Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giáo dục về quyền con người ở tỉnh đắk lắk hiện nay ...

Tài liệu Giáo dục về quyền con người ở tỉnh đắk lắk hiện nay

.PDF
100
433
68

Mô tả:

BỘ NỘI VỤ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HOÀNG NGỌC LONG Giáo dục về quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK – NĂM 2016 2 HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHÂN VIỆN TÂY NGUYÊN ‫ھھھھھھھھھھ‬ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Đề tài: GIÁO DỤC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY Họ và tên học viên: Hoàng Ngọc Long Lớp: LH1 – TN2 Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính (60 38 01 02) Khóa: 2014-2016 Cơ sở đào tạo: Học viện Hành chính Quốc gia- Phân viện Tây nguyên Người hướng dẫn: PGS.TS. Lương Thanh Cường Đăk Lăk năm 2016 3 MỤC LỤC 1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................. 7 2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................ 8 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn .......................................... 9 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn ........................................... 9 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..................................................... 10 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 10 7. Kết cấu Luận văn ............................................................................................ 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI ............ 11 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI........................................................................................ 11 1.1.1. Khái niệm, tính chất và đặc điểm quyền con người ...................... 11 1.1.1.2. Tính chất của quyền con người ................................................... 14 1.1.1.3. Đặc điểm của quyền con người.................................................... 16 1.1.2.1. Khái niệm giáo dục quyền con người .......................................... 20 1.1.2.2. Mục đích của giáo dục quyền con người ..................................... 21 1.1.2.3. Vai trò của giáo dục quyền con người......................................... 24 1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI........... 28 1.2.1. Chủ thể giáo dục quyền con người................................................. 28 1.2.2. Khách thể, đối tượng giáo dục quyền con người ........................... 29 1.2.3. Hình thức giáo dục quyền con người ............................................. 33 1.2.4. Nội dung giáo dục quyền con người ............................................... 35 1.2.5. Phương pháp giáo dục quyền con người........................................ 38 1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI. 43 1.3.1. Ý thức pháp luật của mỗi người dân.............................................. 43 1.3.2. Hệ thống thể chế cầm quyền........................................................... 44 1.3.3.Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội................................... 45 4 1.4. CÁC BẢO ĐẢM GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI................................45 1.4.1. Bảo đảm về chính trị .......................................................................45 1.4.2. Bảo đảm về kinh tế..........................................................................47 1.4.3. Bảo đảm về xã hội và nhận thức xã hội..........................................47 1.4.4. Bảo đảm về pháp lý .........................................................................48 1.4.5. Bảo đảm về nguồn nhân lực và vật lực...........................................50 Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP GIÁO DỤC .........53 QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY .............................................53 2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK ...................................53 2.1.1. Điều kiện địa lý – tự nhiên và xã hội ..............................................53 2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế..............................................................54 2.1.3. Đặc điểm tình hình chính trị - xã hội..............................................58 2.1.4. Tình hình văn hóa – xã hội .............................................................60 2.2. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY......................................................................................................................62 2.2.1. Hoạt động giáo dục quyền con người trong trường học................62 2.2.2. Hoạt động giáo dục quyền con người bên ngoài trường học.........66 2.3. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG GIÁO DỤC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY. ............................70 2.3.1. Những thành tựu .............................................................................70 2.3.2. Những tồn tại...................................................................................74 2.3.3. Nguyên nhân rút ra từ thực tiễn giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk trong thời gian qua ......................................................................................78 2.4. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY .............................................79 2.4.1. Phương hướng chung ......................................................................79 2.4.2. Các giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay................................................................................................................82 2.4.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến về quyền con người ..................82 5 2.4.2.2. Lồng ghép nội dung giáo dục về quyền con người vào chương trình đào tạo ở tất cả các cấp giáo dục ................................................................... 86 2.4.2.3. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật Quốc tế về quyền con người....................................................................................................... 87 2.4.2.4. Tăng cường nhận thức của người dân về vấn đề giới, bình đẳng giới, chống lại các định kiến xã hội và phân biệt đối xử về giới, sắc tộc, tôn giáo 89 2.4.2.5. Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Đắk Lắk ...................................................................................................... 92 2.4.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác giáo dục quyền con người ....................................................................................................................... 93 2.4.2.7. Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu nghèo, bảo đảm nền tảng cho phát triển bền vững .............................. 94 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 97 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người, hay nhân quyền, là một giá trị cơ bản, quan trọng của nhân loại. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, là một đặc trưng của xã hội văn minh. Quyền con người cũng là một quy phạm pháp luật, đương nhiên nó đòi hỏi tất cả mọi thành viên của xã hội, không loại trừ bất cứ ai, đều có quyền và nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền và tự do của mọi người. Được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quyền con người đã trở thành một hệ thống các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia, và việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người đã trở thành thước đo về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, kể từ khi giành độc lập năm 1945, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và gần đây nhất là Hiến pháp 1992 sửa đổi ngày 28 tháng 11 năm 2013 tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XIII. Mặc dù quyền con người có ứng dụng và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội nhưng do một số nguyên nhân, hoạt động giáo dục về quyền con người ở nước ta còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn tới một số hệ quả tiêu cực đó là do thiếu kiến thức về quyền, người dân không biết tự bảo vệ các quyền của mình, đồng thời thiếu ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ công dân, dẫn đến sự vi phạm các quyền hợp pháp của người khác hoặc của cộng đồng. Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, việc giáo dục nhân quyền có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết vì nó thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu. Xuất phát từ những nhu cầu lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu đã đạt được và những khuyết điểm còn tồn tại của giáo dục nhân quyền; đồng thời xác định phương hướng hoàn thiện hóa giáo dục nhân quyền là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách cả trên bình diện quốc gia và ở từng địa phương. 7 Đắk Lắk là một tỉnh lớn ở vùng Tây Nguyên. Vấn đề giáo dục pháp luật nói chung, những năm qua đã được quan tâm phát triển bởi các cơ quan hữu quan. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục quyền con người còn là vấn đề mới, cần được nghiên cứu sâu sắc cả về lý luận cũng như thực tiễn để tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động này trong thời gian tới. Do vậy, tôi chọn đề tài “Giáo dục về quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề giáo dục pháp luật nói chung đã nhận được sự quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học. Từ năm 1995 tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau: + Công trình đã viết thành sách: Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995; Sống và làm việc theo pháp luật - Một số vấn đề giáo dục pháp luật cho thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội, 1997; Giáo dục quyền con người, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên,NXB Khoa học xã hội, 2011. + Các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp bộ: Tìm kiếm mô hình giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 2004... + Các luận án, luận văn: Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Dương Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Đinh Xuân Thảo, 1996; Giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Hữu Trí, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2001 và một số luận văn thạc sĩ luật học, luận văn cử nhân của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí 8 Minh, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở khác. Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng, hiện nay vẫn có rất ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục quyền con người, nhất là nghiên cứu ở bình diện một địa phương như tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình, tài liệu khoa học trên và các tài liệu khác có liên quan về giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng của vấn đề quyền con người, giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay, để xác định được phương hướng, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ: - Tìm hiểu những khái niệm, tính chất và đặc điểm của quyền con người; - Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục quyền con người; - Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay; - Từ thực trạng đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giáo dục quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người và giáo dục về quyền con người, trên cơ sở đó làm nền tảng để nghiên cứu vấn đề thực trạng hoạt động giáo dục quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk thời gian qua, nghiên cứu những giải pháp nâng cao việc hoàn thiện hoạt động này trong thời gian tới. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về đối tượng: Hoạt động giáo dục quyền con người của các chủ thể có thẩm quyền, trách nhiệm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; - Phạm vi về nội dung: Quyền con người nói chung. 9 - Phạm vi thời gian, không gian: Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; trong khoảng thời gian từ 2013 trở lại đây (2016). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với quyền con người, với giáo dục quyền con người ở nước ta. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giáo dục về quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay nhằm đề xuất, luận chứng một cách khoa học phương hướng, giải pháp tăng cường giáo dục về quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu tương đối có hệ thống về giáo dục quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay; trên cơ sở tính đặc thù của quyền con người và hoạt động giáo dục quyền con người, Luận văn đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk trong thời gian qua; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt vấn đề giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk. 7. Kết cấu Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục quyền con người Chương 2: Thực trạng và quan điểm, giải pháp giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI 1.1.1. Khái niệm, tính chất và đặc điểm quyền con người 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người Quyền con người, theo định nghĩa trong “Đại từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học, cũng chính là “nhân quyền” [56]. Cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng khó có thể tìm thấy một định nghĩa triết học “kinh điển” nào về quyền con người. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn như Lôccơ [John Locke (1632–1704)], Rútxô [Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778)]… và sau này Mác [Karl Heinrich Marx (1818 – 1883)], Engen [Friedrich Engels (1820 - 1895)], Lênin [Vladimir Ilyich Lenin (1870 – 1924)] cũng không đưa ra một định nghĩa nào về khái niệm này giống như cách làm thông thường đối với các khái niệm triết học khác. Nhìn lại quá khứ và hiện tại, quyền con người thường được nhìn nhận theo các khuynh hướng khác nhau, trong đó chủ yếu theo bốn khuynh hướng là: Tự nhiên, thực định, kinh tế và quan niệm. Thứ nhất: Khuynh hướng “quyền tự nhiên”: Những tư tưởng coi quyền con người là quyền “tự nhiên”, “trời phú” đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479-381 trước Công nguyên) đã cho rằng quyền bình đẳng tự nhiên của con người đó là “ý trời”. Theo đó, mỗi người đều có quyền tham gia công việc Nhà nước tuỳ theo đạo đức và tài năng của họ, chứ không phải do dòng dõi quyết định. Cũng như vậy, mỗi người đều có các quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội. Ở Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học cũng có những tư tưởng tương tự. Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi quyền con người như một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến, và để tập hợp lực lượng trong xã hội; do đó ngay từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã được giai cấp tư sản đề cập, tiêu biểu như trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ dựa trên Mười tu chính án do James Madison (1751 – 1836) đưa ra. Các tu chính án này hạn chế quyền lực của chính quyền liên 11 bang, bảo vệ quyền của tất cả công dân, những người sinh sống trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Trong các quyền được liệt kê mà các tu chính án này đảm bảo có: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo; quyền được mang vũ khí của người dân; quyền tự do hội họp; quyền tự do kiến nghị; quyền không bị lục soát và tịch thu vô lý; quyền không bị hình phạt tàn bạo và bất bình thường; quyền không bị tự buộc tội do bị ép buộc. Đạo luật Nhân quyền cũng hạn chế quyền của Quốc hội bằng cách cấm Quốc hội ban hành luật về thành lập tôn giáo và cấm chính quyền liên bang tước quyền sống, quyền tự do hay tài sản của bất kỳ người nào mà không thông qua tố tụng pháp luật. Trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, quyền con người là những quyền được bảo hộ “Quốc hội thừa nhận và tuyên bố, với sự chứng kiến và sự bảo hộ của đấng tối cao, các quyền sau đây của con người là của con người và của công dân” [23, tr.21]. Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp được tiếp tục thể hiện trong Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1958, với tư tưởng chủ đạo là “Hoạt động tự do của con người là một quyền tự nhiên, vì vậy, không cần phải liệt kê lại những quyền gì là được phép: tất cả những gì luật pháp không nghiêm cấm đều được phép làm; ngược lại, cần phải xác định rõ những điều cần nghiêm cấm, dĩ nhiên là có xét đến những quy định trong Hiến pháp”[19, tr.370]. Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất công, bất bình đẳng. Vì thế, không chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định. Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong những đòi hỏi về quyền con người. Thứ hai: Khuynh hướng “thực định”: Trái với khuynh hướng quyền tự nhiên – khuynh hướng không để ý đến mặt pháp luật và Nhà nước của quyền con người, khuynh hướng thực định lại coi quyền con người là tất cả những gì mà Nhà nước thông qua pháp luật để quy định cho cá nhân. Chỉ những gì pháp luật cho phép tự do làm hay không làm thì mới là quyền con người, và chỉ được coi là quyền con người khi một hành vi hay một yêu cầu của cá nhân là hợp pháp. 12 Khuynh hướng thực định có điểm hợp lý là đã gắn quyền con người với pháp luật, với ý chí mà Nhà nước (mà điều này thì không thể bỏ qua được, vì quyền con người tất nhiên phải tồn tại dưới hình thức pháp luật). Nhưng, nó cũng có nhược điểm ở chỗ, nó chỉ coi ý chí Nhà nước là nguồn gốc của quyền con người, coi trọng tính hợp pháp của quyền, song lại không để ý đến tính hợp lý của nó – cái mà nhờ đó, ngay cả những đòi hỏi, những nhu cầu hợp lý cho cuộc sống (nhưng chưa được pháp luật ghi nhận) cũng phải được coi là quyền con người. Do đó, không thể coi quyền con người chỉ là cái được phép làm, được hưởng theo pháp luật, mà còn cả cái đáng được làm, đáng được hưởng (những cái chưa được pháp luật khẳng định, nhưng sẽ phải khẳng định). Thứ ba: Khuynh hướng “kinh tế”: Khuynh hướng kinh tế coi quyền con người là những quyền nảy sinh từ nhu cầu của sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, khuynh hướng này coi nguồn gốc của quyền con người là kinh tế. Không phải “trời phú” tự nhiên, cũng không phải do Nhà nước ban phát, mà chính đời sống kinh tế của con người trao cho con người các quyền. Giáo sư Viện khoa học xã hội Trung Quốc - Từ Sùng Ôn trong bài báo “Về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề nhân quyền” trích Tạp chí “Nghiên cứu triết học”, số 12/1992 đã viết: “nhân quyền, suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích cơ bản của một giai cấp nhất định”. Khuynh hướng kinh tế có điểm hợp lý ở chỗ, nó cho thấy nguồn gốc của quyền con người là bản thân đời sống xã hội của con người. Nó tước bỏ cái vỏ “thần thánh”, “tự nhiên”, không giải thích được của quyền con người, trả quyền con người về với đời sống thực tại của con người. Theo khuynh hướng này, có thể đi đến quan điểm duy vật lịch sử về vấn đề quyền con người. Nó cũng cho thấy tính giai cấp trong những đòi hỏi về quyền con người. Song, sẽ là không đầy đủ nếu coi quyền con người chỉ có nguồn gốc kinh tế. Quyền con người còn bao hàm những yêu cầu về danh dự, nhân phẩm, về đời sống tinh thần, tình cảm của con người…, nghĩa là những điều nằm ngoài phạm trù kinh tế. Thứ tư: Khuynh hướng “quan niệm”: Khuynh hướng quan niệm cho rằng quyền con người là tất cả những gì mà con người cho là cần thiết và có giá trị đối với cuộc sống con người, tức là quyền lợi, nhu cầu, lợi ích và những giá trị tinh thần đều có thể trở thành quyền con người. Quyền con người là vấn đề phức tạp đa nghĩa, chứa đựng những mặt đối lập, mâu thuẫn, nhưng không loại trừ nhau. Đó là các mặt khách quan và chủ quan, tự 13 nhiên và xã hội, kinh tế và tinh thần, văn hoá và chính trị, đạo lý và luật pháp. Nó cũng là sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại, v.v… Qua phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: Quyền con người là những quyền không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào; đó là: quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật, quyền an ninh thân thể, quyền không bị hình phạt tàn bạo và bất bình thường…Đó cũng là những đòi hỏi chính đáng về tự do và những nhu cầu cuộc sống cơ bản cần được đáp ứng của con người, không bị phá hủy khi xã hội dân sự được thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc chuyển nhượng các quyền này. Nói cách khác, quyền con người đóng vai trò “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con người, khả năng độc lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân” [19,tr.21]. 1.1.1.2. Tính chất của quyền con người Quyền con người có các tính chất cơ bản sau đây: Thứ nhất: Tính phổ biến Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người, không có sự phân biệt đối xử vì màu da, chủng tộc, dân tộc, giới tính, độ tuổi, thành phần xuất thân… Con người, dù ở trong những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn được công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản. Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Thứ hai: Tính đặc thù Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người nhưng mức độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực đó. Ví dụ: ở các nước Tây Âu, do điều kiện kinh tế phát triển nên con người ở đây được hưởng chế độ an sinh xã hội tốt hơn nơi khác. Ngược lại, ở một số nước châu Á, do kinh tế còn chậm phát triển nên mức độ thụ hưởng an sinh xã hội thấp hơn. Thứ ba: Tính không thể tước bỏ 14 Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức Nhà nước. Ở đây, khía cạnh “tùy tiện” nói đến giới hạn của vấn đề. Nó cho thấy không phải lúc nào nhân quyền cũng “không thể tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống. Thứ tư: Tính không thể phân chia Tính không thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, tính chất không thể phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con người đều cần phải được chú ý quan tâm với mức độ giống hệt nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong từng bối cảnh cụ thể, cần và có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những yêu cầu thực tế của việc đảm bảo các quyền đó chứ không phải dựa trên sự đánh giá về giá trị các quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế; còn trong bối cảnh nạn đói, quyền được ưu tiên phải là quyền về lương thực, thực phẩm. Ở góc độ rộng hơn, trong một số hoàn cảnh, cần ưu tiên thực hiện quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong khi vẫn tôn trọng quyền của các nhóm khác. Điều này không có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn các quyền khác, mà là bởi các quyền đó trong thực tế đang bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác. Thứ năm: Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc đảm bảo các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Thực tế cho thấy, để đảm bảo các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền chính trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền có mức sống 15 thích đáng… vì nếu không, các quyền bầu cử, ứng cử có rất ít ý nghĩa với những người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ. Tương tự, việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đều gắn liền với sự phát triển của quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả của việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị chính là sự ổn định, lành mạnh và hiệu quả trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội – yếu tố nền tảng để thúc đẩy các điều kiện sống về kinh tế, xã hội, văn hóa của mọi người dân. [11] 1.1.1.3. Đặc điểm của quyền con người Nhận thức chung cho rằng, quyền con người là một phạm trù đa diện, có thể nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau như đạo đức, tôn giáo, chính trị, xã hội, pháp luật… cụ thể như sau: Thứ nhất, quyền con người nhìn từ góc độ đạo đức – tôn giáo Những ý niệm đầu tiên về quyền con người có lẽ được nảy sinh từ quan niệm về các chuẩn mực đạo đức – cách thức đối xử giữa người với người trong xã hội – mà vốn có và hiện còn trong văn hóa truyền thống của hầu hết dân tộc trên trái đất. Cụ thể, ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều lưu truyền những quy tắc ứng xử, coi đó là những quy luật vàng, kiểu như: nếu muốn người khác đối xử với mình như thế nào thì hãy đối xử với người khác như thế, ác giả ác báo hoặc gieo gì gặt nấy… Rõ ràng, ẩn chứa trong nội hàm các quy luật vàng này là yêu cầu tôn trọng các quyền, tự do chính đáng và tự nhiên của người khác. Những quy tắc đạo đức hàm chứa những ý tưởng về quyền con người như vậy sau đó được đúc kết, khái quát, bổ sung và phát triển trong giáo lý của các tôn giáo. Sức mạnh đức tin của các tôn giáo đó biến các ý tưởng về quyền con người trở thành những quy phạm đạo đức – tôn giáo được tuân thủ rộng rãi ở nhiều xã hội, trong đó đề cao và cổ vũ tình yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm – những yếu tố nền tảng của quyền con người. Nhìn tổng thể, trong suốt quá trình phát triển của quyền con người, kể cả khi các quyền con người đã được pháp điển hóa trong pháp luật quốc gia và quốc tế, nó vẫn bị các phạm trù đạo đức và tôn giáo chi phối. Sự chi phối đó không bộc lộ, lặng lẽ, tàng ẩn nhưng rất sâu sắc. Nói cách khác, trong suốt tiến trình phát triển của nó, quyền con người luôn phản ánh và mang nặng dấu ấn của các giá trị và quy tắc đạo đức, tôn giáo. Thứ hai, quyền con người nhìn từ góc độ lịch sử - xã hội Xét tổng thể, lịch sử loài người thực chất là một quá trình phấn đấu không ngừng để tồn tại và nâng cao các tiêu chuẩn sống, trong đó bao gồm việc phấn đấu 16 để xác lập và bảo vệ những giá trị tự do, bình đẳng, công bằng và nhân phẩm cho tất cả các cá nhân thành viên của cộng đồng nhân loại. Theo dòng lịch sử, ảnh hưởng và tác động của quyền con người ngày càng mở rộng, từ ý niệm, tư tưởng đến các quy tắc, quy phạm và cơ chế; từ cấp độ cộng đồng đến cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Trong suốt quá trình phát triển này, quyền con người luôn mang những dấu ấn về chính trị, kinh tế, văn hóa của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của xã hội loài người. Thứ ba, quyền con người từ góc độ triết học Trên phương diện triết học, sự hình thành, phát triển của quyền con người phản ánh quy luật của xã hội loài người từ thấp đến cao. Cụ thể, nó phản ánh quá trình phát triển mang tính quy luật trong nhận thức của loài người từ những khái niệm sơ khai nhất về công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm cho đến những tư tưởng, học thuyết và những quy phạm pháp lý về quyền con người. Trong triết học, quyền con người từ lâu đã trở thành một đối tượng nghiên cứu với những tư tưởng, học thuyết được phát triển bởi nhiều nhà triết học nổi tiếng. Những tư tưởng triết học về quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và các quyền pháp lý là nền tảng lý luận cho việc pháp điển hóa các quyền con người vào pháp luật quốc gia và quốc tế, cũng như trong việc bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế. Thứ tư, quyền con người từ góc độ chính trị Ngay từ khi còn ở dưới dạng quan điểm, tư tưởng, quyền con người đã là một vấn đề ảnh hưởng, chi phối quan hệ chính trị, cả ở phạm vi quyết định giúp giai cấp tư sản lật đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến. Sau đó, quyền con người đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ngay từ khi quyền con người bắt đầu được pháp điển hóa trong luật quốc tế (kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai), vấn đề quyền con người đã bị “chính trị hóa” một cách sâu sắc và hệ thống. Từ khi cuộc Chiến tranh Lạnh kết thúc cho đến thời điểm hiện nay, mặc dù mức độ “chính trị hóa” quyền con người đã ít nhiều giảm đi, tuy nhiên, đây vẫn là hiện thực không thể tránh khỏi và sẽ cùng tồn tại lâu dài trong các hoạt động quốc tế về quyền con người. Xét ở phạm vi quốc tế, quyền con người đã trở thành một trong những vấn đề chi phối (trực tiếp hoặc gián tiếp) mạnh mẽ và toàn diện các quan hệ chính trị quốc 17 tế ở mọi cấp độ, từ toàn cầu, khu vực đến song phương. Xét ở phạm vi quốc gia, từ lâu, các đảng phái chính trị trên thế giới đã nhanh chóng nhận thấy và nắm lấy quyền con người như một thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh giành và giữ quyền lực Nhà nước. Quyền con người trở thành các tiêu chí được dùng để đánh giá tính tiến bộ, phù hợp trong cương lĩnh tranh cử; trở thành cơ sở để các đảng phái phê phán, chỉ trích lẫn nhau; thậm chí trở thành một yếu tố quyết định sự tồn vong của một chính thể, một người đứng đầu Nhà nước hoặc một chế độ xã hội. Tại nhiều nước trên thế giới hiện nay, quyền con người đã trở thành một trong các chủ đề trung tâm không chỉ trong cuộc đấu tranh quyền lực giữa các chính đảng, mà còn trong các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia. Thứ năm, quyền con người từ góc độ pháp lý Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do các nhà nước quy định (nguồn gốc pháp lý), thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người (các quyền tự nhiên) không thể được bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc ứng xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy, quyền con người gắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù pháp lý. Thực tế cho thấy, với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người – cùng với quyền, tự do và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó – luôn là đối tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Vai trò của pháp luật với quyền con người thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau: + Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên: Mặc dù được thừa nhận song thông thường các quyền tự nhiên không mặc định được áp dụng trực tiếp trong xã hội. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý – tức là có nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Như vậy, 18 chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó. Nó có sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ pháp lý (hay các quy tắc cư xử chung do Nhà nước cưỡng chế thực hiện), từ đó xã hội hóa giá trị các quyền tự nhiên của con người. + Pháp luật là phương tiện đảm bảo giá trị thực tế của các quyền con người: như đã đề cập, chỉ khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực hiện các quyền con người mới mang tính bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Ở đây, pháp luật đóng vai trò là công cụ giúp Nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế có liên quan. Thực tế cho thấy, tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là phương tiện hữu hiệu để bảo đảm các quyền con người đã được khẳng định từ rất sớm. Từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên, một vị vua vĩ đại của xứ Babylon là Hammurabi (1810 – 1750 TCN) đã tuyên bố rằng, mục đích của ông trong việc ban hành đạo luật cổ nổi tiếng (mang tên ông) là để “…ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức người yếu”. Vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, một nhiếp chính quan La Mã là Arokhont Salon đã tuyên bố ý định giải phóng cho tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật. Trong giai đoạn sau này, tư tưởng đề cao pháp luật với việc bảo đảm quyền con người cũng được phát triển nhiều bởi các nhà tư tưởng nổi tiếng của nhân loại, và được chứng minh bằng sự ra đời của ngày càng nhiều các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền và tự do của con người, từ Đại Hiến chương Magna Carta (the Magna Carta, 1251), Bộ luật về các quyền (the Bill of Rights, 1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân (the Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, 1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập (the Declaration of Independence, 1776) và Bộ luật về các quyền (the Bill of Rights, 1789/1791) của Mỹ cho tới Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hệ thống đồ sộ hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người do Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác thông qua từ đầu thế kỷ XX đến nay. Tất cả đã cho thấy vai trò không thể thay thế của pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người. 1.1.2. Giáo dục quyền con người 19 1.1.2.1. Khái niệm giáo dục quyền con người Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập tan năm 1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên nêu ra của tổ chức này là vấn đề nhân quyền. Liên Hợp Quốc đã ban hành hàng loạt các văn kiện khẳng định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt khi Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 ra đời thì vấn đề nhân quyền đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử nhân loại, trở thành một quan hệ cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế. Trong thời gian qua, thuật ngữ “giáo dục quyền con người” cũng liên tục xuất hiện trong các văn kiện của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực như Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… Đồng thời, thuật ngữ “quyền con người” cũng xuất hiện trong văn bản của các bộ giáo dục và của các tổ chức phi chính phủ. Tôn trọng và thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người đã trở thành xu thế tất yếu mang tính toàn cầu, vấn đề giáo dục quyền con người, cũng vì đó, trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Hiện nay, có nhiều định nghĩa về giáo dục quyền con người: “Giáo dục quyền con người được định nghĩa là các nỗ lực về đào tạo, phổ biến và thông tin nhằm tạo lập nền văn hóa toàn cầu về quyền con người thông qua truyền đạt kiến thức, các kỹ năng, hình thành các thái độ và hướng tới: Tăng cường tôn trọng quyền con người và các tự do cơ bản; Phát triển đầy đủ nhân cách con người và ý thức về nhân phẩm; Tăng cường hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tính hữu nghị giữa các dân tộc, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia, đạo đức, tôn giáo và ngôn ngữ...” [58, tr.33]. “Giáo dục quyền con người là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục đích của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con người để biết tự mình bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người” [3]. “Giáo dục quyền con người là tất cả quá trình học hỏi để phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị của quyền con người, nhằm thúc đẩy sự công bằng, khoan 20 dung, nhân phẩm, cũng như tôn trọng các quyền và nhân phẩm của người khác” [58]. Trong cuốn sách Hướng dẫn giáo dục nhân quyền xuất bản tại Đại học Minnesota của Mỹ năm 2000, bà Nancy Flowers – một nhà giáo, nhà hoạt động nhân quyền của Mỹ đã định nghĩa giáo dục nhân quyền là “tất cả những hiểu biết nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị của nhân quyền.” Theo bà, giáo dục nhân quyền liên quan đến sự kết hợp xem xét giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Sự hiểu biết về nhân quyền tất yếu gắn với việc áp dụng hệ thống giá trị nhân quyền trong mối quan hệ giữa con người với con người, trong gia đình và với các thành viên trong cộng đồng. Trong đó, bà nói đến kỹ năng “phát triển con người”, đó là những kỹ năng công nhận thiên hướng của bản thân mỗi người, chấp nhận những khác biệt và chịu trách nhiệm bảo vệ quyền của những người khác. Tuy nhiên, trong công việc của mình, những người lập chương trình giáo dục nhân quyền phải tính đến bối cảnh xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và khả năng tác động của việc giáo dục đó đối với chuyển biến của xã hội. Còn theo bà Felisa Tibbitts – giám đốc Hiệp hội nhân quyền của Mỹ thì “về cơ bản, giáo dục nhân quyền là hoạt động xây dựng các nền văn hóa nhân quyền trong các cộng đồng của chúng ta.” Theo một định nghĩa khác của ông Shulamith Koening – người sáng lập “Thập kỷ giáo dục nhân quyền toàn dân” (PDHRE) thì giáo dục nhân quyền là “để mọi người biết về nhân quyền và đưa ra đòi hỏi về nhân quyền” [58, tr.30]. Như vậy, nói một cách đơn giản, giáo dục quyền con người là một quá trình nhằm truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng để người học có những hiểu biết về quyền con người, những giá trị phẩm giá, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau, sự tôn trọng và hiểu biết về quyền của người khác, tôn trọng pháp luật để từ đó thúc đẩy mọi người tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội và cùng nhau xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền” chung [18]. Đó cũng là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến cho mỗi cá nhân trong cộng đồng hiểu rõ những quyền cơ bản của họ, đồng thời giúp họ hiểu được cách thức bảo vệ các quyền đó cũng như đạt được các kỹ năng để có thể sử dụng các quyền này trong cuộc sống. 1.1.2.2. Mục đích của giáo dục quyền con người Mục đích là cái nhằm đạt được sự mong muốn, hoài bão, ý chí của một con người hay tổ chức thông qua suy nghĩ và các hoạt động cụ thể trong cuộc sống. Mục 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan