Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hiện tượng giả dối nhìn từ góc nhìn văn hóa học (tóm tắt)...

Tài liệu Hiện tượng giả dối nhìn từ góc nhìn văn hóa học (tóm tắt)

.DOC
27
907
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ TUYẾT NGÂN HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC Mã số: 62.31.70.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2016 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Hữu Tá Phản biê ên 1. Phản biê ên 2. Phản biê ên 3. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp cơ sở đào tạo họp tại Trường Đại học KH XH&NV, ĐHQG TP.HCM vào hồi … giờ … ngày … tháng … năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 2. Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 3. Thư viện tổng hợp TP. Hồ Chí Minh 4. Thư viện khoa Văn hóa học Trường Đại học KH XH&NV, ĐHQG TP.HCM DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Giả dối là mô tê hiê nê tượng phổ biến và có từ rất lâu đời, đã được ghi nhận nhiều lần trong các loại hình văn học dân gian như truyê ên cổ tích, thần thoại, thành ngữ, tục ngữ... Theo quan niêm ê phổ biến xưa nay, giả dối luôn bị đánh giá là không tốt, được xem là phản giá trị, do vâ yê đương nhiên cũng được xem là phi văn hoá, luôn bị ngăn cấm và hạn chế sử dụng, giới khoa học thì ít quan tâm nghiên cứu. Trong khi trên thực tế thì, cho tới nay, trong tất cả các nền văn hóa từ Đông đến Tây, giả dối không những không mất đi mà có nơi có lúc còn có vẻ như ngày càng phổ biến và phát triển đa dạng hơn. Điều này cho thấy thái độ chống đối nó lâu nay của xã hô iê và lảng tránh nó của giới khoa học là sai lầm. Có cơ sở để giả định là, rất có thể, trong chiều sâu của thời gian và chiều rộng của không gian, hiê ên tượng này có những cơ sở khoa học sâu xa về văn hoá cần được khám phá và lý giải. Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Hiện tượng giả dối từ góc nhìn văn hóa học” để làm đối tượng nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu và những đóng góp Giả dối là hiê ên tượng giao tiếp, ứng xử nằm trong khu vực giáp ranh của nhiều ngành khoa học khác nhau, do vậy hướng tới nhiều mục đích khác nhau và có những cách đánh giá khác nhau. Trong phạm vi luâ nê án này, chúng tôi đặt ra mục tiêu là xác định bản chất va những đă ăc điểm chủ yếu của hiê nê tượng giả dối, trong đó quan trọng là đánh giá một cách khách quan mặt giá trị va phi giá trị của nó để, trên cơ sở đó, phân tích cách thức con người tận dụng mặt giá trị ( = văn hóa) cũng như cách thức ứng phó với mặt phi giá trị ( = phi văn hóa) của giả dối, đưa ra những dự đoán về tương lai của nó, cũng như góp phần điều chỉnh, hướng dẫn dư luâ ăn trong viê êc sử dụng nó. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1. Giả dối (bao gồm lam giả và nói dối) có thể xem là sự đánh giá được gán cho một hành động, một cách thức hoạt động, một trạng thái của con người trong ứng xử với tự nhiên và xã hội. Trong lĩnh vực ứng xử với tự nhiên, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này; còn trong lĩnh vực ứng xử xã hội giữa con người với con người, giả dối được nhắc đến trong các công trình nghiên cứu triết học, tâm lý học, giáo dục học, đạo đức học, khoa học giao tiếp và trong các sách viết về lối sống, sách “học lam người”... Tuy nhiên, nhắc đến thì có, còn nghiên cứu sâu và trực tiếp về giả dối như một đối tượng của hoạt động khoa học trong các ngành này thì cũng không nhiều. Các nghiên cứu chủ yếu là của các tác giả phương Tây; một số tài liệu bằng tiếng Việt ít nhiều có đề cập đến giả dối thì chủ yếu là những tài liệu dịch hoặc biên dịch, soạn lại từ tiếng nước ngoài. Trong số các tài liệu không nhiều ấy, mảng phong phú hơn cả thuộc về khoa học giao tiếp, đặc biệt là tâm lý học giao tiếp. Song những nghiên cứu này chủ yếu hướng tới những quan hệ nội văn hóa, giao tiếp bằng ngôn từ, nói dối là chủ yếu; lĩnh vực làm giả có thể nói là gần như còn hoàn toàn để trống. 2. Những nghiên cứu chuyên sâu về hiện tượng này thuộc về các nhà khoa học Nga. Với truyền thống hàn lâm của mình, các học giả Nga đã đi vào nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận như “Lừa dối. Phân tích triết học – Tâm lý học” của Д.И. Дубровский (Обман. Философско-психологический анализ, 2010), “Hiện tượng lừa dối trong giao tiếp liên nhân” của М. Л. Красников (Феномен лжи в межличностном общении, 1999), hay “Sự tự lừa dối diễn ra như thế nao” của Ю. А. Разинов (Как возможен самообман, 2004). Tác phẩm sau cùng xem xét việc tự dối lòng như một hiện tượng văn hóa đặc biệt của con người từ bản chất, những nghịch lý, triết lý của những cảm nhận chạy trốn khỏi bản thân để lý giải tâm lý con người trong những trạng thái mâu thuẫn đặc biệt. В.Я. Пропп nghiên cứu giả dối giải trí như một trường hợp của giả dối trong các tác phẩm văn học nghệ thuật (1999). 3. Cùng là nghiên cứu tâm lý con người khi thực hiện hành động giả dối, các nhà khoa học Mỹ thiên về khía cạnh thực dụng của vấn đề (Lieberman D. 2008; Brooks Jackson và Kathleen Hall Jamieson 2008; Kevin D. 2002; The Arbinger Institute 2009). Các sách này đều có đặc điểm chung là tìm hiểu tâm lý của người giả dối và đối tác của họ trong các trường hợp thực tiễn cụ thể để rút ra bài học. D. Lieberman (2008) quan sát các mối quan hệ cá nhân va các tình huống trong công việc, khám phá tám khía cạnh khác nhau của việc giả dối và đưa ra các giải pháp giúp tìm ra chân lý và giành quyền kiểm soát tình hình. Brooks Jackson và Kathleen Hall Jamieson (2008) phân tích các trường hợp giả dối theo chủ đề để kết luận về các thủ đoạn lừa dối được hình thành dựa trên các quy luật tâm lý của con người, từ đó chỉ ra các phương thức nhận biết những điều dối trá, những kỹ thuật bịp bợm, cũng như cách thức để kiểm tra nhằm tìm được sự thật. D. Kevin (2002) vốn là một tin tặc (hacker) từng phải ngồi tù, qua nghiên cứu tâm lý của các đối tượng quản lý mạng đã trình bày những kinh nghiệm của mình và các cách giả dối để có thể lấy mật khẩu thâm nhập vào trang quản trị của các website. Viện Arbinger (2009) nghiên cứu cách thức quản lý trong giới lãnh đạo phương Tây và phát hiện ra rằng cách thức quản lý được duy trì lâu nay là dựa trên sự tự lừa dối, từ đó phân tích để đưa ra những phương án, giải pháp thiết thực nhằm tự giải phóng mình. Từ những nghiên cứu tâm lý này, các nhà khoa học - kỹ thuật Mỹ đã đưa ra hàng loạt những cách thức phát hiện giả dối và sáng chế ra cả các máy móc giúp phát hiện giả dối trong những trường hợp nghiêm trọng cần giải quyết bằng pháp luật. Một số bài viết về giả dối trên các website, mạng cá nhân thường chỉ là giới thiệu, đưa tin về một vài khía cạnh của các kết quả nghiên cứu, dừng lại ở việc nêu hiện tượng; đôi khi nếu có giải thích các khía cạnh tâm lý, đạo đức thì cũng là những giải thích mang tính phổ cập. Chúng tôi khai thác những bài viết kiểu này với tư cách là nguồn cung cấp tư liệu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận án là hiện tượng giả dối từ góc nhìn văn hóa học. Vì là một nghiên cứu trên bình diện lý thuyết nên giới hạn phạm vi nghiên cứu về mặt không gian trên lý thuyết được mở rộng ra các nền văn hóa nhân loại, còn trên thực tế chủ yếu giới hạn ở văn hóa mẹ đẻ (Việt Nam), những nền văn hóa lớn mà tác giả có thể tiếp cận được qua các nguồn thông tin (như Trung Quốc), hoặc các nền văn hóa mà tác giả am hiểu (như Nga, Bồ Đào Nha − tác giả từng học ngữ văn Bồ Đào Nha ở Nga). Về mặt thời gian, phạm vi nghiên cứu cũng được mở rộng, song trên thực tế thì thời quá khứ xa chủ yếu giới hạn ở việc khai thác các tư liệu dân gian, thời cận đại có tài liệu nhiều hơn, tư liệu nghiên cứu thời hiện đại là nhiều nhất. Hiện tượng giả dối là đối tượng có thể nghiên cứu từ nhiều chuyên ngành khác nhau với những trọng tâm nghiên cứu khác nhau.Từ góc nhìn văn hóa học, luận án tập trung đi tìm các giá trị của giả dối để giải thích lý do tồn tại của nó và xác định cách thức con người đối phó với những phi giá trị của nó. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Về mặt khoa học, luận án góp phần tìm hiểu hiện tượng giả dối dưới góc nhìn văn hóa học, giúp làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về cách ứng xử với các hiện tượng văn hóa - xã hội giáp ranh, những hiện tượng mang tính hai mặt rõ rệt nằm trong khu vực giáp ranh giữa giá trị và phi giá trị, văn hóa và phi văn hóa. Về mặt thực tiễn, luận án có thể góp phần giúp các cấp quản lý hoạch định các chính sách trong những lĩnh vực hoạt động liên quan đến văn hóa ứng xử, định hướng các chuẩn giá trị, chuẩn đạo đức trong xã hô iê nói chung và các ngành nghề có liên quan mật thiết tới các lĩnh vực ứng xử, giao tiếp mà ở đó giả dối đang là hiện tượng phổ biến nói riêng. Đồng thời luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu va giảng dạy về lý luận văn hoá, văn hóa ứng xử, văn hoá xã hội, văn hóa ngôn từ nói chung và văn hoá ứng xử hoă cê văn hoá ngôn từ của người Viê êt nói riêng. 6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu Do đây là một hiện tượng văn hóa - xã hội có độ phủ rộng, nên không thể nhìn nhận giả dối ở một góc độ cục bộ nào đó, mà phải nghiên cứu theo cách tiếp cận liên ngành, tổng hợp các thành tựu của nhiều ngành như triết học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học, khoa học giao tiếp, v.v. dưới một điểm nhìn thống nhất là văn hóa học. Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án trước hết sử dụng phương pháp quan sát thực tế để phân tích, tìm hiểu cách thức ứng xử của con người và những dấu hiê êu, đă êc điểm ngôn từ, cử chỉ khi thực hiê ên hành vi giả dối. Thứ hai, vận dụng phương pháp so sánh - loại hình để nghiên cứu cơ sở hình thành và đặc điểm của hành vi giả dối trong các loại hình văn hoá, các nhóm chủ thể, các khu vực không gian và các giai đoạn thời gian khác nhau. Thứ ba, sử dụng phương pháp hệ thống - cấu trúc để phân tích - tổng hợp, sắp xếp các hiện tượng giả dối vô cùng đa dạng, phức tạp vào các thành tố cấu thành để nghiên cứu, khái quát hóa lên thành một hệ thống chung. Nguồn tư liệu để nghiên cứu giả dối mà chúng tôi sử dụng là những lời nói, việc lam, sảm phẩm được ghi lại, văn bản hóa dưới nhiều dạng khác nhau. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được chia làm bốn chương, xoay quanh hai nội dung chính là hành động giả dối và cách đánh giá của xã hội về hành động này. Dưới góc độ hành động, giả dối được xem xét ở chương 1 và chương 2 theo ba bình diện nhận thức, tổ chức và ứng xử. Dưới góc độ cách đánh giá của xã hội, giả dối được xem xét trong chương 3 và chương 4 theo các bình diện văn hóa tận dụng giả dối, văn hóa lưu luyến giả dối và văn hóa đối phó với giả dối. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHẬN THỨC VỀ HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI 1.1. Định nghĩa giả dối 1.1.1. Trên thế giới, người ta nói đến “giả dối” thì nhiều nhưng định nghĩa nó một cách khoa học thì trong các tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được chưa thấy có. Các bộ từ điển bách khoa lớn củng không một bộ nào có định nghĩa khái niê êm này. Do vậy, dưới đây phải dùng đến các từ điển ngôn ngữ và xem xét 11 định nghĩa trong năm ngôn ngữ khác nhau. Trong tiếng Việt, “giả dối” là một tính từ (Ví dụ: Thái độ giả dối, lời tán tụng giả dối). Theo “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (1992), “giả dối”có nghĩa là “không thật, nhằm mục đích đánh lừa”. Hầu hết các ngôn ngữ phương Tây đều dùng từ có gốc từ tiếng Latin falsus với nét nghĩa là sai, lừa đảo. 1.1.2. Các định nghĩa về giả dối nêu trên của mọi ngôn ngữ đều tập trung sự chú ý vào đặc trưng coi giả dối là không đúng sự thật, luôn có song song sự thật để so sánh. Cách hiểu rộng coi giả dối là tất cả mọi thứ không đúng sự thật. Cách hiểu trung gian coi giả dối là cố ý làm không đúng sự thật. Cách hiểu hẹp nhất chú ý đến tính chất cố ý lam không đúng sự thật, và nhấn mạnh vào mục đích để lừa, đánh giá ý thức đạo đức của chủ thể về việc xâm hại đến lợi ích của khách thể hoặc cộng đồng, thu hẹp hơn nữa phạm vi của khái niê m ê “giả dối”. Trong luận án này, chúng tôi chọn cách hiểu khái niê êm “giả dối” theo hướng thứ hai − không quá rộng, cũng không quá hẹp − làm đối tượng nghiên cứu và đưa ra một định nghĩa để làm việc như sau: Giả dối la sự đánh giá được gán cho hanh động tương tác ma trong đó chủ thể đưa ra cái sai sự thật một cách cố ý khiến khách thể tiếp nhận như sự thật. 1.2. Giả dối trong quan hệ với văn hoá, giá trị và sự thật 1.2.1. Giả dối với văn hoá và giá trị: Giá trị được hình thành qua quá trình so sánh, đánh giá và lựa chọn cụ thể có ý nghĩa tích cực đối với đời sống, được cá nhân đồng tình và xã hội chấp nhận. Theo Trần Ngọc Thêm (2016), giá trị văn hóa có ba đặc trưng cơ bản là tính có ích, tính chủ quan và tính tương đối. Giả dối là hành vi có chủ ý nhằm mưu cầu một lợi ích nhất định. Giả dối là một cách đánh giá chủ quan, do vậy mục đích của hành động quyết định tính giá trị của nó. Lợi ích thu được từ giả dối thuộc về đối tượng nao trong tương tác là quan trọng đối với cách đánh giá của xã hội. 1.2.2. Giả dối vớisự thật và những khái niê êm liên quan: Giả dối là khái niê êm đối lập với “sự thật”. Chân lý là sự nhận thức đúng đắn hiện thực trong bộ óc con người. Chân lý luôn là sự phản ánh đúng hiện thực khách quan. “Chân” luôn đúng và vận động theo cuộc sống, còn thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Hạn chế về nhận thức, kỹ năng thể hiện, kỹ năng truyền tin khiến cho người ta trên thực tế truyền cho nhau không phải là sự thật trọn vẹn, mà chỉ là một phần của sự thật, sự thật không đầy đủ – nửa sự thật. Điều này liên quan mật thiết đến tính chủ quan của con người trong tính cách và trong việc sắp xếp, thể hiện vốn tri thức của mình trong quan hệ với tính khách quan của hiện thực. Chính sự thật không đầy đủ trong nhận thức, trong giao tiếp ứng xử là một trong những tiền đề dẫn đến sự hình thành các hành vi giả dối của con người. 1.2.3. Khả năng và điều kiện để giả dối có giá trị văn hóa: Giả dối không thể và không bao giờ có thể trở thành giá trị phổ quát, giá trị vĩnh cửu do thiếu tính Chân (thật). Giả dối tồn tại và phát triển do con người luôn hướng tới cái tốt, cái đẹp phù hợp với thực tiễn và hài hòa với môi trường xung quanh. Xu hướng nghệ thuật cho thấy, con người dễ dàng đồng cảm và học hỏi từ những hình ảnh, tấm gương tốt đẹp gần giống với cuộc sống hiện tại của mình. Mức độ giá tri của hiện tượng giả dối phụ thuộc vào những nhu cầu do điều kiện, cách thức tổ chức đời sống của mỗi cá nhân/ cộng đồng quy định. Tùy theo độ phù hợp của hành vi giả dối với chuẩn mực, đạo đức cộng đồng mà hiện tượng giả dối sẽ được đánh giá là thiên về giá trị hay phi giá trị. Giả dối được coi là có giá tri văn hóa khi mang lại lợi ích cho xã hội. Các hiện tượng giả dối được cộng đồng chấp nhận và duy trì lâu dài sẽ trở thành thói quen, nếp sống. 1.3. Điều kiện tồn tại giả dối 1.3.1. Điều kiện tiền đề dẫn đến giả dối: Sau khi phân tích các điều kiện xúc tác dẫn đến giả dối, các tiền đề được xem xét ở hai lĩnh vực lớn là các tiền đề tự nhiên và các tiền đề xã hội. Các tiền đề tự nhiên thể hiện trong hai bình diện: Ở bình diện thế giới khách quan, tiền đề dẫn đến giả dối là tính bất khả tri của thực tế, tính tương đồng và dị biệt của các vật thể; ở bình diện con người chủ thể, tiền đề dẫn đến giả dối là sự tiến hóa bộ não của con người và khả năng thể hiện ý tưởng, mô phỏng thực tế giúp con người cố ý tạo nên những trùng lặp tất nhiên (giả dối) sao cho càng giống với trùng lặp ngẫu nhiên càng tốt. Ở bình diện thế giới chủ quan, tiền đề quan trọng nhất dẫn đến hiê ên tượng giả dối là nhâ ên thức non yếu, hay làsự thiếu hiểu biết của khách thể. Các tiền đề xã hội tập trung vào sự phát triển của xã hội, kích thước các cộng đồng ngày càng lớn, quy mô ngày càng to, số lượng ngày càng nhiều, các mối quan hệ ngày càng đa dạng khiến cho con người ngày càng khó tiếp cận với sự thật. Các quy luật xã hội tạo nên những khuôn mẫu tư duy của mình theo những chuẩn mực ngầm định của cộng đồng thành những chuẩn mực tạo nên thói quen, nếp ứng xử. Những điều này đã khiến con người luôn gặp phải những tình huống một lúc phải đóng nhiều vai trong xã hội, làm tiền đề cho giả dối phát huy tác dụng. 1.3.2. Điều kiê nê để thực hiện thành công hành động giả dối: Đề hành động giả dối thành công cần có bốn điều kiện. Điều kiện thứ nhất là chủ thể phải tìm ra lĩnh vực thiếu hiểu biết (vùng ẩn) của khách thể về lĩnh vực ứng xử đang hướng tới. Điều kiện thứ hai là chủ thể phải là người có năng lực tư duy tốt bao gồm tư duy trừu tượng tốt để có thể lợi dụng sáng tạo ra các biến thể của sự thật và trí nhớ tốt nhằm tìm ra đối tượng để định hướng hành động giả dối đồng thờigiúp các hành vi giả dối đã thực hiện không bị phát hiện, khi chủ thể tiếp tục biến báo để duy trì chúng. Điều kiện thứ ba là năng lực tư duy tốt trong một cơ thể khỏe mạnh, minh mẫn đảm bảo đủ khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Điều kiện thứ tư là chủ thể giả dối phải có năng lực điều khiển hanh vi tốt đủ để khéo léo mô phỏng sự thật khiến đối tác nhầm lẫn. Chỉ cần thiếu một trong bốn yếu tố trên thì hành động giả dối có nguy cơ bị phát hiện và chủ thể phải trả giá cho hành động của mình. 1.4. Các bình diện của giả dối 1.4.1. Xét theo phương tiện tương tác, giả dối có hai loại chính là nói dối, làm giả và cùng với chúng là loại thứ ba, loại hỗn hợp vừa có làm giả vừa có nói dối. Làm giả là hình thức giả dối lâu đời nhất. Làm giả sử dụng hành động, cử chỉ tương tác để đối tác hiểu sai sự thật không có yếu tố ngôn ngữ đi kèm. Giả dối phi ngôn từ dùng hình thức để đánh lừa người khác nên cũng dễ bị phát hiện bằng cách quan sát. Nói dối dưới dạng ngôn từ hay văn bản thuộc nhóm hành vi giao tiếp (giao tiếp ứng xử), sử dụng ngôn ngữ truyền thông tin sai sự thật nhằm lừa người khác. Nói dối bị giới hạn đối tượng là những người cùng chung một ngôn ngữ. Giả dối hỗn hợp sử dụng cả hai phương tiện nên phổ biến và thông dụng hơn cả vì kết hợp nhiều yếu tố phối hợp với nhau để đạt được hiệu quả cao hơn nhưng cũng dễ bị phát hiện hơn. Người ta có thể phát hiện giả dối hỗn hợp bằng các cách riêng lẻ của giả dối phi ngôn từ và giả dối ngôn từ. 1.4.2. Xét theo phương thức tương tác thì có thể phân biệt hai loại giả dối là giả dối trực tiếp và giả dối gián tiếp. Giả dối trực tiếp là hình thức giả dối mà trong quá trình tương tác, chủ thể và khách thể cùng đối mặt với nhau, có sự tương tác tại chỗ giữa các đối tác. Các thành viên giao tiếp có thể thay đổi vai với nhau thường xuyên, tạo nên những tác động bất ngờ làm thay đổi diễn tiến của hành động giả dối. Giả dối gián tiếp là hình thức tương tác có sử dụng giả dối khi các đối tác không nhìn thấy nhau, các cử chỉ, hành động, cảm xúc tương tác bị hạn chế rất nhiều, không có không gian xung quanh rộng hơn để kiểm chứng. 1.4.3. Giả dối xét theo chủ thể: Theo đối tượng tham gia tương tác, có thể phân biệt giả dối xét theo chủ thể và theo khách thể. Giả dối có chủ thể là cá nhân ( giả dối cá nhân) là trường hợp thường xảy ra nhất vì chủ thể tương tác là người chủ động và vì vậy có thể giữ bí mật sự thật ở mức độ cao. Trường hợp đặc biệt là khi chủ thể va khách thể la một. Đó là hiện tượng dối lòng, dối mình, tự lừa dối xảy ra rất phổ biến trên toàn thế giới (tiếng Pháp: se mentir a soi-même, tiếng Nga: самобман, сам обманываться). Giả dối khi chủ thể là một tập thể (giả dối tập thể) là trường hợp khá đặc biệt vì nhận thức của các cá nhân trong tập thể không giống nhau. Để có được hành vi giả dối tập thể thì bao giờ cũng phải có sự bàn bạc, thỏa thuận trước, và đề cử cá nhân hoặc nhóm đại diện thực hiện. Hiện tượng giả dối khi cả chủ thể và khách thể đều là tập thể thì việc giả dối này được gọi là giả dối chính thức. 1.4.4. Giả dối xét theo khách thể: Đối tác của con người trong hoạt động giả dối rất đa dạng: các yếu tố tự nhiên, siêu nhiên, hay chính bản thân con người. Với đối tượng là người cùng cộng đồng, đây là lối giao tiếp nội văn hóa. Những người cùng cộng đồng mặc định là cùng chung ngôn ngữ nên hiện tượng nói dối là phổ biến. Với đối tượng là người ngoài cộng đồng, đây là lối ứng xử xuyên văn hóa. Đại đa số các hành vi giả dối là làm giả bằng các hành động và các phụ kiện hỗ trợ. Với đối tượng là thế giới siêu nhiên và thế giới tự nhiên, đây là lối ứng xử xuyên loài. Trong mối quan hệ với thế giới siêu nhiên, con người dùng nhiều cách để qua mặt ma quỷ, thánh thần, các thế lực linh thiêng. Trong mối quan hệ với thế giới tự nhiên xung quanh, con người với sự phát triển tư duy vượt trội đã không dừng ở các cách đánh lừa thô sơ để săn mồi làm thức ăn, mà phát triển vượt bậc về thủ thuật, kinh nghiệm và công cụ phục vụ việc câu, bẫy thành nghề kiếm sống. 1.4.5. Giả dối xét theo tình huống ứng xử: Xét theo tình huống, giả dối bao gồm giả dối chủ động và giả dối bị động. Giả dối chủ động là hình thức ứng xử mà trong đó chủ thể chủ ý làm hay nói sai sự thật nhằm đánh lạc hướng khách thể. Có thể nói tính chủ động (vụ lợi) của hiện tượng giả dối càng giới hạn trong một hệ tọa độ có quy mô nhỏ về chủ thể - thời gian - không gian bao nhiêu thì tính phi giá trị / phi văn hoá của nó càng lớn bấy nhiêu. Giả dối đồng thời là công cụ giúp cho chủ thể đối phó với sự bất tiện của sự thật trong cuộc sống (sự thật mất lòng), giả dối trở thành một bộ phận của văn hoá đối phó với những sai sót, khiếm khuyết, bất tiện trong cuộc sống con người, trở thành giả dối bi động. 1.5. Tiểu kết Trên cơ sở 11 định nghĩa ở năm ngôn ngữ khác nhau, chúng tôi đã phân tích các ý nghĩa cấu thành và đưa ra một định nghĩa làm việc về giả dối với ba đặc trưng cơ bản: (a) Về hình thức, là sự đánh giá được gán cho hành động tương tác; (b) Về tính chất của nội dung, là chủ thể đưa ra cái sai sự thật; (c) Về động cơ, là cố ý khiến khách thể tiếp nhận như sự thật. Đồng thời xác định hai đối tượng quan trọng cần khảo sát là (a) Hanh động giả dối và (b) Kết quả đánh giá hanh động giả dối. Từ các khái niệm“văn hóa”, “giá trị”, “sự thật”, luận án đã đưa ra cách phân biệt “nửa sự thật - giả dối” (do cố ý làm sai lệch so với hiện thực) và nửa sự thật do hạn chế của nhận thức và diễn giải. Từ đó lý giải tính giá trị và phi giá trị của giả dối, đồng thời xác định khả năng các giá trị giả dối trở thành giá trị văn hóa trong đời sống con người. Lý do tồn tại của hành động giả dối được trình bày dưới dạng năm tiền đề tự nhiên và ba tiền đề xã hô iê cùng bốn điều kiện để thực hiện thành công hành động giả dối. Đây là các điều kiện cần và đủ để hành động giả dối tồn tại trong cuộc sống. Căn cứ vào các thành tố tham gia chi phối hành động tương tác, ứng xử, luận án đã đề xuất năm bình diện (năm cách phân loại) các hiện tượng giả dối: (a) Giả dối xét theo phương tiện tương tác, (b) Giả dối xét theo phương thức tương tác, (c) Giả dối xét theo chủ thể, (d) Giả dối xét theo khách thể, và (e) Giả dối xét theo tình huống ứng xử. Điều này cho thấy các nhóm hành động giả dối rất đa dạng, phong phú và chúng hoạt động tích cực như một cách ứng xử với tự nhiên và xã hội bên ngoài cũng như bên trong đời sống xã hội của con người. Chương 2: HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI NHÌN TỪ VĂN HÓA TỔ CHỨC VÀ ỨNG XỬ 2.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử xuyên loài với các lực lượng siêu nhiên 2.1.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong các phong tục liên quan đến sự thay đổi vị thế tự nhiên của chủ thể: Vị thế tự nhiên của con người gắn với bản thân đứa trẻ sinh ra theo quy luật tự nhiên (trời sinh), như ngày giờ sinh, nơi sinh, cha mẹ. Khi lỡ sinh ra phải giờ xấu, người Việt thường làm lễ cúng xin đổi tuổi, còn gọi là “ Lễ đổi mệnh”, “Lễ cải mệnh”, hay làm “lễ thay cung, hoán số" thay đổi một vài thông số trong số phận như cho con, bán lam con nuôi, hoặc bỏ đường bỏ chợ, bán khoán đứa trẻ..., thực chất là thay tên giả, dùng tuổi giả, người giả thế mạng, tìm thêm bố mẹ giả cho người sinh vào giờ xấu. 2.1.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong các phong tục liên quan đến sự thay đổi vị thế xã hội của chủ thể: Trong đời sống hàng ngày, để qua mặt các hiện tượng siêu nhiên, người ta thường hạ thấp vai trò, tầm quan trọng của mình để tránh sự chú ý của ma quỷ, hy sinh một phần quyền lợi của đứa trẻ để bảo vệ chính nó, giảm nhẹ vai trò của những đứa trẻ trong gia đình, che giấu những điều cao quý, đẹp đẽ của đứa trẻ đi để ma quỷ khỏi ghen tức mà làm hại đứa bé. Đối với việc hôn nhân và gia đình thì với những trường hợp cô dâu chú rể không hợp tuổi, gia đình sẽ giấu đi việc trái ý trời đất bằng cách cố ý làm dối như: tổ chức cưới hai lần, làm đám cưới giả, đổi vợ, đổi chồng… hay hợp thức hoá bằng cách không theo đầy đủ các lễ nghi truyền thống để qua mặt tổ tiên và các vị thần linh. Để thay đổi tình trạng kinh tế nhằm lừa ma quỷ, người ta có thể mượn tuổi của người thân hoặc mượn người cúng thay, dùng các vật giả hoặc cỗ giả để cúng cho ma quỷ như đốt vàng mã. 2.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử với các lực lượng tự nhiên 2.2.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong hoạt động săn bắt: Giả dối với đối tác là động vật thể hiện rõ nhất trong việc con người làm các loại cạm, bẫy săn bắt thú. Con người sáng tạo ra hiện trường giả khéo léo sao cho giống như thật nhằm đánh lừa con vật bằng các loại bẫy, mồi, bả.. Từ ghép “cạm bẫy” với nghĩa “bố trí sẵn để lừa” được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Kỹ năng cơ bản để có thể che giấu sự can thiệp của con người và các công cụ đánh bắt từ xa là ngụy trang, biến có thanh không. Người ta có thể ngụy trang người và các vật dụng hòa lẫn vào môi trường xung quanh, hoặc biến hình thành thứ khác hấp dẫn hoặc đe dọa, ngăn cản động vật đến gần, xâm phạm vào tài sản của con người. 2.2.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong hoạt động thuần hóa và chăn nuôi: Để có thể thuần hóa được các loài hoang dã, con người tạo ra một môi trường giả tương tự, đưa một môi trường mô phỏng vào thay thế nhằm bắt động vật phát triển theo ý con người bằng cách can thiệp vào thức ăn, chỗ ở tùy theo thói quen và cách thức sinh hoạt của các loài. Trong quá trình chung sống, con người luôn có những biện pháp can thiệp và điều chỉnh cuộc sống của vật nuôi theo ý muốn của mình, tùy mục đích lấy thịt, trứng, sữa, da, lông… mà có chế độ chăm sóc khác nhau. 2.3. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử nội loài xuyên văn hóa 2.3.1. Kỹ thuật che giấu: Trong chiến tranh, đặc biệt là đấu tranh vũ trang,mục tiêu chiến đấu là tiêu diệt sinh lực địch, giành thắng lợi bằng mọi cách. Các biện pháp giả dối chủ yếu được sử dụng để che giấu là: biến có thành không, biến không thành có, phóng đại hoặc thu nhỏ lại nhằm đánh lừa đối phương. Về hình thức, trong quân sự, ngụy trang là biện pháp tránh đối đầu trực diện, giành thế chủ động chọn thời điểm tấn công. Quan trọng nhất là đánh lừa thị giác đối phương bằng cách thay đổi ngoại hình của bản thân và các vật thể liên quan để chúng lẫn vào môi trường xung quanh. 2.3.2. Kỹ thuật nghi binh: Kỹ thuật nghi binh thực chất là những hoạt động giả nhằm đánh lạc hướng đối phương để che giấu ý đồ, bảo đảm thành công trong các trận chiến đấu. Ở Trung Hoa, Hàn Phi Tử đã có câu nói nổi tiếng: “Binh bất yếm trá” (việc binh tha hồ dối trá). Để đảm bảo chiến thắng trong đánh giặc thì phải Binh giả, quỷ đạo giã (Dùng binh đánh giặc là hành động dối trá). Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, quân đội Việt Nam đã nhiều lần dùng chiến thuật nghi binh để chống lại các lực lượng thiện chiến và trang bị đầy đủ hơn của quân thù. 2.3.3. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động du kích: Chiến tranh du kích là cách đánh của kẻ yếu bắt buộc phải đương đầu với kẻ mạnh nên cần dùng cách đánh khôn khéo. Đánh du kích là cách giữ bí mật lực lượng của ta, nghiên cứu kỹ tình hình quân địch, tìm ra điểm yếu, những sơ hở để lừa địch bằng mưu kế, tránh hoặc giảm thiểu đối đầu mà vẫn đạt mục đích là tiêu diệt sinh lực địch. Đây chính là dùng giả dối gián tiếp để tránh đối đầu. 2.3.4. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động gián điệp: Đặc thù của nghề gián điệp là làm việc trong lòng địch. Do vậy, yếu tố quan trọng nhất là bí mật (= che giấu sự thật). Vì tính chất này mà gián điệp buộc phải có lý lịch giả, có nhiều tên giả với các giấy tờ, hồ sơ giả tương ứng, khai báo thông tin giả về nhân thân, và trong quá trình hoạt động không ngừng phải giả dối, nói sai sự thật để thực hiện nhiệm vụ và đối phó với nguy cơ bị phát hiện, với triết lý phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng, trong trường hợp nghề gián điệp là chống giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc. Ngược lại, để đối phó với hệ thống gián điệp thì bộ phận phản gián luôn tìm cách phát hiện gián điệp trong hàng ngũ của mình, cũng phải sử dụng thuật giả dối để phá án (= chống giả dối). 2.3.5. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động ngoại giao: Nhà ngoại giao nhiều khi phải nói dối để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đến cùng lợi ích quốc gia và dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà nhà ngoại giao được định nghĩa một cách khôi hài là “người trung thực được cử ra nước ngoài để nói dối vì lợi ích quốc gia”. Vì danh dự quốc gia, các nhân viên trong ngành ngoại giao phải tuân thủ các quy tắc thành văn và bất thành văn trong những giao tiếp quốc tế đa văn hóa. Trong hầu hết các trường hợp, các nhà ngoại giao phải phân thân, quên đi những suy nghĩ, mong muốn của cá nhân mình, mà nhập vai vì quyền lợi lâu dài của quốc gia và “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để bảo vệ sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi diễn tiến kinh tế, chính trị, quân sự khu vực và quốc tế. 2.4. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử nội văn hóa 2.4.1. Tổ chức hoạt động giả dối phục vụ lợi ích tập thể, cộng đồng: Xã hội tồn tại và phát triển nhờ có hệ thống chuẩn mực và đạo đức xã hội cùng với luật pháp giúp điều chỉnh để xã hội vận hành theo đúng hướng, tạo điều kiện cho con người sống bình an, hạnh phúc. Các hành động giả dối được sử dụng để chống lại hành động phá vỡ chuẩn mực, làm rối loạn xã hội, gây nguy hiểm cho cá nhân và tập thể, đi ngược lại với lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng cần bị trấn áp để tránh hậu họa cho dân lành nói riêng và cả xã hội nói chung, giải quyết các mâu thuẫn đối kháng giữa cá nhân với tập thể hoặc mâu thuẫn giữa các tập thể với nhau theo các quy ước chung của từng tập thể, được cộng đồng chấp nhận. 2.4.2. Tổ chức hoạt động giả dối phục vụ lợi ích cá nhân: Các hành động giả dối mang lại lợi ích cá nhân đồng thời phải không làm tổn hại đến tập thể, xã hội mới có thể được cộng đồng chấp nhận. Loại này có thể quy về ba nhóm: (1) các hành động giả dối mang tính giải trí được đưa ra trình diễn, công bố cho đông đảo quần chúng thưởng thức mang lại giá trị tinh thần, sự hứng khởi cho người thưởng thức (như ảo thuật, kịch, điện ảnh…); (2) Các hành động giả dối vì lòng tốt, nhân ái hỗ trợ, giúp đỡ những người xung quanh mình, đặc biệt là những người yếu thế gặp khó khăn, khiếm khuyết hoặc bị đẩy ra ngoài lề xã hội (như bác sĩ – bệnh nhân…) và (3) hành động tự lừa dối bản thân (dối lòng). 2.5. Tiểu kết Trên cơ sở phân tích khái niệm ứng xử và giả dối trong hệ thống ứng xử, xét về mức độ mâu thuẫn trong tương tác thì giả dối hoạt động tốt trên cả hai lĩnh vực tương tác dựa trên mâu thuẫn và tương tác trung tính (không mâu thuẫn). Trong ứng xử xuyên loài với siêu nhiên là những thế lực vô hình, con người sử dụng hai cách giả dối: cách thay thế các yếu tố tự nhiên trong đời sống những con người kém may mắn, yếu đuối cần bảo vệ, bằng các yếu tố khác tương tự và cách thay đổi vị thế xã hội của họ bằng cách tăng, giảm hoặc sử dụng đồ giả kém hơn để lừa các thế lực siêu nhiên. Trong ứng xử xuyên loài với giới tự nhiên, con người có hai mục đích khác nhau: săn bắt và thuần dưỡng vật nuôi. Trong hai hình thức này thì cách chủ yếu là dùng bẫy, mồi nhử và ngụy trang để lừa con vật vào thế do con người chủ động đặt ra. Sự khác biệt chủ yếu là đối với vật nuôi, quá trình diễn ra từ từ, lặp lại có cải tiến khiến cho con vật bị thuần dưỡng dần dần từ thú hoang thành vật nuôi hoàn toàn phụ thuộc vào con người. Trong ứng xử nội loài xuyên văn hóa, giả dối có giá trị khi mang lại lợi ích cho dân tộc trong trường hợp ứng xử giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc. Đây là loại ứng xử sử dụng các phương tiện và cách thức tương tự như ứng xử với tự nhiên trong trường hợp săn bắt, song chúng tinh vi hơn và triệt để hơn ở chỗ triển khai đồng thời trên nhiều mặt trận: đấu tranh vũ trang (kỹ thuật che giấu và nghi binh), đấu tranh du kích, đấu tranh gián điệp và đấu tranh ngoại giao. Trong ứng xử nội văn hóa, tất cả các hành động giả dối mang lại lợi ích cho cộng đồng để đảm bảo quyền lợi của số đông trong việc duy trì và phát triển cuộc sống. Ở đây, xem xét, phân tích một số hoạt động mang tính nghiệp vụ của công an, các nhà lãnh đạo – quản lý xã hội. Đối với những giá trị của hành động giả dối mang lợi ích cá nhân cần phân tích rõ từng trường hợp, trong đó điều kiện tiên quyết là không ảnh hưởng tới lợi ích tập thể. Chương 3: HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI NHÌN TỪ VĂN HOÁ TẬN DỤNG VÀ LƯU LUYẾN 3.1. Các đặc trưng bản chất của giả dối 3.1.1. Tính chủ động của giả dối: Giả dối là loại hành động có sự tham dự của trí tuệ, sự sắp đặt trước đã tạo ra bước tiến vượt bậc hướng tới mục đích bảo vệ những thứ mình đang có, đồng thời tăng thêm lợi ích và vị thếcho mình. Người ta có thể thiết kế từng hành động đơn lẻ, và cũng có thể xây dựng các tổ hợp hoặc các chương trình lớn dựa trên các hành động giả dối như một chiến dịch lừa đảo. Giả dối là công cụ giúp con người đạt được thành công trên cả hai bình diện bảo vệ và tấn công, trong đó thiên về tấn công hơn. Giả dối là hành động có động cơ được xác định trước của chủ thể và có đích tới là khách thể bị lừa, do vậy giả dối có tính chủ động cao, có mục đích hướng tới kết quả là lừa người khác. 3.1.2. Tính phổ biến của giả dối: Giả dối có thể xuất hiện mọi lúc, mọi nơi. Tính phổ biến của giả dối được ghi nhận trong nhiều tài liệu khác nhau như kho tàng tục ngữ của nhiều dân tộc, trong Kinh Thánh, trong các kết quả nghiên cứu điều tra và cả những nhận xét của các nhà văn, người nổi tiếng… Ngày nay, do ảnh hưởng của giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới và việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào cuộc sống khiến xã hội phát triển ngày càng nhanh mà quan niệm về đạo đức, giá trị cũng có nhiều thay đổi. Cách nhìn nhận về giả dối cũng có nhiều sự khác biệt so với truyền thống càng khiến giả dối càng trở nên phổ biến hơn. 3.1.3. Tính nhất thời của giả dối: Giả dối luôn thiếu tính chân thật, và do vậy, nó không thể và không bao giờ có thể trở thành giá trị phổ quát, giá trị vĩnh cửu. Bản chất của giả dối là thiếu tính chân thật, nên giả dối luôn chỉ có giá trị nhất thời do sự biến động của bối cảnh, chuẩn mực xã hội ở từng thời điểm khác nhau. Giả dối và các giá trị của nó mang tính nhất thời, khi những giá trị này thay đổi và không còn phổ biến nữa, có nguy cơ biến mất, thì người ta có xu hướng hồi tưởng, ghi nhớ để trao truyền cho các thế hệ sau. 3.1.4. Tính tương đối của giá trị giả dối: Giá trị của giả dối được đánh giá dựa trên cơ sở triết lý, kinh nghiệm sống và thang đo của các cá nhân, cộng đồng tiếp nhận, và kết quả rất khác nhau. Tính giá trị phái sinh phụ thuộc vào đối tác trong tương tác, dễ bị thay đổi khi có các yếu tố bên ngoài tác động vào khiến cho cách đánh giá giá trị của giả dối biến đổi theo thời gian, phụ thuộc vào quan niệm đạo đức xã hội và những quy định, pháp luật. Xét về mặt không gian, giá trị của giả dối phụ thuộc vào loại hình văn hóa, thể chế chính trị, năng lực kinh tế văn hóa. 3.2. Các công dụng của giả dối 3.2.1. Tránh căng thẳng, mâu thuẫn nhất thời: Khi sự thật thô bạo, phũ phàng và bất tiện, giả dối là phương tiện để đối phương không biết sự thật, giúp cho quá trình nhận biết sự thật chậm lại, giúp tránh căng thẳng, tránh mâu thuẫn nhất thời. Giả dối được con người lựa chọn như một cách làm cho cuộc sống của mình dễ chịu hơn, tránh gây tổn thất cho các bên đối tác, tránh làm người khác đau lòng, bất bình. Trong giao tiếp trực tiếp, nói dối hiển nhiên là có tác dụng rất lớn trong việc tránh căng thẳng, mâu thuẫn, trong khi nói thẳng, nói thật có thể gây mất lòng, mất thể diện cho đối tác, gây hoang mang, mất tình cảm, đoàn kết giữa các bên. 3.2.2. Điều chỉnh và làm chủ quá trình tương tác: Để có cuộc sống ổn định, để bảo vệ khu vực riêng tư cần tôn trọng, trong một số trường hợp, giả dối có thể tận dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm điều chỉnh và làm chủ mối quan hệ giữa các bên theo đúng phạm vi cho phép của cá nhân cũng như của môi trường và hoàn cảnh xã hội để làm cho cuộc sống của mình dễ chịu hơn. Bằng cách không cung cấp thông tin thật và mức độ khác biệt giữa sự thật và giả dối có thể cho thấy mức độ tình cảm hay sự gần gũi trong các mối quan hệ giữa các đối tượng tham gia tương tác. Tùy theo ý muốn chủ quan của mình, chủ thể có thể điều chỉnh mức độ, khoảng cách theo ý muốn. M.L. Krasnikov gọi chức năng này của giả dối là “phương tiê nê điều chỉnh giao tiếp cá nhân”. 3.2.3. Chỉ báo khoảng cách giữa các đối tác: Giả dối là hiện tượng tương tác không cùng chung mục đích khi tồn tại mâu thuẫn không thể giải quyết giữa các đối tác. Khách thể muốn tìm hiểu sự thật, nhưng chủ thể lại xây dựng, mô phỏng sự thật để che giấu mục đích của mình. Giả dối được sử dụng để điều chỉnh khoảng cách và đồng thời làm chỉ báo khoảng cách xã hô êi (mức độ thân mật) giữa các đối tác thông qua nội dung của hành động ứng xử. Chủ đề của câu chuyện giao tiếp giữa các thành viên nói lên mối quan hệ thân – sơ/ gần – xa giữa họ. Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, việc dùng các loại bẫy khác nhau thể hiện các mối quan hệ khác nhau. Tương tự, người ta dùng dùng mồi để bắt sống con vật, còn dùng bả để lừa giết con vật. Trong chiến tranh để tiêu diệt đối phương, người ta sử dụng các loại bẫy sát thương vì chúng là kẻ thù không đội trời chung trong cuộc chiến một mất một còn. Trong các cuộc chiến chống tội phạm, dù là tội phạm nguy hiểm, cảnh sát, công an chỉ dùng các biện pháp lừa tội phạm nhẹ nhàng hơn, ít gây thương tích nặng. 3.2.4. Đánh lạc hướng đối tác: Ích lợi quan trọng thứ tư, và cũng có vẻ rõ ràng nhất của giả dối, là đánh lạc hướng đối tác, hướng đối tác đi chệch ra khỏi mục tiêu để không biết sự thật. Chính vì chức năng này mà giả dối còn được gọi là lừa dối (lừa bằng thủ đoạn giả dối).Điều này có thể thực hiện khi thiết kế thêm các mục tiêu giả song song với mục tiêu thật làm phân tâm đối tác. Sử dụng thuật nghi binh làm rối loạn tầm kiểm soát và đánh lạc hướng của đối phương được sử dụng nhiều trong quân sự. 3.2.5. Khuyến khích suy nghĩ năng động và khả năng bao quát: Giả dối làm nên những lợi ích phù hợp và tiện dụng theo thời gian, song lại dễ thay đổi, mang tính nhất thời. Tính chủ động, sự năng động, uyển chuyển của giả dối mang lại những lợi ích mới, thay thế, đào thải những yếu tố cũ, lạc hậu, thuận lợi cho việc tiếp thu cái mới trong giao lưu. Giả dối, vì thế, có tác dụng phá vỡ sự trì trệ của xã hội và kích thích xã hội phát triển, khuyến khích suy nghĩ năng động và khả năng bao quát được con người tận dụng để phục vụ cho cuộc sống của mình. Công dụng này của giả dối được thể hiện rõ trong các hoạt động giáo dục, chính trị, nghệ thuật… 3.3. Cách giáo dục giả dối 3.3.1. Giáo dục giả dối trong gia đình: Ngay từ khi còn nhỏ, đứa trẻ đã được tiếp xúc với giả dối bằng những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn với khá nhiều tình huống mà trong đó xuất hiện hiện tượng nói dối hoặc làm giả, những trò chơi mô phỏng thực tế cuộc sống xã hội với nhân vật do các em tự đóng vai. Trẻ em được ông bà, cha mẹ hướng dẫn cách dạy không làm phiền người khác, kiềm chế cảm xúc, làm vui lòng người khác… khiến những đứa trẻ tinh khôn có thể thực hành những hành động lừa dối từ rất nhỏ. Mặt khác, những hành động, lời nói của người lớn là khuôn mẫu để trẻ học theo. 3.3.2. Giáo dục giả dối ở trường học: Trong trường học, học sinh cũng được làm quen với giả dối từ rất sớm. Trong các sách ở bậc tiểu học đã có một số bài học chứa các hành động làm giả hay nói dối với mục tiêu là thông qua đó để dạy lối sống trung thực hoặc dạy cách tận dụng giả dối để phục vụ cho cuộc sống của mình. Các em được khuyến khích học theo hành động giả dối được xem là khôn ngoan trong các truyện được đưa vào sách giáo khoa các cấp. Một số hoạt động thường xuyên trong các trường phổ thông được tập luyện, phân công dàn dựng trước… vô tình trở thành bài học về cách sống giả dối đối với học sinh. 3.3.3. Giáo dục giả dối ngoài xã hội: Người ta học được nhiều bài học về nói dối, làm giả từ truyền thống văn hóa dân tộc và những việc làm đang xảy ra ngoài xã hội. Những hành động giả dối mang lại giá trị văn hóa trong ứng xử là những bài học trực quan, gần gũi dễ thực hành. Trong đời sống xã hội có rất nhiều các đồ giả, các trò chơi giải trí đi vào cuộc sống giúp ích cho con người. Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển, truyền thông thông minh, “xã hội ảo” ra đời đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp thông tin không đúng sự thật. Trong đời sống hàng ngày, người ta cũng bày cho nhau những cách thức bảo vệ bản thân, gia đình, tài sản có những yếu tố nói dối hay làm giả. 3.4. Văn hóa lưu luyến giả dối 3.4.1. Lưu luyến giả dối trong các loại hình nghệ thuật: Những quan tâm, gắn bó với giả dối, làm giả khiến người ta lưu giữ trong nhiều loại hình nghệ thuật và bằng nhiều hình thức khác nhau. Về mặt nội dung, các loại hình âm nhạc, điện ảnh, văn học, đặc biệt là văn học dân gian lưu giữ khá nhiều kinh nghiệm liên quan tới giả dối mang tính hai mặt: Một mặt là cảnh báo, lên án, phê phán các hiện tượng giả dối, nhưng mặt khác cũng khẳng định sự cần thiết của giả dối trong cuộc sống, khuyến khích việc tận dụng nó. 3.4.2. Lưu luyến giả dối trong đời sống thực tiễn: Các loại hình nghệ thuật đến lượt mình ảnh hưởng trở lại thực tiễn khiến cho cuộc sống phát triển đa dạng hơn, phong phú hơn dưới các hình thức mới phục vụ cho con người. Ở nhiều nước trên thế giới còn lưu luyến, lưu giữ được hình ảnh những sản phẩm liên quan đến hành vi giả dối bằng các lễ hội như lễ hội bù nhìn, lễ hội Halloween, ngay nói dối Cá tháng Tư, các lễ hội hóa trang giúp giải tỏa cuộc sống khỏi các ràng buộc xã hội. Và cái hại của sự giả dối cũng được ghi nhận, nhắc nhở, nhằm đưa con người hướng tới sự trung thực như cảnh báo sự trừng phạt giả dối bằng biểu tượng cậu bé gỗ Pinocchio mũi dài. 3.5. Tiểu kết Giả dối như một hành động thuộc hệ thống ứng xử mang lại lợi ích xét từ góc độ tình cảm trong những tình huống cụ thể có bốn đặc trưng bản chất: (a) Tính chủ động, (b) Tính phổ biến, (c) Tính nhất thời, (d) Tính tương đối. Trên cơ sở khai thác các đặc trưng này phục vụ cho lợi ích của mình, văn hoá tận dụng giả dối đã phát huy năm ích lợi (giá trị) cơ bản của giả dối là: (a) Tránh căng thẳng, mâu thuẫn nhất thời, (b) Điều chỉnh và làm chủ quá trình tương tác, (c) Chỉ báo khoảng cách giữa các đối tác, (d) Đánh lạc hướng đối tác, và (e) Khuyến khích suy nghĩ năng động và khả năng bao quát. Để phát huy được các ích lợi (giá trị) của giả dối, văn hoá tận dụng giả dối của các dân tộc đã tiến hành việc giáo dục giả dối trên ba bình diện: (a) Giáo dục trong gia đình; (b) Giáo dục ở trường học; (c) Giáo dục ngoài xã hội Bên cạnh văn hoá tận dụng, văn hóa lưu luyến giả dối đã lưu giữ lại các đặc tính, các ý nghĩa và bản thân các hiện tượng giả dối trong những liên tưởng tới các hiện tượng khác khiến người ta nghĩ đến giả dối trong hai bình diện: (a) Lưu luyến giả dối trong các loại hình nghệ thuật; (b) Lưu luyến giả dối trong đời sống thực tiễn. Chương 4: HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI NHÌN TỪ VĂN HOÁ ĐỐI PHÓ 4.1. Tính phi giá trị của giả dối 4.1.1. Tính phi giá trị của giả dối nhìn từ quan hệ: Xã hội được xây dựng ổn định dựa trên niềm tin, sự tin tưởng, gắn kết lẫn nhau giữa các thành viên. Giả dối là hành động nói hay làm không đúng sự thật, đánh lừa đối tác, sẽ gây hiểu nhầm, dẫn đến làm mất lòng tin, gây những xáo trộn đáng kể trong quản lý con người và cơ cấu xã hội. Đây là sự vi phạm đạo đức rất lớn khiến nó trở thành yếu tố phi giá trị, phi văn hoá. Về mặt cá nhân, hành động giả dối xúc phạm nghiêm trọng thể diện của khách thể. Trong xã hội hiện đại đang công nghiệp hoá, đô thị hoá, thiếu sự quản lý chặt chẽ tạo môi trường lý tưởng cho giả dối phát triển, đặc biệt là giả dối phi văn hoá. 4.1.2. Tính phi giá trị của giả dối nhìn từ suy nghĩ, tình cảm: Để tránh bị phát hiện và trừng phạt, khi thực hiện hành vi giả dối nói chung và nói dối nói riêng − nhất là nói dối chủ động − người bình thường sẽ phải trải qua nhiều cảm xúc tâm lý căng thẳng và phức tạp. Các nhà tâm lý học Nga đã tổng kết bốn loại cảm xúc có thể xảy ra khi làm giả hoặc nói dối tương ứng với bốn giai đoạn của hành động, đó là: (1) Cảm giác tội lỗi; (2) Nỗi sợ hãi; (3) Phấn kích do căng thẳng - cảm giác toàn năng; (4) Xấu hổ. Ngoài ra, các áp lực xã hô iê khi giả dối có khả năng bị phát giác hay niềm tin bị xói mòn sẽ khiến cho người ta lo lắng. Ngay cả khi những lời nói dối không bị phát giác thì người nói dối vẫn có cảm giác bị lương tâm cắn rứt. 4.1.3. Tính phi giá trị của giả dối nhìn từ lợi ích: Nhìn từ góc độ lợi ích thìcác truyền thống đạo đức và văn hoá khác nhau đều xem nó như một hiện tượng về cơ bản là phi giá trị. Các nền văn hoá phương Tây với truyền thống coi trọng vai trò cá nhân, tư duy theo lối phân tích duy lý, dẫn đến giao tiếp theo lối trực khởi, chuộng cách giao tiếp theo lối nói thẳng, nói thật, coi nói dối là biểu hiện của sự yếu đuối, bất lực, là hiê ên tượng tô iê lỗi, chống lại người khác và chống lại chính mình. Trong các nền văn hoá phương Đông, quan niệm đạo đức phổ biến ở đây là lên án những cá nhân có thái độ, hành động giả dối chỉ vì lợi ích của riêng mình mà gây tổn hại đến lợi ích của cộng đồng. 4.2. Văn hóa phát hiện giả dối 4.2.1. Phát hiện trực tiếp: Trong giao tiếp ứng xử, sự khác biệt, mâu thuẫn giữa thông tin nguồn và thông tin nhận được trong nhiều trường hợp là dấu hiện và bằng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan