tài “Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Anh lại nghiên cứu về xây dựng nhân cách của sinh viên trong điều kiện hiện nay. Đề tài “Kinh tế thị trường với sự hình thành và phát triển nhân cách người thầy giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Như Thơ 4 lại nghiên cứu về nhân cách người thầy giáo trong điều kiện kinh tế thị trường. Còn về vấn đề giáo dục nhân cách học sinh THPT trong điều kiện hiện nay, nhất lại ở trên phạm vi của một địa phương có độ đô thị hoá và công nghiệp hoá cao (như Đông Anh) thì chưa có một đề tài nào nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn - Làm rõ những yêu cầu cơ bản đối với nhân cách học sinh THPT hiện nay và vai trò của việc giáo dục nhân cách cho học sinh trong điều kiện kinh tế thị trường. - Trên cơ sở làm rõ thực trạng giáo dục nhân cách cho học sinh hiện nay, từ đó luận văn đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách cho học sinh trong điều kiện hiện nay. * Nhiệm vụ của luận văn - Nghiên cứu làm rõ khái niệm nhân cách và vai trò của việc giáo dục nhân cách cho học sinh THPT trong điều kiện hiện nay. - Nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân của việc giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh hiện nay. - Nghiên cứu đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn này được nghiên cứu trên tình hình thực tế học sinh của các trường Phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh - Hà Nội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục. 5 - Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử với phương pháp điều tra xã hội học, thống kê và phân tích, đánh giá. 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ những yêu cầu đối và vai trò của việc giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh trong điều kiện hiện nay. - Đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiện quả giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh trong điều kiện hiện nay. Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, ứng dụng vào công tác giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở huyện Đông Anh cũng như ở địa phương khác. 7. Kết cấu luận văn Luận văn này ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, được chia thành 3 chương, 10 tiết. 6 Chương 1 Nhân cách và vai trò của giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện nay 1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện nay 1.1.1. Nhân cách và những yêu cầu đối với nhân cách học sinh trong điều kiện hiện nay 1.1.1.1. Khái niệm nhân cách Cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội, con người luôn là vấn đề trung tâm và trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học. Cũng như mọi công trình nghiên cứu, khi nghiên cứu con người cần phải có hệ thống các khái niệm công cụ, trong đó khái niệm nhân cách được coi là khái niệm trung tâm và cơ bản nhất. Khái niệm nhân cách đầu tiên được hai nhà tâm lý học người Đức là Dolthey và Spranger nêu ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Theo các ông: Nhân cách là các mặt nạ có tính chất xã hội che “Cái tôi" bên trong khi nào các mặt nạ đó trùng với "Cái tôi" bên trong thì nhân cách phát triển đến độ chín muồi. Cho đến nay, khái niệm nhân cách đã được đề cấp đến ở rất nhiều góc độ khác nhau. Có quan điểm cho bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật, hay nói cách khác là sinh vật hoá bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản năng tình dục (S.Freud), là đặc điểm của hình thể (Krestchmer), siêu đẳng, bù trừ (A.Adler) vô thức tập thể (Kaal Jung), là các kiểu hoạt động thần kinh cao cấp của người (một số nhà tâm lý học quá sùng bái học thuyết Pavlov). Thực chất của các quan điểm trên dù hình thức biểu hiện ở mỗi người có 7 khác nhau nhưng đều sinh vật hoá bản chất nhân cách, đều mang quan điểm duy tâm siêu hình. Có quan điểm cho rằng bản chất nhân cách là nhân tính con người (trường phái nhân văn và đại diện là: C.Rogers, R.May, A.Maslow, G. Allport, Ch.Buhlerova, J.Bugental, A.Sutich, C.Moustakas...). Những người ở trường phái này đều quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của con người, đến những đặc tính riêng của mỗi người, những kinh nghiệm của con người. A.Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng con người. Những nhu cầu như giao tiếp, tình yêu, lòng kính trọng đều có tính chất bản năng, đặc trưng cho giống người. Nhân cách là động cơ tự động điều hành (G. Allport), là nhu cầu (A.Muarray), là tương tác xã hội (G.H.Mead), là lo lắng (K.Hornej). Những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh vật của con người, phủ nhận bản chất xã hội của nhân cách, do đó cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Có quan điểm cho rằng nhân cách được hiểu như là toàn bộ mối quan hệ xã hội của cá nhân (Lucien Seve, Zeigarnite, Ogorodnikov). Trong thực tế của đời sống, một số người lấy quan hệ xã hội của cá nhân (gia đình, nhà trường, cơ quan công tác, nghề nghiệp, bạn bè) làm chuẩn để đánh giá nhân cách. Về thực chất của quan điểm này là xã hội hoá nhân cách một cách đơn giản. Nhân cách cũng được hiểu đồng nghĩa với khái niệm con người. Như K.K. Platonov cho rằng nhân cách là con người có ý thức, nhân cách là con người có lý trí, có ngôn ngữ, lao động (Từ điển Giáo dục, Đại bách khoa toàn thư Liên Xô). Loại quan điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất của con người mà không chú ý đến cái đặc thù, cái riêng của nhân cách. Có quan điểm cho rằng nhân cách được hiểu như cá nhân con người với tư cách là chủ thể của mỗi quan hệ hoạt động có ý thức. (A.G.KAvalev, I.X.Kon, từ điển tâm lý học Liên Xô). Hiện nay quan điểm này được đa số 8 các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá nhân, là cá thể so với tập thể và xã hội. Nhân cách cũng được hiểu như là các thuộc tính nào đó tạo nên bản chất nhân cách như các thuộc tính ổn định, các thuộc tính sinh vật hoặc thuộc tính xã hội. P.Bueva cho rằng nhân cách là con người với toàn bộ những phẩm chất con xã hội của nó. Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và những quy luật cá nhân (H.Hipso và M.Phor vec), là tổng số những đặc điểm cá nhân con người mà không người nào có (E.P.Hollander). Nhân cách được hiểu như cấu trúc hệ thống tâm lý của cá nhân. Trong hàng chục năm lại đây, nhiều nhà tâm lý học đều có xu hướng hiểu nhân cách là cấu trúc, hệ thống tâm lý (A.N.Leonchiev, K.Obuchowxki). Nhân cách là cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mối quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó (A.N. Leonchiev), với quan niệm bản chất nhân cách là một hệ thống tổ chức. K. Obuchokxki định nghĩa nhân cách như sau: “Nhân cách là sự tổ chức những thuộc tính tâm lý của con người có tính chất lịch sử xã hội, ý nghĩa của nó cho phép và giải thích và dự đoán hành động cơ bản của con người”. Mặc dù có những điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách (thành phần cấu trúc, sự phối hợp, các thành phần đó, thứ bậc của thành phần, v.v...), nhưng nói chung có nhược điểm là quy nhân cách về tâm lý học, là biểu hiện của chủ nghĩa duy vật y học trong quan niệm nhân cách mà Lucien Seve đã phê phán. ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt nhân cách được hiểu là những phẩm chất con người. Tuy nhiên, trên thực tế cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây: - Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực, hoặc là con người có phẩm chất: đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động). - Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người. 9 - Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động. - Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người. Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người (ít nói đến cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm chất đòi hỏi ở mỗi người phải có. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề nhân cách càng nổi lên với những công trình nghiên cứu đồ sộ. Có thể nói, không một lĩnh vực khoa học nào có đủ khả năng và điều kiện để nghiên cứu nhân cách một cách độc lập và biệt lập. Trong số hàng trăm định nghĩa về nhân cách khó có thể tìm được một định nghĩa có tính phổ quát nói lên được hoàn toàn đầy đủ các tố chất hợp thành khái niệm nhân cách. Mỗi ngành khoa học: Tâm lý học, Xã hội học, Đạo đức học, Luật học, Văn hoá học... đều đã chọn một mặt, một phương diện nào đó của nhân cách và lấy đó làm đối tượng phân tích khoa học của mình. Điều này lý giải tại sao lại có nhiều định nghĩa nhân cách và vì sao có những sự khác nhau nhất định giữa các quan niệm ấy. Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng các quan điểm về nhân cách của các nhà khoa học được chia làm hai khuynh hướng: - Một là: Coi nhân cách là đặc trưng, chức năng, vai trò vị trí của con người trong xã hội. - Hai là: Coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người [13, tr.11]. Khi bàn về con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt chú ý đến bản chất xã hội của con người, lý giải các mối quan hệ xã hội tham gia vào sự hình thành bản chất ấycũng như vai trò của thực tiễn và hoạt động thực tiễn đối với sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân 10 cách. Mác đã đưa ra nhận xét bản chất của con ngườilà phẩm chất xã hội của con người. Như vậy, con người là một thực thể sinh học xã hội mang bản chất xã hội, còn nhân cách phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, phản ánh mức độ cá thể hóa, tính độc đáo trong mỗi cá nhân con người. Nhân cách là sự thống nhất biện chứng giữ yếu tố xã hội và cá nhân trong mỗi con người. Sự thống nhất này tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Triết học Mác-Lênin xem nhân cách là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử cụ thể. Nó tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò chủ thể của nhận thức và sự phát triển xã hội [4, tr.33]. Hay nói cách khác nhân cách là con người cụ thể đã định hình và phát triển về mặt xã hội và trở thành chủ thể của xã hội. Như vậy nói đến nhân cách trước hết là nói đến nhân cách của một con người hiện thực, gắn liền với bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nó là kết quả của hoạt động người trong quá trình họ tiếp nhận sự giáo dục của xã hội và quá trình tự giáo dục của bản thân. Quá trình này không chỉ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự phát triển nhân cách mà còn là phương diện chủ yếu để tạo ra diện mạo nhân cách của con người. ở đây các yếu tố sinh vật di truyền, tâm sinh lý, xã hội hòa quyện vào nhau. Đối với sự phát triển nhân cách, yếu tố di truyền và tâm sinh lý là cơ sở sinh vật, là điều kiện tự nhiên mà trên cơ sở đó hình thành những đặc điểm lịch sử - xã hội của con người. Mặt khác, nhân cách là nhân cách của từng cá nhân cụ thể có quan hệ mật thiết với điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh. Mỗi cá nhân mang nhân cách này vừa có khả năng tự đánh giá của bản thân vừa có khả năng đánh giá hành vi của cá nhân mang nhân cách khác. Quá trình tự đánh giá và được đánh giá đó là quá trình cá nhân thực hiện những hành vi cho mình và cho người khác theo yêu cầu chung của nhân cách xã hội. Nói cách khác, 11 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi nhân cách là phẩm chất bên trong của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của xã hội và của bản thân cá nhân để cá nhân đó tồn tại và làm tròn trách nhiệm của mình với bản thân và với xã hội. Do đó nhân cách bị chi phối bởi nhân cách xã hội, phản ánh nhân cách xã hội, đồng thời nhân cách xã hội tìm thấy mình qua những hình ảnh, diện mạo riêng rất đa dạng của mỗi nhân cách cá nhân. Nghiên cứu khái niệm nhân cách nhằm xây dựng một nhân cách của con người Việt Nam hài hoà thì không thể không nghiên cứu cấu trúc nhân cách. Cấu trúc nhân cách là sự xắp xếp các tính chất, thành phần, thuộc tính của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Hiện nay đang tồn tại những quan niệm khác nhau về cấu trúc nhân cách. Học thuyết phân tâm của S. Freud cho rằng con người được tạo ra bởi ba khối: Vô thức, tiền ý thức và ý thức. Tương ứng với ba khối này cấu trúc nhân cách có ba phần: Nó (Freud gọi là Id); Tôi (Freud gọi là Ego) và siêu tôi (Freud gọi là super Ego). Id là nơi chức năng lượng tâm thần, khát vọng, bản năng, hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm, nghĩa là yêu cầu được thoả mãn ngay tức khắc những khát vọng bản năng. Ego được hình thành do áp lực của thực tại bên ngoài tới toà bộ khối bản năng, hoạt động theo nguyên tắc của nhu cầu thực tại, nghĩa là con người phải dùng một năng lượng đáng kể để kiềm chế và kiểm soát những phi lí của Id. Super Ego được hình thành do kết quả của giáo dục và văn hoá, hoạt động theo nguyên tắc phê phán và kiểm duyệt. Nhân cách sẽ phát triển bình thường nếu ba khối này ở trạng thái cân bằng tương đối. Sự xung đột, mâu thuẫn giữa ba khối này chính là cơ chế hoạt động tinh thần của con người. Phái "Lý luận hai thành phần trong sự phát triển tâm lý" cho rằng cấu trúc nhân cách gồm hai cấu trúc nhỏ: nội tâm lý và ngoại tâm lý: Nội tâm lý 12 bao gồm các yếu tố sinh vật của nhân cách, còn ngoại tâm lý bao gồm tất cả các nội dung xã hội của nhân cách. Những quan niệm trên hoặc đã tuyệt đối hoá mặt bản năng sinh vật của con người (Freud), hoặc đã phân chia một cách siêu hình hai thành phần xã hội và sinh vật của con người (Phía hai thành phần). Khắc phục những sai lầm đó, các nhà khoa học mác xít đã xác lập cấu trúc nhân cách trên cơ sở cuộc sống thực và hoạt động thực của con người. Nhà tâm lý học (Liên xô cũ) A. G. Côvaliốp cho rằng nhân cách gồm bốn thuộc tính: xu hướng, khí chất, tính cách, năng lực. Theo J. Stêpphannôvic (Tiệp khắc) cấu trúc nhân cách gồm 5 thành phần: Đặc điểm tích cực - động cơ của nhân cách thể hiện tính xu hướng của nhân cách; đặc điểm lập trường - quan hệ của nhân cách thể hiện giá trị của nhân cách: đặc điểm hành động của nhân cách thể hiện khả năng hoạt động của nhân cách; đặc điểm tự điều chỉnh của nhân cách thể hiện khả năng tự điều chỉnh, kiểm tra, đánh giá, phê bình của nhân cách; đặc điểm về động thái của nhân cách thể hiện ở khí chất của nhân cách... ở Việt Nam, khi nói đến nhân cách người ta thường nói đến hai thành phần cơ bản: Đức và Tài hay phẩm chất và năng lực. Phẩm chất là yếu tố nền tảng có ý nghĩa định hướng, định vị cho mỗi người và là một trong những điều kiện chủ quan để phát triển và sử dụng tốt năng lực. Còn năng lực là yếu tố quan trọng, yếu tố hữu dụng đối với xã hội, thể hiện tính tích cực của xã hội của mỗi cá nhân. Tuỳ sở trường mà năng lực được thể hiện ở mặt này hay mặt khác. Đối với toàn xã hội mà nói, năng lực trí tuệ là quan trọng nhất. Năng lực trí tuệ được thể hiện ở trình độ học vấn, trình độ tư duy, khả năng suy nghĩ và hành động hợp lý, khả năng thích nghi với những biến đổi của hoàn cảnh. Nếu nhìn từ gốc độ kinh tế, năng lực trí tuệ được coi là nguồn tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về nhân cách cũng đã nêu ra cấu trúc nhân cách người cán bộ gồm 13 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi hai khối: Đức và tài. Người luôn coi trọng yếu tố "đức", thường đặt "đức" trước "tài", "hồng" trước " chuyên": "Phải có chính trị trước rồi mới có chuyên môn, chính trị là đạo đức, chuyên môn là tài, có tài mà không có đức là hỏng"... [26, tr.188] coi trọng đạo đức, lấy đạo đức cách mạng làm gốc, song chưa bao giờ người xem nhẹ tài năng. Một người cách mạng chân chính phải có cả đức lẫn tài, phẩm chất cách mạng và năng lực công tác, đó là hai mặt không thể tách rời hoà quyện vào nhau trong nhân cách người cán bộ. Biện chứng giữa đức và tài, phẩm chất và năng lực được thể hiện rất rõ trong luận điểm sau của chủ tịch Hồ Chí Minh "Có tài mà không có đức ví như anh làm kinh tế tài chính rất giỏi lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đưc mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng không cũng không lợi gì cho loài người" [25, tr.74]. Trong những phân tích dưới đây của luận văn, chúng tôi sử dụng quan niệm coi nhân cách bao gồm phẩm chất và năng lực, quan niệm cấu trúc nhân cách như vậy gần gũi với những quan niệm truyền thống của người Việt Nam và cũng phù hợp với định nghĩa triết học về nhân cách mà chúng tôi sử dụng ở phần trên. 1.1.1.2. Những yêu cầu đối với nhân cách học sinh trung học phổ thông Với quan niệm như vậy, qua nhiều năm làm công tác giáo dục tôi nhận thấy học sinh trung học phổ thông hiện nay nói chung phải có nhưng yêu cầu sau: Thứ nhất: Có lí tưởng, có hoài bão và đạo đức trong sáng: Lí tưởng là mục tiêu cuộc sống được phản ánh vào đầu óc con người dưới hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi kéo mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống cá nhân, chỉ đạo sự tu dưỡng và hành động của cá nhân trong một thời gian dài. Như vậy lí tưởng của thanh niên, học sinh có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của họ. Nếu xác định lí tưởng đúng đắn thì học sinh sẽ có sự tu dưỡng và hành động phù hợp với nhu cầu lợi ích 14 của xã hội và trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngược lại, nếu lí tưởng lệch lạc thì các em sẽ có cuộc sống buông thả, thiếu sự rèn luyện và hành động vì lợi ích cá nhân dẫn đến ích kỷ, hẹp hòi. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa chúng ta phủ nhận lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân phải được kết hợp hài hoà trong lợi ích tập thể. Thực tế cho thấy hiện nay bên cạnh sự hi sinh, phấn đấu và cống hiện cho lợi ích cộng đồng thanh niên rất quan tâm đến lợi ích của gia đình mình. Do đó lí tưởng của thanh niên học sinh hiện nay có nội dung là kết hợp hài hoà giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân. Trong sự nghiệp đổi mới việc xây dựng niềm tin lí tưởng trong thanh niên nói chung và trong học sinh nói riêng là rất quan trọng. Bởi vì niềm tin có quan hệ trực tiếp với hành động hàng ngày của con người, nó hướng dẫn, thôi thúc nhân cách trong hoạt động thực tiễn, củng cố được niềm tin lí tưởng trong các em sẽ làm cho các em cống hiến hết sức mình vào sự nghiệp đổi mới và nó thể hiện cụ thể bằng thái độ tích cực học tập và rèn luyện của các em. Do đó lí tưởng là một yêu cầu không thể thiếu của nhân cách học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Hiện nay, thanh niên học sinh đang đứng trước những nhiệm vụ to lớn và đầy vinh quang là cùng nhân dân cả nước tiến hành công cuộc đổi mới nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Do đó thanh niên học sinh phải có hoài bão và đạo đức cách mạng. - Có hoài bão là tính cách điển hình của thanh niên học sinh. Trong cảnh đất nước bị xâm lăng, các thế hệ thanh niên học sinh đã mang hoài bão lớn “ Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu” sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân để góp phần giải phóng đất nước. Thanh niên ngày nay lại ra sức “Rèn đức, luyện tài - ngày mai lập nghiệp” họ đã biết gắn liền sự phấn đấu vì cuộc sống tốt đẹp hơn của bản thân và gia đình với ý chí mãnh liệt: xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. 15 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Mặt khác, thế giới ngày nay đang chứng kiến những tiến bộ vĩ đại của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Vì vậy, để thực hiện được hoài bão trên các em phải có trí tuệ, có chí nâng cao trí tuệ về mọi mặt thì các em mới có khả năng đáp ứng yêu cầu của đất nước và của thời đại. Một đòi hỏi nữa đối với nhân cách của học sinh trung học phổ thông hiện nay là phải không ngừng rèn luyện đạo đức. Đạo đức phải được thể hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày phải hiếu thảo đối với cha mẹ, kính già yêu trẻ tôn trọng thầy cô, bạn bè... ở xã hội nào cũng vậy, con người phải có đạo đức đó là cái gốc của nhân cách con người. Khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tốt, những mặt tích cực cũng có những biểu hiện suy đồi đạo đức và những mặt tiêu cực. Do đó việc rèn luyện đạo đức, bảo tồn những giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc, chống những biểu hiện suy đồi trong lối sống, đạo đức là một đòi hỏi bức thiết đặc biệt là đối với thanh niên học sinh. Thứ hai: Có ý thức tự lập, chủ động, sáng tạo trong học tập và cuộc sống Học sinh trung học phổ thông là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. ở tuổi ấu thơ các em được sống trong sự đùm bọc, che chở của gia đình, sự chăm sóc của xã hội. Khi trưởng thành bước vào cuộc sống các em dần thoát li khỏi sự bao cấp của gia đình, phải tự khẳng định mình trong cuộc sống ngày càng đa dạng và phức tạp. Do đó, hình thành và phát triển tính tự lập cho các em là một đòi hỏi khách quan nhằm chuẩn bị cho các em tự tin bước vào cuộc sống. Sự tự lập trong cuộc sống là một đặc điểm mới trong nhân cách của học sinh trung học phổ thông mặc dù, ngay từ khi còn nhỏ con người luôn có xu hướng tự khẳng định mình trong mọi hoạt động. Nhưng khi bước chân vào nhà trường trung học phổ thông các em có hoạt động mới, địa vị mới trong tập thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh. Những hoàn cảnh này buộc các em phải ý thực được đặc điểm nhân cách của mình. Các em phấn đấu để khẳng định mình trong đời sống tập thể. 16 Quá trình hình thành tính tự lập trong các em là quá trình lâu dài và phức tạp. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tại như thời niên thiếu mà các em còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội trong tập thể, nó thể hiện rất rõ ở tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng ý thức trong cộng đồng... Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng phát huy tính tự lập trong mọi hoạt động của các em nếu thiếu sự quản lý giáo dục của gia đình, nhà trường thì hậu quả rất khó lường. Do đó việc giáo dục, định hướng cho các em là rất quan trọng. Thứ ba: Có tinh thần trách nhiệm, có ý thức vươn lên trong học tập và trong cuộc sống. Tinh thần trách nhiệm và ý chí vươn lên trong cuộc sống là một trong những đặc điểm không thể thiếu của nhân cách con người thời kỳ công nghiệp hoá - nói chung và của học sinh trung học phổ thông nói riêng. Như chúng ta đã biết trong cuộc sống con người luôn vươn tới sự tự do. Nhưng từng con người không thể đạt được điều đó nếu họ đứng riêng biệt không trong xã hội. Tự do cá nhân không thể phù hợp nhân tính kỷ luật, nghĩa vụ công dân, sự tôn trọng người khác. Chủ nghĩa Mác - Lênin xem quyền và trách nhiệm công dân trong sự thống nhất với nhau. Trách nhiệm thường được hiểu là năng lực của con người, ý thức được và thấy trước được những kết quả hoạt động của mình, xác định đến lợi ích hoặc tác hại do hoạt động đó có thể đem lại cho xã hội [40, tr.52]. Như vậy trách nhiệm có thể tồn tại ngay khi cá nhân tiên đoán một cách đúng đắn kết quả hoạt động của mình và có những khi kết quả đó trái với dự tính. Trách nhiệm là quyền và nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội và ngược lại xã hội đối với cá nhân. Trách nhiệm đó bao gồm việc từng cá nhân ý thức được hành động của mình đối với chính mình, đối với mọi người và đối với xã hội. 17 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Trách nhiệm khác với nghĩa vụ, nghĩa vụ của mỗi người biểu hiện ở việc ý thức được và thể hiện các yêu cầu của xã hội, còn trách nhiệm biểu hiện ở chỗ các yêu cầu đó được hoàn thành và không hoàn thành tới mức nào. Trách nhiệm của mỗi người có nội dung khách quan và nội dung này do tính tất yếu lịch sử quy định. Việc ý thức được tính tất yếu lịch sử cho phép nhân cách quyết định, lựa chọn các hành vi của mình một cách có trách nhiệm hơn. Việc con người ý thức được tính tất yếu phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích và nhu cầu của mình với lợi ích và nhu cầu người khác, của toàn xã hội cho phép họ biểu hiện ý thức trách nhiệm cao hơn đối với bản thân, đối với người khác và đối với xã hội. Khi chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường, con người được giải phóng mọi năng lực cá nhân, lợi ích của con người được bảo đảm. Do đó nếu thiếu tinh thần, trách nhiệm hoặc hiểu không đúng về tinh thần trách nhiệm thì sẽ trở nên nhỏ nhen, ích kỷ, thậm chí đôi khi xung đột mâu thuẫn vì lợi ích của tập thể hoặc toàn xã hội. Trong xã hội công nghiệp, nền sản xuất với trình độ chuyên môn hoá cao thì càng đòi hỏi phải có ý thức trách nhiệm cao, có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Thực tế thế hệ trẻ nói riêng và học sinh trung học phổ thông hiện nay đang rất mơ hồ về trách nhiệm, thậm chí còn thiếu trách nhiệm trước những yêu cầu của xã hội. Qua điều tra hơn 2000 học sinh ở trường Trung học phổ thông Vân Nội về ý thức trách nhiệm của các em cho thấy đến 98% số học sinh cho rằng học tập là vì bản thân, vì gia đình, 1,7% cho rằng học tập vì xã hội, còn lại là vì nguyên nhân khác. Khi được hỏi “Anh (chị) có quan tâm đến các chỉ tiêu đời sống xã hội không ?” 70% trả lời: không, 30% trả lời: ít quan tâm. Từ kết quả trên đây chứng tỏ học sinh trung học phổ thông rất ý thức trách nhiệm đối với xã hội, một bộ phận không có trách nhiệm đối với bản 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan