Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hạn chế và xứ lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần á châu ...

Tài liệu Hạn chế và xứ lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần á châu

.PDF
102
385
54

Mô tả:

1 CHƢƠNG 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài 1.1.1. Đặt vấn đề Toàn cầu hóa, một xu thế tất yếu mà Việt Nam không nằm ngoài quy luật chung đó. Điều đó được thấy rõ nhất trong thời gian qua khi Việt Nam lần lượt là thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại, văn hóa, xã hội của quốc tế và khu vực. Toàn cầu hóa đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích trên tất cả các mặt trong đó có kinh tế như là cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, hợp tác song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực với nhiều quốc gia khác nhau, kinh tế tăng trưởng khá; năm 2013 tăng trưởng GDP đạt 5,4% …..Bên cạnh những lợi ích mà toàn cầu hóa đã mang lại thì những mặt trái của toàn cầu hóa cũng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam trong những năm qua. Đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra năm 2008 đến nay nó đã trải qua hơn 5 năm đã làm các chỉ số kinh tế biến động liên tục và đầu tư xã hội thì ngày càng teo tóp. Còn lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực chịu tác động nặng nề trong hơn 5 năm qua. Với số lượng nợ xấu tăng lên qua các năm, theo moondy’s con số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã lên tới hơn 15% năm 2013. Đặc biệt ngay từ trước khi được thành lập 7/9/2013, Công ty quản lý tài sản (VAMC) được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực cho toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, sau gần 2 năm chính thức hoạt động, số nợ xấu mà VAMC mua được từ các tổ chức tín dụng tính đến đầu tháng 10/2014 là 93.000 tỷ đồng nhưng mới bán lại được khoảng 1.500 tỷ. Một con số đáng báo động về tình hình kinh doanh tiền tệ hiện nay tại Việt Nam. 1.1.2. Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng thương mại thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu là một trong những ngân hàng hàng đầu trong khối NHTMCP ở nước ta, tình hình kiểm soát tín dụng thời gian qua cũng được xem là khá tốt. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, việc ngân hàng đang đối mặt với những khó khăn về kinh doanh, đặc biệt là tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng ngày càng tăng lên ăn mòn tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng. 2 Theo bảng báo cáo tài chính hợp nhất quý 4/2013, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), có tỷ lệ nợ xấu tăng từ 2.5% lên 3.03%, nợ có khả năng mất vốn cao gần gấp đôi so với năm 2012 là 2,123 tỷ đồng. Thu nhập thuần từ lãi hợp nhất trong kỳ của ACB đạt 887 tỷ đồng, giảm mạnh 43% so với quý 4/2012. Trước những vấn đề nảy sinh trên thì công tác quản lý nợ xấu là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay đối với ngân hàng ACB. Với những vấn đề cấp thiết như trên nên tôi chọn đề tài “Hạn chế và xứ lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mục đích là kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp một phần nào đó cho công tác quản lý nợ xấu tại ngân hàng này. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Tìm hiểu thực trạng nợ xấu tại ACB để đưa ra các phưong pháp nhằm hạn chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng này 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nợ xấu và công tác quản lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng. - Phân tích thực trạng nợ xấu, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các phương pháp quản lý nợ xấu tại ACB. - Trên cơ sở lý luận, thực trạng nợ xấu và các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu tại ngân hàng, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu tại ngân hàng ACB trong thời gian tới. 1.3. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 1.3.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài Nhìn chung, trong việc nghiên cứu về nợ xấu ở Việt Nam, các tài liệu chính chủ yếu là các bài báo hoặc tạp chí được trình bày dưới dạng nêu vấn đề và sự việc, cũng có một số ít đề tài nghiên cứu về nợ xấu ở Việt Nam, nổi bật: 1) Trần Bảo Toàn (2007): “Analysis of the Vietnamese Banking Sector 3 with special reference to Corporate Governance” Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Đại học Kinh tế St. Gallen Thụy Sĩ. Nghiên cứu này đã đặt trọng tâm vào phân tích quản trị ngành ngân hàng tại Việt Nam. Trong đó tại chương 3, tác giả đã đề cập đến vai trò thị trường thứ cấp để xử lý nợ xấu. Đó là nguồn để xử lý nợ xấu phải theo nguyên tắc lấy thị trường nuôi thị trường bằng cách tạo ra thị trường nợ thứ cấp để sử dụng đồng bộ các thiết chế quản trị nợ sẵn có như các Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản (AMC) ở các Ngân hàng thương mại, Công ty mua bán Nợ và Tài sản tồn đọng (DATC) của Bộ Tài chính, thị trường chứng khoán…, các công cụ tài chính phi tiền tệ, công cụ tiền tệ và cả phương tiện phi vật chất như không gian, thời gian, kinh nghiệm và uy tín để tạo nguồn xử lý nợ xấu. 2) Báo cáo của ngân hàng Standard Chartered (2013): "VietnamNavigating the macro landscape‟‟ ngày 26/2/2013 trong đó tập trung phân tích về vấn đề nợ xấu cùng các kịch bản tác động, cũng như phác thảo về các kênh tài trợ giải quyết nợ xấu. Báo cáo cho rằng quy trình phải được thực hiện theo bốn bước chính để có thể giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả: Một là ghi nhận nợ xấu; Hai là trích lập dự phòng đầy đủ; Ba là tái cấp vốn; Bốn là kiểm soát rủi ro. 3) Báo cáo của Tổ chức Ngân hàng Thế giới (WB) (2013): TakingStock_Presentation_Dec2013_VN‟‟ trong đó có để cập đến vấn đề cải cách khu vực ngân hàng. Báo cáo cũng nêu rõ những rào cản khiến cho khu vực ngân hàng còn mong manh. Đó là: nợ xấu còn cao do quan ngại về công khai tài chính và minh bạch; phân loại nợ chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế; Nhà nước còn nắm giữ cổ phần lớn trong các ngân hàng; cần quan tâm các quy định về phá sản, vỡ nợ và quyền của người cho vay. 4) Bài phát biểu của Ông Sanjay Kalra, đại diện Thường trú của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Việt Nam tại hội nghị "VietNam Development Partner Ship Forum‟‟ ngày 5/12/2013 đã đề cập đến vấn đề cải cách cơ cấu còn chậm mà đặc biệt cải cách ngành ngân hàng vẫn là một ưu tiên hàng đầu. Nếu trì hoãn cải cách có thể sẽ làm xói mòn niềm tin, khả năng làm tăng nợ dự phòng có thể sẽ nhiều hơn. Giải quyết những điểm yếu liên quan đến chất lượng tài sản có, nợ xấu, trích lập dự phòng và mức vốn là việc rất quan trọng để tạo ra một môi trường mà trong đó các 4 ngân hàng làm trung gian chuyển tiết kiệm của quốc gia tới đầu tư hiệu quả. Những vấn đề này cần được giải quyết ở tất cả các ngân hàng lớn và nhỏ, nhà nước hay cổ phần. Để khôi phục sức khoẻ của hệ thống ngân hàng, các Giám đốc đã khuyến nghị nên thực hiện các biện pháp cấp vốn bổ sung các ngân hàng, tăng cường thanh tra và quản lý ngân hàng và thực hiện giải kế hoạch giải quyết nợ xấu. 1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Trong thời gian vừa qua, việc nghiên cứu về đề tài này trong nước đã có một số công trình nghiên cứu như sau: 1) Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), “Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai”, Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh, Trường Đại học Đà Nẵng. Công trình này tập trung đánh giá thực trạng hạn chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai. Qua đó, đưa ra các nhận xét đánh giá để đưa ra các giải pháp khác nhau nhằm xử lý nợ xấu cho ngân hàng này. 2) Nguyễn Thị Thu Hương (2012), “Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình này đi sâu vào phân tích những vấn đề pháp lý trong hoạt động cho vay của NTHM hiện nay. Qua đó, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay trong hoạt động cho vay của NHTM. 3) Nguyễn Thiên Phụng (2013) “Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam- Chi nhánh Bình Thạnh” luận văn thạc sĩ kinh tế, trường ĐH Ngân hàng TP.HCM. Công trình tập trung nghiên cứu các nguyên nhân gây ra nợ xấu ở các NHTM, thực trạng hạn chế và xử lý nợ xấu ở đơn vị cũng như đề xuất các giải pháp để hạn chế và xử lý nợ xấu. 5 4) Đỗ Thị Thu Quỳnh (2012), “Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP công thương Việt Nam – chi nhánh 1 Tp.HCM”, luận văn thạc sĩ kinh tế, trường Đại học Kinh tế TP. HCM. Công trình này tập trung đánh giá về thực trạng rủi ro tín dụng và công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thường chi nhánh 1 – TP.HCM. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng này. 5) Trần Thị Thu Tâm (2006), “Hoàn thiện công tác xử lý nợ tồn đọng tại hệ thống ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM. Đề tài nghiên cứu với mục đích hoàn thiện công tác xử lý nợ tồn đọng tại hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài trên là tương đối xa do đó các số liệu cho đến thời điểm hiện tại đã lạc hậu không mang tính thời sự cao. 6) Trần Thị Hồng Thắm (2011), “Giải pháp xử lý và ngăn ngừa nợ quá hạn của ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh”, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Công trình này tập trung đánh giá kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Đồng thời nghiên cứu tình hình cho vay, thu nợ, tình hình nợ quá hạn và tình hình thu nợ quá hạn của một số ngân hàng thường mại của tỉnh Trà Vinh, qua đó nhận xét đánh giá để đưa ra các giải pháp khác nhau nhằm xử lý nợ xấu cho các NHTM trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. 7) Phạm Thu Trang (2009), “Quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Thương mại Hà Nội. Luận văn đã tập trung nghiên cứu những nội dung sau; Thứ nhất, làm sáng tỏ về mặt lý luận vấn đề nợ xấu đối với việc phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập. Thứ hai, nhận biết rõ những yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cũng như phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của ngân hàng. Thứ ba, xác định rõ phương hướng trong công tác quản lý nợ xấu của 6 ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Tuy nhiên đề tài này chỉ đưa ra một số giải pháp chung chung về quản lý nợ xấu mà chưa đưa ra được giải pháp cụ thể để giải quyết triệt để nợ xấu của ngân hàng trong thời gian tới. 8) Hội thảo khoa học (2012): “Phát triển thị trường mua bán nợ Việt Nam: Rào cản chính sách và định hướng hoàn thiện” do Viện Chiến lược và Chính sách tài chính phối hợp với Trường Đại học Tài chính Marketing miền Nam. Hội thảo tập trung đánh giá thực trạng thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay; Khuôn khổ pháp lý đối với thị trường mua bán nợ và những định hướng sửa đổi bổ sung; Phân tích những cơ chế xử lý nợ hiện nay như xóa nợ, cơ cấu lại nợ, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A), cổ phần hóa, hóa đổi nợ thành vốn chủ sở hữu v.v… 9) Hội thảo khoa học công bố Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2013: “Trên đường gập ghềnh tới tương lai” do Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức ngày 27/5/2013. Nội dung cuộc hội thảo đề cập đến vấn đề nghiên cứu nợ xấu quốc tế... Từ kinh nghiệm thế giới đến thực tiễn Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã cung cấp một tập hợp các kinh nghiệm quốc tế đa dạng về xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng trong vài chục năm qua trên nhiều vùng lãnh thổ, chế độ kinh tế khác nhau, từ đó chia sẻ về phương án xử lý nợ xấu của Việt Nam hiện nay và gợi ý các chính sách tăng cường hiệu quả của chính sách này. Ngoài ra tác giả còn đọc và tham khảo các công trình nghiên cứu như “Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”, hay “Một số giải pháp nâng cao khả năng thu nợ tại Ngân hàng Công thương” …Những đề tài này tập trung nghiên cứu về nâng cao chất lượng tín dụng nói chung hoặc các đề tài nghiên cứu về khả năng thu nợ của ngân hàng Tóm lại, các đề tài nghiên cứu về nợ xấu cho Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Á Châu chưa có hoặc có thì hầu hết lấy số liệu cũ, chưa có sự cập nhật mới. Các đề tài trong nước và nước ngoài nêu trên khi đề cập đến vấn đề nợ xấu, mỗi nhà khoa học có cách tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo quan điểm của tác giả để giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu ngoài vấn đề phải xây dựng hệ thống ngân hàng 7 vững mạnh, một yếu tố quan trọng trong quá trình xử lý nợ xấu đó là phải xác định rõ nguồn gốc xâu xa dẫn đến nợ xấu và coi vấn đề nợ xấu là hệ lụy của cả nền kinh tế chứ không chỉ của riêng ngành ngân hàng và phải có lộ trình xử lý nợ xấu cụ thể. Do đó không chỉ riêng ngành ngân hàng mà tất cả các bộ ngành liên quan phải cùng nhau ngồi lại để tìm ra hướng đi chung xử lý “cục máu đông” này. Vì thế việc nghiên cứu đề tài này là một yêu cầu khách quan và rất khẩn trương nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách có một cách nhìn cụ thể và hệ thống để đưa ra những giải pháp đúng đắn nhất nhằm góp phần thành công cho quá trình xử lý nợ xấu tại ngân hàng. Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài „„Hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu” để nghiên cứu. 1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) trong giai đoạn hiện nay - Khách thể nghiên cứu: Ban Giám đốc các chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu, lãnh đạo các Phòng tín dụng, công nhân viên và khách hàng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu. 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu 1.4.2.1. Nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về nợ xấu và thực trạng nợ xấu trong thời gian qua của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu, từ đó đưa ra các biện pháp hạn chế và xử lý nợ xấu một cách có hiệu quả. 1.4.2.2. Không gian Các hoạt động kinh doanh, trong đó đặc biệt nghiên cứu hoạt động quản lý nợ xấu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu. 1.4.2.3. Thời gian Số liệu thứ cấp: Số liệu sử dụng để nghiên cứu cho đề tài trong 3 năm từ năm 2011 đến năm 2013. Số liệu sơ cấp: Khảo sát từ tháng 7/2014 đến tháng 9/2014. 1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu 8 Luận văn sẽ sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính để thực hiện mục đích nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, để đảm bảo tính khoa học và thực tiễn các nội dung nghiên cứu, luận văn sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp lịch sử; - Phương pháp thống kê, mô tả; - Phương pháp phân tích so sánh; - Phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia; - Phương pháp điếu tra, khảo sát; - Phương pháp tổng hợp. 1.6. Những đóng góp mới của luận văn Bài văn phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu của ACB, sẽ giúp cho các nhà quản trị ACB có cái nhìn tổng quát hơn về thực trạng hoạt động hạn chế và xử lý nợ xấu của ngân hàng. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của bài luận sẽ cung cấp một tài liệu tham khảo cho các nhà quản trị ACB. Đồng thời, bài luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm giúp cho ACB nâng cao được hiệu quả hoạt động hạn chế và xử lý nợ xấu, hiệu quả hoạt động kinh doanh và nâng cao vị thế của ngân hàng . 1.7. Bố cục luận văn Đề tài nghiên cứu tuân theo quy định về bố cục luận văn của nhà trường. Vì vậy luận văn được thiết kế với kết cấu thành 5 chương: Chương 1: Mở đầu Chương 2: Cơ sở lý luận về nợ xấu ở ngân hàng thương mại và quản trị nợ xấu tại các ngân hàng thương mại. Chương 3: Phân tích thực trạng nợ xấu tại ngân hàng TMCP Á Châu và phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận Chương 5: Kết luận và kiến nghị 9 Kết luận chƣơng 1 Chương 1 đã tiến hành đưa ra lý do chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, nội dung và phương pháp nghiên cứu. Bên cạnh đó một nội dung không kém phần quan trọng của chương này đó là tác giả đã hệ thống hóa được các công trình nghiên cứu về các đề tài liên quan trong thời gian qua, đây là cơ sở để tác giả tìm ra điểm mới trong nghiên cứu của đề tài này. 10 CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ QUẢN TRỊ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 2.1. Cơ sở lý thuyết về nợ xấu 2.1.1. Khái niệm nợ xấu  Theo Ngân hàng Trung ƣơng Liên minh châu Âu Nợ xấu trong các NHTM bao gồm: * Nợ không thể thu hồi được: - Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ nợ - Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ. - Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ. - Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ. * Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng. Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với Ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ như: - Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng phần còn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được chuyển để thanh toán nhưng giá trị còn lại không đủ trang trải toàn bộ khoản nợ. - Những khoản nợ mà người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu gia hạn nợ nhưng không đền bù được trong thời gian thỏa thuận. - Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế chấp ở Ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ không thể trả nợ Ngân hàng đầy đủ. 11 - Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi hoàn ít hơn dư nợ.  Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Về cơ bản, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ.  Theo định nghĩa của Việt Nam Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư này sẽ thay thế Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng và Quyết định 18 ban hành ngày 25/4/2007 về sửa đổi, bổ sung Quyết định 493. Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn); các nhóm nợ trên có các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở lên. Tuy có nhiều khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung các khái niệm nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên hai yếu tố: (i) Các khoản dư nợ đã quá hạn từ 90 ngày trở lên; (ii) Khả năng trả nợ của khách hàng được xếp vào loại nghi ngờ về khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Qua định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thể hiểu khái quát nợ xấu là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả nợ như đã cam kết dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. 2.1.2. Phân loại nợ xấu Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 thay thế Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và 12 sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng và Quyết định 18 ban hành ngày 25/4/2007 về sửa đổi, bổ sung Quyết định 493. Theo đó, việc phân loại nợ để trích lập dự phòng cụ thể được quy định lại theo hướng siết chặt hơn so với Quyết định 493 và Quyết định 18. Nợ nhóm 1 và Nợ nhóm 2 hầu như vẫn giữ như các quy định trước đây. Tuy nhiên, với các khoản nợ xấu (nợ nhóm 3, 4 và 5) đã được Ngân hàng Nhà nước bổ sung thêm nhiều đối tượng. Tỷ lệ nợ xấu sẽ được tính bằng tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5, trước đó, quyết định 493 không quy định cụ thể cách tính này. Cụ thể, nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, cộng với các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn cùng với nợ gốc và lãi còn lại đúng hạn. Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày, các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu. Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày, nợ gia hạn lần đầu và nợ được miễn giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. Đặc biệt, nợ nhóm 3 được bổ sung thêm các trường hợp: Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo quy định. Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản đảm bảo bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp. 13 Nợ không có bảo đảm được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cấp cho khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định. Nợ cấp cho công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới hạn theo quy định. Nợ có giá trị vượt quá giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được phép vượt giới hạn, theo quy định của pháp luật. Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và các tỷ lệ đảm bảo an toàn với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính sách dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra. Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) sẽ bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được... Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn. Đặc biệt, bổ sung thêm nợ của tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản. 14 Các mức dự phòng cụ thể được trích cho các nhóm nợ từ 1 đến 5 vẫn giữ nguyên so với quy định tại Quyết định 493 là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Mức dự phòng chung vẫn giữ nguyên là 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4. Ngoài ra, Thông tư 02 cũng ban hành thêm khái niệm "Tỷ lệ cấp tín dụng xấu" là tỷ lệ giữa tổng nợ và cam kết ngoại bảng từ nhóm 3 đến nhóm 5 so với các cam kết ngoại bảng từ nhóm 1 đến nhóm 5. Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ít nhất mỗi quý một lần, trong 15 ngày đầu tiên của tháng mỗi quý phải tự thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của quý trước và gửi báo cáo này lên cho Trung tâm xếp hạng tín dụng (CIC). Riêng với quy cuối cùng của kỳ kế toán năm, trong 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng cuối cùng, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của tháng thứ hai quý cuối cùng của kỳ kế toán. Ngoài thời điểm phân loại nêu trên, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định nội bộ. 2.1.3. Bản chất của nợ xấu Hoàn trả đầy đủ khoản nợ gốc và lãi cho Ngân hàng đến thời điểm đáo hạn là hành động hoàn tất mối quan hệ tín dụng hoàn hảo giữa Ngân hàng và khách hàng. Như vậy, nợ xấu trong hoạt động tín dụng NHTM là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng đúng hạn. Nợ xấu nói chung được xem như một dấu hiệu của vấn đề rủi ro tiềm ẩn. Tuy nhiên, thực tế một khoản nợ xấu thì cho biết rất ít vấn đề, để xác định bản chất vấn đề phải tìm hiểu được nguyên nhân của khoản nợ đó. Nếu khoản nợ xấu là một biểu hiện của việc khách hàng không muốn hoặc không có khả năng hoàn trả thì có thể khoản vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có nguy cơ không cứu vãn được. Nếu khoản nợ chỉ hình thành do việc tiêu thụ hàng hóa hoặc thu hồi các khoản phải thu 15 chậm hơn dự tính hoặc do việc chậm trễ không tính trước được trong việc chuyển từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ trên thị trường, thì vấn đề chưa đến mức nghiêm trọng. Bản chất của nợ xấu gắn liền với bản chất của mối quan hệ tín dụng – đây là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với người cho vay với giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Do đó, tín dụng được tạo nên từ 3 yếu tố chính là: lòng tin, thời hạn của quan hệ tín dụng và sự hứa hẹn hoàn trả. Người ta chỉ cho vay khi người ta tin rằng việc sử dụng giá trị đó sẽ thu được lượng giá trị lớn hơn, có tính hiệu quả hơn sau một thời gian nhất định. Như vậy, có thể thấy bản chất nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, trước hết vì nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời hạn, sau nữa nó vi phạm đến đặc trưng thứ hai là tính hoàn trả đầy đủ, gây nên sự đổ vỡ lòng tin của người cung cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng. 2.1.4. Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu Nợ xấu phát sinh khi khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết ban đầu với ngân hàng. Việc tìm hiểu nguyên nhân khiến nợ xấu tăng nhanh trong thời gian qua phải bắt đầu tư ba nguyên nhân chính: 2.1.4.1. Nguyên nhân khách quan 16 Trước hết, các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ, sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng…gây ra những biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Điều này có thể làm cho khách hàng mất khả năng trả nợ. Nguyên nhân khách quan thứ hai là sự thay đổi trong cơ chế, chính sách như: Chính trị, sự điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sáp nhập hay tách ra của các Bộ, Ngành trong nền kinh tế. Những sự thay đổi và điều chỉnh này tuy cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhưng đôi khi, cũng có tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến ngân hàng và khách hàng dẫn tới làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Nhân tố tiếp theo tác động vào quan hệ tín dụng này là thông tin không đầy đủ. Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng rất dễ gặp các rủi ro như khách hàng cố tình vi phạm, che giấu thông tin hoặc làm sai lệch thông tin về mình (lập báo cáo tài chính thiếu trung thực, sử dụng vốn vay sai mục đích...). Khách hàng thì do không có đầy đủ thông tin về thị trường sẽ dẫn tới những quyết định kinh doanh sai lầm. Do đó, việc sản xuất kinh doanh không đáp ứng nhu cầu và dẫn tới làm ăn thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý cũng tác động tới quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh sẽ không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp và tạo ra các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Còn một nhân tố khách quan nữa là nhân tố quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế như tình hình kinh tế, chính trị, chính sách tài chính của các quốc gia khác trên thế giới. Bất cứ một sự biến động nào trong nền kinh tế quốc tế cũng đều có tác động tới đất nước cho dù ít hay nhiều. 2.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan * Từ phía ngân hàng 17 Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến ở đây là chính sách cho vay của ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng, chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Nó phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Khi chính sách cho vay thống nhất, đầy đủ và đúng đắn, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng xác định đúng phương hướng khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng. Còn ngược lại, một chính sách tín dụng thiếu độ chính xác, không đầy đủ và không nhất quán sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn và dẫn tới rủi ro tín dụng. Nguyên nhân thứ hai nằm ở năng lực và đạo đức của người cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng không tính toán chính xác hiệu quả đầu tư của dự án xin vay thì họ sẽ dễ dàng có những những quyết định sai lầm trong cho vay. Hoặc người cán bộ tín dụng khi chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh mà mình đang cho vay sẽ không thể đánh giá hết khả năng sinh lời cũng như những rủi ro của khách hàng. Đôi khi, những cán bộ tín dụng vì một lý do nào đó vẫn cố ý cho vay mặc dù biết dự án không có hiệu quả sẽ dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong những trường hợp như vậy thì khả năng mất vốn của Ngân hàng là rất cao. Thứ ba, ngân hàng chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, về người đi vay hoặc do chủ quan tin tưởng khách hàng quen biết mà coi nhẹ khâu kiểm tra về tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ. Thứ tư là do ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn mức tín dụng tối đa cho từng lkhách hàng thuộc từng ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm, địa phương khách nhau để phân tán rủi ro, chưa có các tiêu thức đo lường rủi ro, độ rủi ro cho phép chấp nhận đối với mỗi đối tượng khách hàng. * Từ phía khách hàng Trước hết, khả năng quản lý của khách hàng yếu kém sẽ dẫn tới sử dụng khoản vay không có hiệu quả, dễ thua lỗ. Tiếp theo, doanh nghiệp không chịu thu thập, tìm hiểu thông tin về thị trường, sản phẩm, đối tượng khách hàng sẽ dẫn tới những quyết định sai lầm trong kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp dễ dàng lâm vào tình trạng vỡ nợ hoặc phá sản. Một phần nữa cũng quan trọng không kém là đạo đức của khách hàng. Không ít những chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn của ngân 18 hàng chẳng những yếu kém về năng lực kinh doanh mà còn thiếu cả tư cách đạo đức. Phần lớn trong số họ đều mong muốn thành đạt trong kinh doanh để có điều kiện trả nợ cho ngân hàng, tuy nhiên, cũng không hiếm những người chỉ mong muốn lừa đảo, chiếm đoạt lấy tiền từ ngân hàng vào những mục đích xấu xa khác như cờ bạc, hụi đề. Thông thường, những khách hàng này đều xuất trình những dự án rất sáng sủa, những lời hứa hẹn hoa mỹ. Các nhà ngân hàng một phần thì thiếu kinh nghiệm, phần nữa có thể do tham một chút lợi nhỏ nên đã đầu tư vào những dự án này và đương nhiên là sẽ gặp rủi ro. 2.1.5. Tác hại của nợ xấu NHTM là một trung gian tài chính có chức năng dẫn vốn từ nơi có khả năng cung ứng vốn đến những nơi có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu tư, phát triển kinh tế. Do đó, một sự biến động của Ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu đến chính hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế mà nợ xấu là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra. Tác hại của nợ xấu thể hiện trên hai nội dung sau:  Đối với nền kinh tế Nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế do ứ đọng vốn, sản xuất kinh doanh đình trệ. Nợ xấu tùy theo tính chất và mức độ, không chỉ ảnh hưởng tới Ngân hàng mà còn cả tới các doanh nghiệp, các cá nhân liên quan và toàn bộ nền kinh tế. Trên giác độ vĩ mô, nợ xấu làm giảm tính tích cực của tín dụng đối với nền kinh tế, cản trở NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng, cung cấp vốn cho nền kinh tế. Việc điều tiết vĩ môt kinh tế thông qua các NHTM cũng trở nên kém hiệu quả. Ở mức độ trầm trọng, nợ xấu không chỉ gây mất vốn, mất khả năng thanh toán dẫn tới sự sụp đổ không chỉ của một Ngân hàng mà còn kéo theo ảnh hưởng dây truyền làm chao đảo toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Điều đó gây rối loạn lưu thông tiền tệ trong nước, gây đình trệ sản xuất và khủng hoảng kinh tế Lịch sử hoạt động của các NHTM trên thế giới đã chứng kiến không ít các Ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực hay toàn châu lục. 19 Tóm lại, nợ xấu không những tác động đối với Ngân hàng mà còn nguy hại đối với cả nền kinh tế, trật tự xã hội. Do đó, quan tâm quản trị nợ xấu không còn là việc riêng của các NHTM mà là sự quan tâm chung của cả NHNN, Chính phủ và xã hội.  Đối với Ngân hàng: Thứ nhất – làm giảm lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng của Ngân hàng, lợi nhuận được hình thành từ những khoản thu của Ngân hàng mà những khoản thu này chủ yếu thu từ lãi cho vay. Nợ xấu tác động đến lợi nhuận Ngân hàng trên hai khía cạnh đó là: - Đã phát sinh nợ xấu thì lãi của những khoản nợ xấu khó có thể thu được hay thu không bao giờ đủ. Do đó, sẽ làm giảm thu nhập kinh doanh của Ngân hàng. - Phát sinh nợ xấu tất yếu Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro cho khoản vay đó, tức là làm tăng chi phí của Ngân hàng đồng thời làm giảm lợi nhuận. Thứ hai - Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh: Các khoản vay của khách hàng không được thanh toán đúng hạn, hay khi chuyển sang quá hạn thì việc thu nợ đã không đúng theo kế hoạch của Ngân hàng gây ra thiếu hụt so với dự tính của kế hoạch. Sự việc này chỉ trong một giới hạn nhất định, song nếu vượt qua một giới hạn cho phép Ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, và không có kế hoạch cho tương lai. Thứ ba – làm mất uy tín của Ngân hàng: Những ảnh hưởng của nợ xấu dẫn đến lợi nhuận giảm, khả năng thanh toán giảm… nó có tác động sâu sắc đến tâm lý khách hàng “hiệu ứng khách hàng” kể cả là khách hàng cá thể, doanh nghiệp hay các Ngân hàng đối tác. Trong lĩnh vực Ngân hàng uy tín tuyệt đối quan trọng, nó quyết định sự sống còn, tồn tại và phát triển một Ngân hàng. Thứ tư – không duy trì được đội ngũ nhân viên: khi một Ngân hàng làm ăn không hiệu quả, hay để tình trạng nợ xấu nhiều sẽ gây tâm lý hoang mang cho không những khách hàng mà còn cho chính nhân viên Ngân hàng, sẽ không giữ được những người làm việc hiệu quả ở lại, đây là một chi phí rất lớn cho Ngân hàng. 20 2.1.6. Các chỉ tiêu phản ánh nợ xấu - Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó, nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Và như vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng thu hồi của ngân hàng - Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi Ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà Ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì Ngân hàng bị coi là có chất lượng tín dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của Ngân hàng càng cao. - Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của Ngân hàng càng cao và ngược lại. Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi Ngân hàng hoặc quốc gia trong từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan