Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện mèo vạc, tỉnh hà giang...

Tài liệu Hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện mèo vạc, tỉnh hà giang

.PDF
80
1787
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN QUÝ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN MÈO VẠC, TỈNH HÀ GIANG Chuyên ngành: Chính trị học Mã số : 60 31 02 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Hồ Việt Hạnh HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Chính trị học “Hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./. Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Văn Quý MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ ........................................................................................... 7 1.1. Những vấn đề lý luận về chính trị, hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở ............................................................................................................ 7 1.2. Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở nƣớc ta hiện nay ...... 14 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY .. 21 2.1. Đặc điểm tình hình huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang................................ 21 2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang thời gian qua.................................................................... 23 Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở HUYỆN MÈO VẠC, TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY ..................................................................... 46 3.1. Quan điểm cơ bản nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay ........................................................................... 46 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay................................................................... 50 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNXH Chủ nghĩa xã hội DBHB Diễn biến hòa bình HTCT Hệ thống chính trị HĐND Hội đồng nhân dân NĐ-CP Nghị định Chính phủ QĐ-TTg Quyết định Thủ tƣớng UBMTTQ Ủy ban mặt trận Tổ quốc UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BIỂU Biểu 2.1: Xếp loại chất lƣợng đảng bộ cơ sở các xã, thị trấn...................................24 Biểu 2.2: Xếp loại chất lƣợng đảng viên của đảng bộ các xã, thị trấn.....................25 Biểu 2.3: Số lƣợng, chất lƣợng cán bộ, công chức xã, thị trấn qua các giai đoạn....32 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cơ sở xã, phƣờng, thị trấn là nơi nhân dân cƣ trú, sinh sống và diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách sinh động. Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nƣớc ta, là cấp trực tiếp tổ chức, hƣớng dẫn, vận động nhân dân thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, củng cố và tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cƣ. Thời gian qua, với sự quan tâm, lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc, hệ thống chính trị cơ sở ở nƣớc ta đã từng bƣớc đƣợc kiện toàn, đạt hiệu quả cao trong tổ chức và hoạt động. Tuy vậy, hệ thống chính trị cơ sở còn những yếu kém và hạn chế cần khắc phục nhƣ: Chƣa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ thống chính trị; nội dung và phƣơng thức hoạt động chƣa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; trình độ văn hóa, quản lý và năng lực điều hành công việc thực tiễn của cán bộ cơ sở còn nhiều hạn chế… Điều này càng bộc lộ rõ hơn trong giai đoạn dân chủ hóa hiện nay, nhất là từ khi thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn (1998) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn (2007). Mèo Vạc là huyện vùng cao biên giới phía Bắc của tỉnh Hà Giang, huyện có 18 xã, thị trấn, trong đó có 17 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Địa bàn huyện cũng là nơi sinh sống và cƣ trú của 17 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 90% dân số. Nhìn chung, các dân tộc anh em chung sống hoà thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đặc thù trên đòi hỏi các cấp ủy đảng và chính quyền của huyện cần đặc biệt quan tâm đến xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở. Mục tiêu là tăng cƣờng khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh với đặc thù của từng xã, thị trấn để đƣa đồng bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bƣớc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng cuộc sống văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nƣớc. 1 Để thực hiện nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất là cần phải kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Những năm qua, dƣới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở đã đạt đƣợc nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trị cơ sở đã đƣợc kiện toàn theo hƣớng gần dân, vì dân hơn; phƣơng pháp công tác và phƣơng thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cơ sở có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả đƣợc nâng lên; cải cách thủ tục hành chính bƣớc đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đƣợc đổi mới về nội dung và phƣơng thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả hơn. Nội bộ cấp ủy đoàn kết, thống nhất, sự đồng thuận trong Đảng, chính quyền và nhân dân ngày càng tăng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc vẫn đứng trƣớc những khó khăn, thách thức không nhỏ: Tình trạng quan liêu, cục bộ, mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở một số nơi. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị cơ sở chƣa đƣợc xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phƣơng thức hoạt động chậm đổi mới; đội ngũ cán bộ cơ sở ít đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng… Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lƣợc “Diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của nhân dân và những hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị cơ sở để nói xấu Đảng, Nhà nƣớc, hòng làm mất lòng tin của nhân dân vào chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng và giải quyết những vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc hiện nay là rất cần thiết. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học là “Hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng của hệ thống chính trị, việc nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng đã đƣợc nhiều tác giả quan tâm trên những bình diện khác nhau. Một số ấn phẩm có giá trị ở cả tầm lý luận và thực tiễn nhƣ: 2 Công trình “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội, nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số” do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (2000), đã phân tích thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nƣớc ta. Công trình đã đánh giá các thành tựu, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống chính trị của khu vực này. Bộ sách: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" (2001), "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (2003), “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” (2005) do TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên. Các công trình này đã làm rõ về nông thôn Việt Nam; làm sáng tỏ những quan điểm, chủ trƣơng, chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nƣớc ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đồng thời, định hình mối quan hệ biện chứng giữa vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn Việt Nam. Công trình “Hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay” do Hoàng Chí Bảo chủ biên (2004), đã làm rõ lịch sử, lý luận về làng xã và hệ thống chính trị ở cơ sở nƣớc ta; nêu rõ cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở và đề ra một số phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nông thôn. “Đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương trình 135 giai đoạn II” của Giàng Seo Phử (Tạp chí Cộng sản, số 816/2010), bài viết khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (giai đoạn 2006 - 2010) trên địa bàn 50 tỉnh của đất nƣớc. Từ những con số cụ thể, tác giả đã đánh giá sát thực, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá nhằm tiếp tục thực hiện Chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo giai đoạn II đạt kết quả cao hơn. “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các mục tiêu, kế hoạch đề ra” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí Cộng sản, số 829/2011), bài viết đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội đất nƣớc, nguyên nhân của những khó 3 khăn, thách thức hiện nay và xu hƣớng phát triển trong thời gian tới. Từ đó, định hƣớng các giải pháp chủ yếu mà cả hệ thống chính trị phải đồng tâm hiệp lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tạo sự chuyển biến thực sự trong việc đổi mới mô hình tăng trƣởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhấn mạnh định hƣớng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lƣơng thực gắn với bảo vệ môi trƣờng sinh thái, bảo đảm an ninh năng lƣợng và giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, một số công trình, luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành cũng bàn về vấn đề này dƣới nhiều hình thức và mức độ khác nhau nhƣ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân” của Văn phòng Quốc hội (Nghiên cứu lập pháp, số 8/2001); “Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết” của Hồ Minh Dức (Dân vận, số 1 và 2/2002); “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Hiền Oanh (Nxb Lý luận chính trị, H.2005); “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn ở Đồng Nai hiện nay” của Nguyễn Khánh Mậu (Khoa học Chính trị, số 2/2007); “Đổi mới hệ thống chính trị để phát huy dân chủ” của Đoàn Minh Duệ (Triết học, số 9/2007)… Nhƣ vậy, nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng từng khu vực cụ thể đã đƣợc rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song chƣa có một công trình khoa học nào trực tiếp bàn về hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, trong khi đối tƣợng nghiên cứu này đang đặt ra những vấn đề cần đƣợc giải quyết cả ở mặt lý luận và thực tiễn. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề trên trong khuôn khổ một Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học với hy vọng góp phần nhất định vào việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới, nâng cao chất lƣợng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang nói riêng. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Luận văn làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. * Nhiệm vụ: - Hệ thống hoá quan niệm về hệ thống chính trị cơ sở và vai trò của nó đối với sự phát triển. - Phân tích thực trạng trong hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay, đặc biệt là nghiên cứu thực trạng hệ thống chính trị cơ sở tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. - Phạm vi nghiên cứu: + Không gian: Luận văn nghiên cứu khái quát hệ thống chính trị cơ sở ở nƣớc ta, đặc biệt hệ thống chính trị cơ sở (bao gồm: các xã, thị trấn) của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. + Thời gian: Nghiên cứu, khảo sát giai đoạn từ 2010- 2015. + Vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở tại huyện Mèo Vạc trong quá trình tham gia vào phát triển địa phƣơng. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang về những vấn đề liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Quá trình giải quyết những nội dung trong luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp của phép biện chứng duy vật (nhƣ 5 phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô gic, hệ thống và cấu trúc…), các phƣơng pháp so sánh, điều tra, thống kê, nghiên cứu văn bản… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động HTCT cơ sở trong việc đóng góp vào sự phát triển chung của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. - Luận văn đề ra quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở cho các cấp lãnh đạo, quản lý huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang tham khảo, vận dụng trong việc đề ra các chính sách, phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn trong việc kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập về hệ thống chính trị cơ sở ở trung tâm bồi dƣỡng chính trị huyện. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng, cụ thể nhƣ sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hệ thống chính trị cơ sở. Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay. Chương 3: Quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay. 6 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ 1.1. Những vấn đề lý luận về chính trị, hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở 1.1.1. Khái niệm về chính trị Chính trị và hệ thống chính trị - với những quan hệ và hoạt động đặc thù của chúng - là kết quả của sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, là con đẻ của giai đoạn lịch sử nhất định trong sự phát triển của nền văn minh loài ngƣời, hay nói chính xác hơn là thời gian xuất hiện các giai cấp và mâu thuẫn đối kháng giai cấp. Và nhƣ vậy, từ khi xuất hiện các giai cấp và đối kháng giai cấp cho tới khi nào mức năng suất lao động của con ngƣời còn chƣa đạt tới ranh giới cho phép xóa bỏ những khác biệt giai cấp trong việc thừa hƣởng phúc lợi vật chất, chƣa xóa bỏ sự khác biệt giai cấp thì chính trị, hệ thống chính trị và tổ chức chính trị của xã hội, trƣớc và sau này cũng vậy, vẫn sẽ là những thuộc tính của đời sống xã hội. Thuật ngữ “chính trị” có nguồn gốc từ một danh từ tiếng Hy Lạp là “polis”, là một trong những khái niệm cho đến nay vẫn chƣa đƣợc xác định thống nhất trong giới khoa học, thậm chí còn gây ra những cuộc tranh luận gay gắt. Đây là điều dễ hiểu, bởi từ khi xuất hiện cho đến nay, bản thân đời sống chính trị cũng đã tiến hóa cùng với sự phát triển của đời sống xã hội. Là ngƣời đƣa ra thuật ngữ này, Aristotle hiểu chính trị là hình thức cộng sinh văn minh, đƣợc sử dụng để đạt tới phúc lợi chung và cuộc sống hạnh phúc. Kể từ đó, nội dung của thuật ngữ “chính trị” đã nhận đƣợc cách lý giải khác nhau; tùy thuộc vào hoàn cảnh mà ngƣời ta đặt lên hàng đầu những thuộc tính này hay những thuộc tính khác của chính trị với tính cách là một hiện tƣợng xã hội. Tuy nhiên, dù với sự nhận thức và các cách tiếp cận khác nhau nhƣ thế nào, thì khái niệm chính trị vẫn mang trong bản thân nó những dấu hiệu đặc trƣng có tính bản chất của nó. Căn cứ vào các tài liệu hiện có, chúng ta có một số định nghĩa về chính trị nhƣ sau: 7 Chính trị là hành động hƣớng vào quyền lực: giành lấy nó, giữ lấy và sử dụng nó. Theo M.Weber thì: chính trị là “khát vọng tham gia vào quyền lực hay là có ảnh hưởng tới việc phân chia quyền lực, cho dù là giữa các quốc gia, giữa các nhóm người ở bên trong một quốc gia” [43, tr.19]. Chính trị là “việc tham gia vào công việc của nhà nước, là việc định hướng nhà nước, là việc xác định các hình thức, các nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước” [43, tr.19]. Nhà chính trị học, N.Machiavelli đã đánh giá chính trị nhƣ là “tổng thể những phương tiện cần thiết để lên cầm quyền, giữ lấy quyền lực và sử dụng nó một cách hữu ích” [43, tr.19]. Nhà Chính trị học nổi tiếng ngƣời Pháp, M.Duverger viết: “Lý luận chính trị dao động giữa hai quan niệm trái ngược về chính trị. Theo một quan niệm chính trị là xung đột, là đấu tranh trong đó kẻ có quyền lực sẽ bảo đảm cho mình sự giám sát xã hội và nhận được của cải. Theo quan niệm khác chính trị là ý định thực hiện việc cai quản trật tự và sự công bằng, là sự bảo đảm tích hợp mọi công dân thành một cộng đồng” [43, tr.20 ]. Theo ông tổ của xã hội học Mỹ, T.Parsonr, chính trị là tổng thể “các phương thức tổ chức những thành tố xác định của hệ thống toàn vẹn một cách phù hợp với một trong các chức năng cơ bản của nó, mà chính là hoạt động tập thể có hiệu quả nhằm đạt tới các mục đích chung” [43, tr.21]. Còn theo C.Mác chính trị là “tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước”[20, tr18]. Những định nghĩa nêu trên về chính trị không bao hàm hết tất cả những định nghĩa đa dạng về nó, mặc dù cũng phản ánh đƣợc những định nghĩa quan trọng nhất. Những đặc trƣng khoa học phong phú nhƣ vậy đƣợc giải thích trƣớc hết bởi sự phức tạp của chính trị, bởi nội dung phong phú, những đặc điểm đa dạng và những chức năng xã hội phức tạp của nó. Khái quát những định nghĩa khác nhau, chúng ta có thể định nghĩa nhƣ sau: “Chính trị là hoạt động của các nhóm xã hội và của cá 8 nhân nhằm nhận thức và thể hiện lợi ích tập thể mâu thuẫn của mình, nhằm hoạch định những quyết định bắt buộc đối với toàn thể xã hội, được thực hiện nhờ quyền lực nhà nước” [43, tr.22]. . 1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở Trong mọi xã hội có giai cấp, đối kháng giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền đƣợc thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị (HTCT). HTCT là khái niệm của khoa học chính trị đƣơng đại - là một trong những khái niệm phản ánh đặc trƣng của những quan hệ quyền lực chính trị; cũng nhƣ các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các quá trình, quy trình chính trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tƣ bản chủ nghĩa). Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau: HTCT là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó. Hệ thống này bao gồm nhà nước, các chính đảng, các nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị khác - trong đó nhà nước là yếu tố cơ bản, trung tâm [44, tr.2]. HTCT là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội [44, tr.2]. HTCT là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó…[44, tr.2]. HTCT là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm nhà nước, các đảng chính trị, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể cầm quyền [44, tr.2]. Trên quan điểm hệ thống cấu trúc nhƣ trên có thể xem HTCT là khái niệm dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm các tổ chức như đảng chính trị, nhà nước, các 9 tổ chức chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố đó trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội [44, tr.3]. Nhƣ vậy, HTCT gắn liền với sự phân chia giai cấp trong xã hội, nhƣng giai cấp không phải là hiện tƣợng vĩnh hằng. Loài ngƣời đã và sẽ trải qua các thời kỳ khác nhau của xã hội: xã hội chƣa có giai cấp và đối kháng giai cấp; xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp; và cuối cùng, lại trở về xã hội không có giai cấp và đối kháng giai cấp, nhƣng ở một trình độ cao hơn. Từ một xã hội này chuyển sang một xã hội khác phải trải qua những thời kỳ quá độ khác nhau và để chuyển từ một xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp sang một xã hội không còn giai cấp và đối kháng giai cấp tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ chính trị lâu dài - thời kỳ chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản, thời kỳ tồn tại hệ thống chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ở nƣớc ta, mặc dù khái niệm HTCT mới chỉ đƣợc đề cập, sử dụng trong các văn kiện chính trị và các tài liệu khoa học từ sau đổi mới (1986). Song, trên thực tế, HTCT nƣớc ta đã đƣợc hình thành và phát triển hơn 70 năm, nhƣ một hệ thống quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ƣơng (khóa VI), tháng 3 năm 1989, Đảng ta lần đầu tiên đã sử dụng khái niệm HTCT trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thay thế cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản đƣợc sử dụng trƣớc đó. Theo đó, HTCT trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta là một chỉnh thể bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [14, tr. 2]. Việc sử dụng khái niệm HTCT trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH thay thế cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản vừa kế thừa tƣ tƣởng của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, vừa phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đồng thời 10 đáp ứng đƣợc nhu cầu đổi mới trên lĩnh vực chính trị của xã hội ta nói riêng, nhu cầu đổi mới toàn diện đất nƣớc ta nói chung. Nhƣ vậy, khái niệm HTCT XHCN ở nƣớc ta đƣợc hiểu là một hệ thống tổ chức bộ máy, hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam (vai trò lãnh đạo); Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân (vai trò quản lý); Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân (Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh), có vai trò tập hợp lực lƣợng, thực hiện chiến lƣợc đại đoàn kết dân tộc, hiệp thƣơng chính trị, hợp tác và phát triển xã hội. Đây là các tổ chức hợp pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đƣợc nhà nƣớc bảo trợ, hoạt động công khai, nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo chiều dọc, cấu trúc của HTCT không chỉ là hệ thống các tổ chức và các quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo hai chiều vận động từ dƣới lên và từ trên xuống. Cấp độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận và các đoàn thể) đƣợc quy định theo từng cấp với vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền khác nhau, thể hiện mối quan hệ thứ bậc giữa cấp trên và cấp dƣới trong phạm vi một tổ chức. HTCT ở nƣớc ta đƣợc cấu thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có các cấp độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ƣơng với địa phƣơng và cơ sở, phản ánh sự phân cấp về quyền lực trong HTCT. Theo chiều ngang, HTCT đƣợc biểu hiện thông qua mối quan hệ về vị trí, vai trò và quyền hạn giữa các tổ chức khác nhau trong tổng thể của hệ thống, bao gồm: Đảng chính trị, Nhà nƣớc, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Nếu nhƣ ở cấp trung ƣơng, đảng chính trị giữ vai trò lãnh đạo chung, nhà nƣớc giữ vai trò quản lý chung thông qua các hoạt động đặc thù, Mặt trận và các tổ chức chính trị giữ vai trò tập hợp lực lƣợng, tạo lập khối đại đoàn kết, hiệp thƣơng chính trị...; thì, ở cấp địa phƣơng, mỗi chân rết của các tổ chức nói trên sẽ chịu trách nhiệm chính các nhiệm vụ tƣơng ứng, song trong một địa bàn và không gian cụ thể. Hiện nay ở nƣớc ta có 10.925 đơn vị cơ sở xã, phƣờng, thị trấn, trong đó có 9.098 xã, 597 thị trấn và 1.230 phƣờng [7, tr.13]. Đây là địa bàn cƣ trú, làm ăn của 11 nhân dân lao động, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đó vừa là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất - kinh doanh của ngƣời lao động, của các hộ gia đình, của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; vừa là nơi diễn ra quá trình trao đổi, lƣu thông hàng hóa, là đầu mối của thị trƣờng, là nơi hình thành các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất và tiêu dùng. Nói đến cơ sở là nói tới nơi diễn ra các hoạt động của ngƣời dân và cuộc sống của họ; là nói tới các hình thức tổ chức hoạt động sống của cộng đồng và các mối quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Mỗi cơ sở là một cộng đồng xã hội, ở đó có các hoạt động kinh tế, văn hóa và đồng thời tất yếu hình thành nên cộng đồng chính trị xã hội. Tại đây, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội đều hƣớng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và tổ chức đời sống chính trị của công dân. Tổng hợp của các tổ chức trên, đó chính là HTCT cấp cơ sở. Nhƣ vậy, HTCT cấp cơ sở là hệ thống chỉnh thể các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị trên địa bàn [3, tr. 26]. HTCT cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay bao gồm: Đảng bộ hay Chi bộ cơ sở; chính quyền cơ sở (gồm HĐND và UBND xã); MTTQ Việt Nam, Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội LHPN, Hội Cựu chiến binh ở cơ sở. Mỗi bộ phận hợp thành HTCT cấp cơ sở có vị trí, vai trò và chức năng khác nhau nhƣng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể: - Đảng bộ hay Chi bộ cơ sở, mà nòng cốt là Ban Chấp hành Đảng bộ là hạt nhân chính trị, trực tiếp thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua việc ra các nghị quyết, chỉ thị định hƣớng cho chính quyền triển khai các hoạt động quản lý, điều hành trên phạm vi địa bàn; bằng hoạt động của các đảng viên trong bộ máy chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; bằng việc giới thiệu đảng viên ƣu tú tham gia giữ các chức vụ chủ chốt trong chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ 12 sở; bằng công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục; bằng sự gƣơng mẫu của đảng viên; bằng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nƣớc đối với cán bộ và đảng viên. - Chính quyền là trụ cột của HTCT cấp cơ sở, có vai trò quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi địa bàn theo Hiến pháp và pháp luật. Trong chính quyền cơ sở, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở cơ sở, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng trên địa bàn theo quy định của pháp luật. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nƣớc ở cơ sở. UBND thực hiện những nhiệm vụ theo nghị quyết của HĐND, những nhiệm vụ do cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trên ủy quyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ tự quản của địa phƣơng. - MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội có chức năng tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân ở cơ sở thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc và các chủ trƣơng của chính quyền cơ sở; củng cố và tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo lợi ích và bênh vực quyền lợi chính đáng của hội viên, đoàn viên; đồng thời thực hiện chức năng giám sát đối với hoạt động của chính quyền, đối với cán bộ, công chức, đảng viên ở cơ sở và tham gia một số công việc quản lý xã hội ở cơ sở và từng thôn xóm. Bên cạnh đó, ở cấp cơ sở hiện nay còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn do nhân dân tự nguyện lập ra, hoạt động theo phƣơng thức tự quản và tuân thủ pháp luật, thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, liên kết cộng đồng, cùng nhau tổ chức đời sống trong cộng đồng, góp phần tạo ra sự đoàn kết, đồng thuận trong xã hội. Những tổ chức này tuy không phải là bộ phận hợp thành HTCT cơ sở nhƣng có mối quan hệ mật thiết với hệ thống này. Vì vậy, nếu HTCT cấp cơ sở biết cách tạo điều kiện, phát huy tác dụng của các tổ chức này thì sức mạnh đoàn kết - hợp tác - sáng tạo của cộng đồng xã hội ở cơ sở sẽ đƣợc nhân lên gấp bội. Điều đó sẽ làm cho nền tảng xã hội của Đảng, Nhà nƣớc và của cả chế độ đƣợc củng cố vững mạnh ngay từ cơ sở. Đó chính là sự kết hợp sức mạnh giữa các thiết chế chính trị quan phƣơng và phi quan 13 phƣơng, giữa tính nhân dân và tính tự quản cộng đồng để tạo nên sự ổn định ở cơ sở, tạo sức bật cho cơ sở phát triển. 1.2. Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở nƣớc ta hiện nay 1.2.1. Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay Là một bộ phận của HTCT nói chung, do đó, HTCT cơ sở vừa mang những đặc điểm chung của HTCT, vừa có những đặc điểm riêng, đặc thù của nó. Cụ thể: Một là, HTCT cơ sở là cấp thấp nhất trong HTCT ở Việt Nam, song lại là cấp quan trọng, gần và sát dân nhất. Theo Điều 118, Hiến pháp 1992, HTCT ở nƣớc ta đƣợc phân ra 4 cấp: cấp Trung ƣơng; cấp tỉnh (bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ƣơng); cấp huyện (bao gồm các huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh); cấp xã (bao gồm các xã, phƣờng và thị trấn). Nhƣ vậy, cấp cơ sở là cấp thấp nhất, là cấp cuối cùng gần và sát dân nhất. Mặc dù các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT cơ sở hiện nay đều mở rộng chân rết xuống tận thôn bản, tổ khu phố thông qua các “cánh tay nối dài’’ là đội ngũ trƣởng thôn bản, song thôn, bản không phải là một cấp hành chính độc lập; cấp thôn không có ngân sách, con dấu, không có tƣ cách pháp nhân. Vì vậy, cấp xã vẫn là cấp cuối cùng trong hệ thống quản lý hành chính nói riêng và trong HTCT Việt Nam nói chung. Hai là, HTCT cơ sở là thiết chế, phƣơng tiện căn bản nhất để thực hiện dân chủ, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân. HTCT cơ sở có mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân, với cộng đồng dân cƣ, cho nên nó vừa là phƣơng tiện căn bản nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, vừa là yếu tố đóng vai trò quyết định quá trình thực thi dân chủ. Điều này đƣợc quy định bởi: - Là hệ thống quyền lực của nhân dân, HTCT cơ sở là tổ chức hạt nhân, là thiết chế tổ chức và thực hiện các quy định, các nguyên tắc theo mục tiêu dân chủ. Mọi quy chế, chƣơng trình, kế hoạch và hành động do HTCT cơ sở xây dựng và thực hiện nên đều nhằm cụ thể hóa mục tiêu dân chủ; đồng thời tạo nên những điều 14 kiện thuận tiện và phƣơng thức hoạt động phù hợp để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình tại cơ sở. - Đây là nơi trực tiếp giải quyết những vƣớng mắc của nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc. Qua đó, khơi dậy và phát huy ý thức dân chủ trong nhân dân - nhân tố quan trọng để góp phần hiện thực hóa nền dân chủ XHCN. Nhờ có HTCT cấp cơ sở mà nhân tài, vật lực ở các địa phƣơng đƣợc huy động để phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo nên những tiền đề cho dân chủ. Ba là, HTCT cơ sở có bộ máy đơn giản nhất. Là cấp cuối cùng trong HTCT nƣớc ta, bộ máy của HTCT cơ sở đơn giản hơn so với HTCT cấp trên, với biên chế hƣởng lƣơng từ ngân sách ít nhất. Theo khoản 1, điều 9, Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 2003, HĐND cấp xã tối đa không quá 35 đại biểu và không có các phòng, ban nhƣ HĐND cấp tỉnh, huyện. UBND cấp cơ sở cũng chỉ có từ 3 đến 5 thành viên. Số lƣợng thành viên Ban Chấp hành của Đảng bộ (hay chi bộ) và của các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp cơ sở cũng ít hơn nhiều so với cấp tỉnh, huyện. Tổng số cán bộ chuyên trách và công chức trong HTCT cấp cơ sở theo quy định không quá 25 ngƣời/xã. Bốn là, đây là nơi chịu sự tác động, ảnh hƣởng rất lớn từ các thiết chế xã hội cổ truyền cũng nhƣ phƣơng thức tự quản của cộng đồng dân cƣ- yếu tố đặc thù của HTCT cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Đây là nét đặc thù do đặc điểm dân tộc và truyền thống lịch sử nƣớc ta. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay, các thiết chế xã hội cổ truyền vẫn còn có những ảnh hƣởng và tác động rất lớn đến đời sống của cộng đồng dân cƣ nói chung, đến tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở nói riêng. Nói đến các thiết chế xã hội cổ truyền là nói đến những cộng đồng có tính tự quản. Tính tự quản ở nông thôn là cộng đồng làng, xã; ở đồng bào dân tộc thiểu số đƣợc thực hiện thông qua vai trò của các chủ làng, già làng, trƣởng bản và sự tuân thủ một cách tự giác của các thành viên trong buôn, làng, bản theo hệ thống luật tục, quy ƣớc, phong tục tập quán. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất