Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam [tt]...

Tài liệu Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam [tt]

.PDF
16
392
83

Mô tả:

32 2. Quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng theo khoản 1 Điều này phải được bên bị thiệt hại đưa ra không chậm trễ và phải Bổ sung có căn cứ. Việc yêu cầu sửa đổi hợp đồng không cho Khoản 2: phép các bên được đơn phương tạm ngừng thực hiện, hậu quả chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp có căn pháp lý cứ do hợp đồng hoặc do pháp luật qui định để áp dụng các quyền đó. Bổ sung Khoản 3: quyền yêu cầu cơ quan tài phán can thiệp Bổ sung Khoản 4: Căn cứ để tòa án can thiệp và nội dung, hậu quả pháp lý áp dụng đối với bên vi phạm 3. Nếu bên được đề nghị sửa đổi hợp đồng từ chối, hoặc không trả lời, hoặc các bên không thỏa thuận được việc sửa đổi hợp đồng trong một thời gian hợp lý, thì mỗi bên có quyền yêu cầu tòa án hoặc trọng tài (nếu hợp đồng có thỏa thuận chọn thủ tục trọng tài) giải quyết. 4. Nếu tòa án hoặc trọng tài xác định sự kiện khách quan xảy ra là có căn cứ để cho phép bên bị thiệt hại được quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng như qui định tại khoản 1 Điều này, và nếu thấy hợp lý, thì tòa án hoặc trọng tài có thể đưa ra một trong các quyết định sau đây: a. Sửa đổi hợp đồng nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng; hoặc b. Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do tòa án quyết định. Bên từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý rất phức tạp cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Về mặt học thuyết, nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng cho thấy một cách rõ nét nhất sự mâu thuẫn giữa hai nguyên tắc điều chỉnh hiệu lực hợp đồng: nguyên tắc pacta sunt servanda (tuân thủ hợp đồng) và nguyên tắc rebus sic stantibus (cho phép điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi). Đây là hai nguyên tắc luôn cùng tồn tại, vừa chế ước, vừa bổ sung cho nhau. Mối quan hệ giữa hai nguyên tắc này là vấn đề mở và chưa bao giờ được giải quyết triệt để. Từ đó, đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu để hoàn thiện cả về lý luận và các qui định pháp luật về hiệu lực hợp đồng. Trong thực tiễn lập pháp, vấn đề hiệu lực của hợp đồng cũng đã được qui định khá cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Tuy nhiên, một số quy định về hiệu lực hợp đồng trong BLDS 2005 cũng đã bộc lộ nhiều điều bất cập, gây khó khăn cho công tác giải quyết các tranh chấp có liên quan. Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hiện vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi trong giới luật học, đặc biệt là điều kiện hình thức và đường lối xử lý các hợp đồng vi phạm hình thức. Qui định về thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế và không khả thi. Thực tiễn xét xử cho thấy, do những thiếu sót, bất cập nêu trên của nội dung pháp luật hợp đồng đã khiến cho việc hiểu và vận dụng những điều luật này của các Toà án các cấp và các địa phương gặp nhiều lúng túng, thiếu nhất quán trong đường lối xét xử. Những bất cập trên đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện. So với pháp luật hợp đồng của một quốc gia (Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga…), các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế (PICC, PECL), qui định trong luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế đòi hỏi cần phải có 2 sự cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, theo hướng tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật hợp đồng của các nước và của các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế, làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng hoàn thiện và có sự tương đồng hơn so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm, dưới những góc độ khác nhau. 2.1. Ở nước ngoài: Có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập đến các vấn đề có liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, như: Richard Stone, The Modern Law of Contract, 5th ed., Cavendish, London 2002; Hein Kotz & Axel Flessner, European Contract Law, Vol 1 – Formation, Validity and Content of Contract…, Clarendon, Oxford 1997; MacMillan C.A. & R. Stone, Elements of the Law of Contract, University of London, London 2004; Mathias Reinmann & Reinhard Zimmermann, The Oxford Handbook of Comparative Law, OUP, Oxford 2006; Basil Markesinis & others, The German Law of Contract – A Comparative Treaties, 2nd ed., Hart, Oxford 2006; Catherine Kessedjian, Competing Approaches to Force Majeure and Hardship, International Review of Law and Economics 25 (2005)… Các công trình này không nghiên cứu chuyên biệt về hiệu lực hợp đồng nói chung, và hiệu lực hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam, nói riêng. 2.2. Ở trong nước: Ở cấp độ các đề tài Luận án tiến sỹ, như “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm Hữu Nghị; “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả 31 Đề xuất Nội dung cụ thể Điều 423a. Sửa đổi hợp đồng (dân sự)2 khi hoàn cảnh thay đổi Bổ sung vào BLDS 2005 toàn bộ các qui định mới về việc sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: Bổ sung Khoản 1: qui định căn cứ để sửa đổi hợp đồng 2 1. Một bên có quyền yêu cầu bên kia sửa đổi hợp đồng khi xảy ra sự kiện khách quan làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên bất thường, hoặc do giá trị của khoản thu nhập đáng lẽ nhận được từ hợp đồng giảm xuống bất thường, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác. Được coi là ‘sự kiện khách quan’ nếu thỏa mãn các điều kiện sau đây: - Xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng, trừ những sự kiện bên đó đã biết hoặc đáng lẽ phải biết; - Xảy ra khách quan, nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị thiệt hại; - Rủi ro về các sự kiện này không thuộc trường hợp qui định tại các Điều 440 BLDS 2005, Điều 57 đến Điều 62 Luật Thương mại 2005 và các qui định tương tự trong BLDS 2005 và Luật Thương mại 2005; Được coi là ‘bất thường’ nếu chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc giá trị của khoản thu nhập đáng lẽ thu được từ hợp đồng giảm xuống đáng kể, ngoài dự kiến và vượt ngoài phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán của lĩnh vực tương ứng. Hai từ “dân sự” để trong ngoặc đơn nói trên nhằm phù hợp với Điều 423 BLDS 2005 hiện hành. Hai từ này được dự kiến sẽ phải bỏ đi cho phù hợp với các qui định khác mang tính hệ thống của pháp luật hợp đồng, tạo sự thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng nói chung. 30 thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định. Điều 303. Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật Sửa đổi khoản 1 Điều 303 1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn thì phải thanh toán giá trị của vật; nếu vật bị hư hỏng thì bên có quyền có thể từ chối nhận vật và yêu cầu thanh toán giá trị của vật, hoặc nhận vật đồng thời yêu cầu bên có nghĩa vụ sửa chữa hoặc thanh toán tiền sửa chữa hoặc thanh toán thêm phần giá trị của vật bị giảm sút, hoặc nhận vật và yêu cầu giảm giá tương ứng với phần giá trị của vật bị giảm sút, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Sửa đổi khoản 2 2. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải thanh toán giá trị của vật. Trong trường hợp vật cùng loại là các hàng hóa đặc biệt không dễ dàng tìm thấy trên thị trường và bên có quyền bị vi phạm không có khả năng tìm được nguồn hàng hóa khác để thay thế, thì tòa án có thể buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải giao đúng vật đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Giữ nguyên khoản 3 3. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này... Phụ lục số 4 Sửa đổi, bổ sung các qui định về sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi 3 pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ; “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” của TS. Nguyễn Văn Cường. Một số sách nghiên cứu có liên quan tới một số khía cạnh pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, như quyển Việt Nam Dân luật - luợc khảo của GS.Vũ Văn Mẫu, Bộ QGGD, Sài Gòn 1968; Pháp luật về hợp đồng của TS. Nguyễn Mạnh Bách, Nxb. CTQG, H. 1995; Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Nxb. Tư pháp, H. 2007; Nguyễn Thị Mơ (Cb), Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử, Nxb. LĐ-XH, H. 2006; Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án của TS. Đỗ Văn Đại, Nxb. CTQG, H. 2008. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí, như Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng của PGS.TS. Đinh Văn Thanh (Luật học, số Chuyên đề về BLDS, 1996); Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa; Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng của TS. Phạm Công Lạc (Pháp luật Việt Nam, Số chuyên đề 01, 11/2004)… Những công trình khoa học kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam, nhưng những công trình kể trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận án. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật là không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam, trên cơ sở đối chiếu với qui định về hiệu lực hợp đồng của một số quốc gia trên thế giới và một số Bộ 4 nguyên tắc hợp đồng quốc tế nhằm góp phần làm rõ và làm phong phú thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật quốc tế về hợp đồng; đồng thời đưa ra những kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các qui định còn bất cập, thiếu sót trong pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng theo xu hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hiệu lực của hợp đồng, như: làm rõ khái niệm và bản chất của vấn đề hiệu lực của hợp đồng, xây dựng khái niệm cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng; làm rõ cơ sở lý luận và các vấn đề pháp lý liên quan đến hiệu lực của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ảnh hưởng của nó đối với hiệu lực pháp luật của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. - Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam, bao gồm cả việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật liên quan và những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập của pháp luật về hiệu lực của hợp đồng, đánh giá thực trạng của qui định pháp luật về hiệu lực của hợp đồng, để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi, bổ khuyết trong các văn bản pháp luật về hợp đồng hiện hành của Việt Nam. - Trên cơ sở những bất cập đã được xác định để từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp pháp lý cụ thể trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết làm căn cứ cho việc đề xuất những kiến nghị và giải pháp cụ thể đó. 29 Bổ sung Khoản 5: khi có qui ước: im lặng là trả lời chấp nhận và loại trừ 5. Theo thỏa thuận, hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên, hoặc pháp luật có qui định im lặng là sự trả lời, và đề nghị giao kết hợp đồng có ấn định thời hạn trả lời, thì hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng. Qui định này không áp dụng đối với việc doanh nghiệp bán hàng có gửi các thông tin quảng cáo hoặc gửi hàng hóa đến địa chỉ giao dịch của người tiêu dùng. Sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 405 Đ i ề u 4 0 5 . Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự Bổ sung qui định khoản 2 Điều 405 (mới) 1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 2. Các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một thời điểm xác định, nhưng không được sớm hơn thời điểm giao kết hợp đồng theo qui định tại Điều 404 của Bộ luật này. Nếu pháp luật có qui định hợp đồng có hiệu lực tại một thời điểm xác định, thì các bên không được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sớm hơn thời điểm đó. Phụ lục số 3 Sửa đổi, bổ sung các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng Đề xuất Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể Bổ sung Điều 405a Điều 405a. Hiệu lực của hợp đồng (dân sự) 1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực như pháp luật đối với các bên tham gia hợp đồng. (mới) 2. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ, nếu có 28 lạc khác, hoặc nếu chỉ có trả lời chấp nhận là được làm bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được văn bản trả lời chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác. Thời điểm nhận được thông điệp dữ liệu được áp dụng theo qui định của Luật Giao dịch điện tử. 4. Trong trường hợp bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng bằng một hành vi cụ thể, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi đó, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác. Bổ sung Khoản 4: qui định thời điểm giao kết hợp đồng bằng hành vi cụ thể Nếu hợp đồng được giao kết gián tiếp, hoặc tuy giao kết trực tiếp mà một hoặc các bên dành một thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo của bên được đề nghị về việc bắt đầu thực hiện hành vi cụ thể đó. Nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận bằng việc thực hiện một công việc cụ thể nhưng không thông báo về việc này cho bên đề nghị biết, thì hợp đồng giao kết vào thời điểm hoàn thành công việc. Nhưng nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên, hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chấp nhận đề nghị bằng một hành vi cụ thể mà không cần phải thông báo cho bên đề nghị, thì hợp đồng được giao kết khi bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi này. 5 4. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung: Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề rất rộng. Mặt khác, vấn đề hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính nguyên lý chung của hợp đồng và được qui định chủ yếu trong BLDS, nên nội dung của Luận án tập trung phân tích các qui định trong phần chung về hợp đồng trong BLDS 2005. Điều này không có nghĩa Luận án chỉ nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực dân sự. Bởi lẽ, khái niệm hiệu lực hợp đồng được trình bày trong Luận án là khái niệm chung nhất cho mọi hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng dân sự, kinh doanh – thương mại và các hợp đồng khác. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn việc phân tích chỉ những vấn đề hiệu lực của hợp đồng theo nghĩa rộng (bao gồm chủ yếu là các hợp đồng kinh doanh – thương mại và hợp đồng dân sự), như qui định tại Điều 1 BLDS 2005,1 mà không phân tích các hợp đồng trong lĩnh vực lao động. Bên cạnh đó, luận án còn phân tích về các qui định có liên quan đến hiệu lực của hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản liên quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này. Ngoài ra, nội hàm của khái niệm hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác của pháp luật hợp đồng, như qui định về việc thực hiện hợp đồng, tạm hoãn thực hiện hợp đồng do có sự vi phạm hoặc dự đoán có sự vi phạm hợp đồng của bên kia, chấm dứt hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, giải thích hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, phân chia rủi ro, thông tin bất cân xứng… Tuy nhiên, đề tài cũng không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề khác có liên quan tới hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ đi sâu tìm hiểu các vấn đề về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu 1 Điều 1 BLDS 2005 qui định: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)…” 6 27 Phụ lục số 2 lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, sự hạn chế hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. - Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, đề tài cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng (dân sự, kinh doanh – thương mại) trên thực tế, tại Tòa án và Trọng tài Thương mại Việt Nam, tính từ ngày BLDS 1995 được ban hành, đặc biệt là từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lê nin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến các qui định về hiệu lực của hợp đồng. Trong đó, chú trọng sử dụng phương pháp lô ghích pháp lý, phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa qui định về hiệu lực của hợp đồng trong phần chung BLDS với các qui định về hiệu lực của các hợp đồng dân sự thông dụng trong BLDS, và với các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong các luật chuyên ngành. Trong một số vấn đề cụ thể (thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi) cũng có so sánh với pháp luật hợp đồng của một số nước như Pháp, Đức, Nga, Nhật, Trung Quốc... Đề tài cũng sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia trong một vài vấn đề cụ thể, và phương pháp khảo sát đánh giá thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của các luật gia làm công tác thực tiễn pháp lý, qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong việc giải quyết tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng tại Việt Nam từ khi BLDS 1995 được ban hành đến nay. Cách nghiên cứu vấn đề theo “chiều dọc” nhằm làm rõ toàn bộ các nội dung pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng trong mối quan hệ biện chứng từ khi giao kết, xác lập, thực hiện hợp đồng đến khi sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, và từ những qui định mang tính nguyên tắc Sửa đổi, bổ sung các qui định về thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng Đề xuất Sửa đổi bổ sung Khoản 1: nguyên tắc chung Bổ sung Khoản 2: đề nghị gián tiếp Bổ sung Khoản 3: qui định thời điểm giao kết hợp đồng trực tiếp, bằng văn bản Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể Điều 404. Thời điểm giao kết hợp đồng 1. Hợp đồng được giao kết tại thời điểm các bên đã thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phải được giao kết theo hình thức, thủ tục xác định thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm hoàn tất hình thức, thủ tục đó. 2. Khi hợp đồng được giao kết gián tiếp thông qua thư tín hoặc các phương tiện thông tin, liên lạc khác, hoặc tuy được giao kết trực tiếp nhưng một hoặc các bên dành một thời hạn để chờ bên được đề nghị trả lời, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. 3. Trong trường hợp việc giao kết hợp đồng được các bên xác lập trực tiếp, trên cùng một văn bản, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản; nếu hợp đồng được lập thành nhiều văn bản có nội dung giống nhau, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm mỗi bên đã ký vào văn bản của bên kia. Văn bản được lập chỉ cần các bên hoặc người đại diện hợp pháp của các bên ký tên và ghi rõ họ tên là đủ mà không cần phải có thêm thủ tục nào khác, kể cả việc phải đóng dấu của các bên, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định điều này. Nếu các bên giao kết hợp đồng bằng văn bản được gửi qua bưu điện, hoặc phương tiện thông tin, liên 26 Bổ sung khoản 3 Điều 134 (mới) 7 với các giao dịch khác nếu pháp luật có qui định minh thị về việc loại trừ áp dụng qui định tại Điều này với loại giao dịch khác đó. chung cho đến ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực hợp đồng. Mặt khác, trong mỗi vấn đề, tác giả cũng sử dụng cách thức truyền thống là đi từ nghiên cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, và cuối cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 3. Nếu giao dịch dân sự được lập không đúng hình thức do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định và thiếu một trong các điều kiện qui định tại khoản 2 Điều này (như vừa được bổ sung ở trên – tác giả chú thích), thì theo yêu cầu của các bên, toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 137 của Bộ luật này. 6. Ý nghĩa khoa học Điều 401. Hình thức hợp đồng Sửa đổi khoản 1 Điều 401 1. Hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể, hoặc bằng các hình thức vật chất khác có thể diễn đạt được ý chí của các bên và chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng, hoặc bằng sự kết hợp của hai hay nhiều hình thức kể trên. Sửa đổi khoản 2 Điều 401 2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng hình thức nhất định thì hợp đồng phải được giao kết theo đúng hình thức đó. Đề tài nghiên cứu có hệ thống về các vấn đề pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng, đưa ra những định hướng và đề xuất các kiến nghị cụ thể mà kết quả của nó sẽ là cơ sở khoa học cho việc xây và hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, góp phần tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống pháp luật nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung, vào trào lưu chung của thế giới. Góp phần làm hoàn thiện pháp luật hợp đồng cũng là góp phần vào việc bảo đảm cho các quan hệ hợp đồng ở Việt Nam được ổn định, an toàn pháp lý và tránh được các rủi ro cho các bên chủ thể, bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng, quyền được pháp luật bảo vệ khi tham gia các quan hệ hợp đồng và các quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng. Kết quả nghiên cứu đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hợp đồng trong các trường đào tạo về luật. 7. Những điểm mới của luận án Bãi bỏ đoạn 2, khoản 2 ... Bổ sung khoản 3 (mới) 3. Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng phải được lập bằng một hình thức xác định. Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận án có một số điểm mới sau đây: - Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề hiệu lực hợp đồng, phân tích và làm rõ nội hàm của các khái niệm hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng (chương 1) kiến nghị thay thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ trong qui định tại Điều 388 BLDS 2005 bằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (chương 1); - Hai là, xây dựng các khái niệm mới hiệu lực của hợp đồng (chương 1), cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng (chương 1), 8 điều khoản điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi theo quan niệm pháp lý Việt Nam (trên cơ sở tiếp thu từ khái niệm hardship trong thực tiễn thương mại quốc tế), và làm rõ nội hàm của các khái niệm này (chương 5). Đây là những khái niệm mới chưa được đề cập trong các công trình khoa học pháp lý trước đây. - Ba là, trong mỗi chương, tác giả đều chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót của pháp luật hiện hành và của thực tiễn áp dụng, đồng thời dựa trên những kết quả đó để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các qui định tương ứng, như các kiến nghị: hoàn thiện các qui định về hình thức hợp đồng và hậu quả pháp lý khi hợp đồng vi phạm qui định bắt buộc về hình thức (chương 2) [Xem Phụ lục 1]; sửa đổi, bổ sung các qui định về thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực hợp đồng (chương 3) [Phụ lục 2]; bổ sung qui định về nguyên tắc và ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực ràng buộc hợp đồng, đồng thời hoàn thiện các giải pháp khắc phục do vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng (chương 4) [Phụ lục 3]. - Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về xu hướng cho phép điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và áp dụng pháp luật về nội dung tương ứng trong pháp luật của nước ngoài và của các bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng, từ đó kiến nghị Việt hóa khái niệm này thành khái niệm ‘sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi’, và đề xuất bổ sung vào trong BLDS 2005 căn cứ cho phép sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi với những tiêu chí, đường lối, giải pháp cụ thể (chương 5) [Phụ lục 4]. 8. Kết cấu của luận án Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội dung của Luận án gồm 5 chương. 25 Phụ lục số 1 Sửa đổi, bổ sung các qui định về hình thức hợp đồng Đề xuất Nội dung của các điều khoản mới d5 sửa đổi, bổ sung Sửa đổi Điều 134 và thiết kế thành khoản 1 Điều 134 (Mới) Điều 134. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 1. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, tùy từng trường hợp mà toà án, hoặc cơ quan có thẩm quyền khác có thể công nhận hiệu lực của giao dịch hoặc tuyên bố giao dịch vô hiệu theo các căn cứ được qui định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. 2. Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp giao dịch vi phạm hình thức mà các bên có bằng chứng hợp pháp khác chứng minh được sự tồn tại của giao dịch, đã chuyển giao cho nhau một phần hoặc toàn bộ đối tượng của hợp đồng, đã thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền cần thanh toán, và nếu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một hoặc các bên. Bổ sung: khoản 2 Trong trường hợp hiệu lực của giao dịch được công Điều nhận mà các bên chưa thực hiện hoàn tất nghĩa vụ giao vật 134 thì phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giao vật; nếu các bên (mới) chưa hoàn tất nghĩa vụ trả tiền thì phải tiếp tục trả khoản tiền còn thiếu, theo tỷ lệ tương ứng tính theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật qui định khác. Qui định này không áp dụng đối với hợp đồng tặng cho tài sản, di chúc; qui định này cũng không áp dụng đối 24 PICC, PECL). Chương 5 tập trung nghiên cứu về thực tiễn pháp lý về điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) với tính chất là một căn cứ làm hạn chế hiệu lực hợp đồng, thông qua việc khảo sát thực tiễn pháp lý này ở một số nước trên thế giới để tìm hiểu về những kinh nghiệm thích hợp phục vụ cho việc xây dựng, bổ sung các qui định tương ứng vào BLDS 2005. Trên cơ sở đó, phần kiến nghị chương 5 đã đưa ra các đề xuất cụ thể, như: Việt hóa khái niệm hardship để đưa vào qui định trong luật Việt Nam với tên gọi là điều khoản “sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi” và thiết kế thành Điều 423a BLDS 2005; đồng thời bổ sung các căn cứ, các tiêu chí cụ thể để cho phép các bên được yêu cầu tòa án, trọng tài can thiệp buộc các bên phải thương lượng lại hợp đồng trong một thời hạn và theo thủ tục xác định; nếu các bên không chịu thương lượng lại, hoặc thương lượng không thành công, hoặc việc thương lượng lại không thể thực hiện được, thì tùy trường hợp mà tòa có thể can thiệp để sửa hợp đồng hoặc tuyên bố chấm dứt hợp đồng. (Xem phụ lục 4). 8. Trong bối cảnh ngày càng gia tăng xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa của các nền kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế thương mại giữa các quốc gia đã tác động và làm thay đổi sâu rộng trong nhận thức đối với các học thuyết pháp lý về hiệu lực hợp đồng, sự khẳng định ngày càng rõ rệt của xu hướng nhất thể hóa, hài hòa hóa giữa các hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng, thì việc cần sớm tìm một cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đáp ứng các yêu cầu của tình hình mới, là yêu cầu cấp bách của khoa học pháp lý. 9. Hiệu lực của hợp đồng là một đề tài có nội dung phức tạp và phạm vi nghiên cứu rất rộng, liên quan tới nhiều nội dung phức tạp khác, nên trong quá trình nghiên cứu, tác giả chưa có điều kiện để giải quyết hết được, tác giả coi đó như hướng nghiên cứu tiếp khi có điều kiện, như vấn đề hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, giải thích hợp đồng… 9 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG 1.1. Khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng 1.1.1. Khái niệm hợp đồng Khái niệm hợp đồng khởi nguồn từ thuật ngữ ‘contractus’ trong tiếng La-tinh. Ở Việt Nam, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng trong thực tế đời sống để chỉ về hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ ưng thuận… Trong cổ luật, các nhà làm luật sử dụng các từ như ‘văn tự’, ‘văn khế’ để chỉ hợp đồng. Pháp luật thời cận đại sử dụng thuật ngữ ‘khế ước’ hoặc ‘hiệp ước’. Pháp luật của nhà nước ta ban đầu cũng sử dụng thuật ngữ ‘khế ước’ do kế thừa pháp luật trước đó. Về sau, nhà làm luật còn sử dụng các thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’, ‘hợp đồng kinh tế’, hợp đồng ‘thương mại’… Và, hiện nay BLDS 2005 chính thức sử dụng thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ để chỉ khái niệm hợp đồng nói chung. Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa hợp đồng (dân sự) tại Điều 388 BLDS 2005 là chấp nhận được. Tuy vậy, để đảm bảo tính chuẩn xác của thuật ngữ này, tác giả kiến nghị Quốc hội cần sửa đổi Điều 388 BLDS 2005 theo hướng bỏ hai từ ‘dân sự’ kèm theo sau thuật ngữ ‘hợp đồng’. Theo đó, Điều 388 BLDS 2005 sẽ được viết lại là: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. 1.1.2. Bản chất của hợp đồng Bản chất của hợp đồng được tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên. Thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự bày tỏ ý chí’ của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ‘ưng 10 thuận’ tương ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự ‘đồng thuận’ của các bên, nhằm đạt một mục đích xác định. Không phải là mọi thỏa thuận đều trở thành hợp đồng mà chỉ những thỏa thuận nhằm tạo ra hậu quả pháp lý, tức làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự thì mới có thể trở thành hợp đồng. Một hợp đồng hợp pháp phải được giao kết, xác lập tuân thủ các điều kiện do pháp luật qui định. 1.2. Khái niệm hiệu lực hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng 1.2.1. Khái niệm hiệu lực hợp đồng Khái niệm hiệu lực hợp đồng chưa được tìm thấy trong trong các tài liệu khoa học pháp lý Việt Nam và trên thế giới. Trên cơ sở nhận thức bản chất của ‘hiệu lực hợp đồng’, có thể đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng như sau: Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia hợp đồng phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó. Việc nhận thức đúng khái niệm hiệu lực hợp đồng là nền tảng lý luận để nghiên cứu quá trình tạo lập, xác nhận giá trị pháp lý và hiệu lực thực thi hợp đồng, và tiếp cận các vấn đề khác có liên quan trong các chương tiếp theo của Luận án. 1.2.2. Hiệu lực tương đối của hợp đồng Qua nghiên cứu, Luận án xác định hiệu lực tương đối của hợp đồng không chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên trực tiếp tham gia hợp đồng, mà còn có giá trị đối người thứ ba kế vị pháp lý của chủ thể hợp đồng (do thừa kế, do cải tổ của pháp nhân…), và người thứ ba không phải là người kế vị pháp lý (hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba). Giá trị pháp lý của hợp đồng còn được pháp luật bảo đảm, và được các chủ thể khác tôn trọng. 23 điểm có hiệu lực của hợp đồng là hai loại thời điểm khác nhau, có ý nghĩa pháp lý khác nhau. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm giao kết hợp đồng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác. Qua khảo sát thực trạng các qui định pháp luật về thời có hiệu lực của hợp đồng và thực tiễn áp dụng, xác định: nội dung Điều 404 là chưa lô gích và chưa chặt chẽ, khoản 2 Điều 404 chưa dự liệu trường hợp đồng ý bằng sự im lặng do pháp luật qui định; Điều 405 có tiêu đề chưa phù hợp, nội dung của Điều 405 chưa đầy đủ và còn gây nhiều tranh cãi. Từ đó, phần kiến nghị đã đưa ra một số đề xuất cụ thể: sửa đổi cơ bản và bổ sung một số qui định mới vào Điều 404 về thời điểm giao kết hợp đồng; bổ sung qui định về việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực hợp đồng và thiết kế thành khoản 2 (mới) của Điều 405 BLDS 2005. (Xem phụ lục 2). 6. Chương 4 nghiên cứu cơ bản về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Đây là nội dung phức tạp, có liên quan tới nhiều qui định khác của pháp luật về nghĩa vụ dân sự, về thực hiện hợp đồng và trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng hợp đồng. Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy cần phải có những sửa đổi, bổ sung nhất định vào các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Cụ thể: bổ sung Điều luật qui định trực tiếp về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 303 BLDS 2005 về trách nhiệm đối với có nghĩa vụ giao vật đặc định bị hư hỏng; Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 303 Bộ luật Dân sự về trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật cùng loại. (Xem phụ lục 3). 7. Thực tiễn pháp lý cho thấy, có những vấn đề liên quan tới sự hạn chế hiệu lực hợp đồng theo yêu cầu của nguyên tắc công bằng và nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp tác, nhưng chưa được dự liệu trong luật thực định và chưa được biết đến một cách rộng rãi trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam hiện nay – đó là vấn đề hardship – tình thế đặc biệt khó khăn. Đây là vấn đề đã được chấp nhận trong luật thực định và thực tiễn tư pháp ở nhiều quốc qua trên thế giới, cũng như đã được đưa vào các bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng (như 22 11 chương, kết hợp với chương lý luận chung về hiệu lực hợp đồng, tạo thành năm chương của luận án. 1.3. Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng 3. Nội dung chương 1 tập trung làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về hiệu lực hợp đồng, như trình bày khái niệm hợp đồng, phân tích bản chất của hợp đồng. Nội dung trọng tâm của chương 1 là làm rõ khái niệm hiệu lực hợp đồng và nội hàm của khái niệm này. Kết quả nghiên cứu của chương 1 là: kiến nghị sửa đổi thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ thành “hợp đồng” để đảm bảo tính chính xác của khái niệm này; xây dựng được các khái niệm mới ‘hiệu lực hợp đồng’, ‘cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng’ làm tiền đề lý luận để tiếp cận và nghiên cứu các vấn đề pháp lý tiếp theo. Khái niệm cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng chưa được tìm thấy trong các tài liệu nghiên cứu hiện nay. Tác giả cho rằng, cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng được xác lập từ hai bộ phận cấu thành: các giải pháp tác động và các nhân tố đảm bảo hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Từ đó, tác giả đưa ra định nghĩa về cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng như sau: 4. Nội dung chương hai nghiên cứu về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng với tính chất là điều kiện để bảo cho hợp đồng được lập hợp pháp và có giá trị pháp lý. Vấn đề các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được qui định khá cụ thể trong luật thực định, đồng thời cũng được nhiều học giả nghiên cứu khá hoàn thiện, trừ vấn đề hình thức hợp đồng (giao dịch dân sự) và hậu quả pháp lý do hợp đồng bị vi phạm hình thức vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận và chưa thống nhất. Bởi vậy, nội dung chương hai chỉ trình bày nội dung của các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ở mức độ căn bản, và dành trọng tâm nghiên cứu đối với vấn đề hình thức hợp đồng. Kết quả nghiên cứu các qui định về hình thức hợp đồng cho thấy thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử liên quan tới vấn đề hợp đồng bị vi phạm hình thức và hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị vi phạm về hình thức vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa nhất quán. Trên cơ sở đó, phần kiến nghị đã đưa ra một số đề xuất cụ thể, như kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 134 BLDS 2005; bổ sung khoản 2, khoản 3 Điều 134 (mới); sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 401; sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 401; bãi bỏ đoạn 2, khoản 2, Điều 401;bổ sung khoản 3 Điều 401. (Xem phụ lục 1). 5. Nội dung chương 3 nghiên cứu về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Pháp luật Việt Nam hiện hành xem thời điểm giao kết và thời 1.3.1. Khái niệm cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng là hệ thống các nguyên tắc, phương pháp, giải pháp được pháp luật sử dụng để tác động tới các nhân tố tham gia vào quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, nhằm đảm bảo cho hiệu lực hợp đồng được tôn trọng và được thực thi một cách công bằng và hợp lý. 1.3.2. Nội dung của cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng Nội dung này thể hiện qua hai nguyên tắc sau: (i) Nguyên tắc tuân thủ hợp đồng - pacta sunt servanda (hay còn gọi là nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng). Pacta sunt servanda trong tiếng La Tinh, có thể diễn đạt ngắn gọn là: đã hứa thì phải làm. Đây là nguyên tắc chính của cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. Ý nghĩa của việc áp dụng nguyên tắc này là buộc các bên tham gia giao dịch dân sự, khi đưa ra các cam kết hợp pháp, thì phải có trách nhiệm thực hiện các cam kết đó một cách trung thực, công bằng và hợp lý. (ii) Nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích - ‘rebus sic stantibus’ (nguyên tắc ‘nguyên trạng bất biến’). Nội dung cơ bản của nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích được hiểu là: sau khi hợp đồng phát sinh hiệu lực, nếu có sự thay đổi lớn và không lường trước được về hoàn cảnh thực tế so với thời điểm xác lập hợp đồng, thì các bên có thể đàm phán lại để điều chỉnh các nội dung có liên quan của hợp đồng cho phù hợp với mong muốn của các bên và lẽ công bằng, thậm chí là chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng. 12 Để điều chỉnh tốt các quan hệ pháp luật hợp đồng và hiệu lực hợp đồng, nhà làm luật cần xây dựng một cơ chế pháp lý thích hợp để qui định toàn bộ các vấn đề có liên quan tới hiệu lực hợp đồng, trong suốt quá trình từ khi xác lập đến khi chấm dứt hợp đồng, như: thời điểm giao kết, thời điểm có hiệu lực, điều kiện có hiệu lực, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng và chế độ trách nhiệm dân sự do vi phạm hiệu lực hợp đồng. Chương 2 ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG Nội dung chương hai nghiên cứu khái quát về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được qui định tại Điều 122 BLDS 2005 và các qui định khác có liên quan. 2.1. Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực Theo qui định tại Điều 122 BLDS 2005, các điều kiện đó là: (1) Chủ thể tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự; (2) Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội; (3) Chủ thể tham gia hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Sự tự nguyện được hiểu là có sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự bày tỏ ý chí’, tức không bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, giả tạo, và không xác lập hợp đồng vào lúc không nhận thức, điều khiển hành vi của mình. Đây là các điều kiện cần để hợp đồng có hiệu lực. Các hợp đồng không tuân thủ một trong các điều kiện trên thì đương nhiên vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Nhìn chung, các điều kiện có hiệu lực hợp đồng nói trên đã được nhiều luật gia nghiên cứu và được pháp luật qui định tương đối hoàn chỉnh trong BLDS 2005. 2.2. Hình thức hợp đồng - điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khi pháp luật có qui định Hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung hợp đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể 21 (iv) Dự liệu những khả năng hoặc hướng xử lý của tòa án, hoặc trọng tài khi giải quyết tranh chấp loại này (khoản 4). (v) Kiến nghị HĐTP – TANDTC sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn đường lối giải quyết các tranh chấp loại này, với những nội dung như đã được nêu trong các kiến nghị ở trên; đồng thời khuyến nghị các bên tham gia xác lập, giao kết các hợp đồng dài hạn hoặc có gắn với các rủi ro khó lường cần đưa điều khoản hardship vào hợp đồng của mình để làm cơ sở pháp lý trong việc điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và giải quyết các tranh chấp phát sinh sau này. Các kiến nghị cụ thể được trình bày trong phụ lục 4. KẾT LUẬN 1. Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng nhằm làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, và hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế của hợp đồng nhằm buộc các bên phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó. Hiệu lực của hợp đồng cũng là nội dung cốt lõi thể hiện bản chất của hợp đồng. Đây là vấn đề pháp lý rất phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác của pháp luật hợp đồng, như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc thực hiện đúng hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, giải thích hợp đồng, sửa đổi và chấm dứt hợp đồng… Các nội dung đó không phải là những vấn đề độc lập mà là một tổng thể có mối liên hệ thống nhất với nhau, tạo thành một chỉnh thể gọi là cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. Do vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện qui định pháp luật về hiệu lực hợp đồng cũng có nghĩa là hoàn thiện toàn bộ cơ chế đó. 2. Luận án tập trung nghiên cứu những nội dung trọng tâm của vấn đề hiệu lực hợp đồng, như vấn đề điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, và hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Mỗi nội dung vừa nêu được thiết kế thành một 20 Việc nghiên cứu pháp luật các nước và qui định của các bộ nguyên tắc hợp đồng quốc về điều khoản hardship cho phép chúng ta rút ra được những kinh nghiệm quí báu khi xây dựng các qui định pháp luật về hardship ở Việt Nam. 5.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp lý Việt Nam về điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi Điều khoản hardship chưa được biết đến nhiều trong luật thực định Việt Nam, và cũng chỉ được qui định khá sơ lược trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Chính sự thiếu sót này đã làm cho cả cơ quan tư pháp lẫn các bên liên quan lúng túng khi giải quyết các tranh chấp liên quan vì thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết. Thực tiễn xét xử cũng xuất hiện các tranh chấp loại này, nhưng cách giải quyết hiện nay giữa các tòa án là chưa nhất quán, cũng như chưa đề cập tới điều khoản hardship trong việc giải quyết tranh chấp. 5.4. Kiến nghị xây dựng và hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi Trên cơ sở những kinh nghiệm của quá trình soạn thảo điều khoản hardship trong pháp luật của các nước và trong các bộ nguyên tắc về hợp đồng quốc tế, luận án đã đưa ra những khuyến nghị cụ thể đối với nhà làm luật trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định trong phần chung của pháp luật hợp đồng. Theo đó: (i) Bổ sung vào BLDS 2005 một điều luật mới (Điều 423a) để qui định về “Sửa đổi hợp đồng (dân sự) khi hoàn cảnh thay đổi”, với các nội dung cụ thể như: qui định rõ khái niệm và điều kiện của quyền sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (khoản 1); (ii) Qui định thủ tục yêu cầu bên kia sửa đổi hợp đồng, nhưng các bên không được tạm ngừng hay hủy bỏ hợp đồng vì lý do khi một bên có yêu cầu sửa đổi hợp đồng (khoản 2); (iii) Qui định cụ thể quyền yêu cầu tòa án hoặc trọng tài giải quyết khi việc yêu cầu sửa đổi hợp đồng không thành công (khoản 3). 13 hiện và công bố ý chí của các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng. Hình thức không phải điều kiện có hiệu lực của mọi hợp đồng, mà chỉ là điều kiện có hiệu của hợp đồng khi pháp luật có qui định loại hợp đồng đó phải được xác lập bằng những hình thức nhất định. Pháp luật hiện hành qui định hợp đồng có thể được lập bằng các hình thức: lời nói, văn bản, hành vi cụ thể. Hợp đồng dưới dạng thông điệp dữ liệu cũng được coi là hợp đồng bằng văn bản. Các hợp đồng quan trọng liên quan tới trật tự công cộng, lợi ích của nhà nước, quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác… thường được pháp luật qui định phải lập thành văn bản, văn bản công chứng, chứng thực, hoặc phải đăng ký. Khi pháp luật qui định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thì hợp đồng phải được lập đúng qui định đó. BLDS 2005 qui định hợp đồng vi phạm hình thức luật định thì không đương nhiên vô hiệu. Trong trường hợp có tranh chấp, tòa án ra quyết định buộc các bên phải hoàn tất hình thức hợp đồng trong một thời hạn xác định. Hết thời hạn đó mà các bên không thực hiện hoàn tất hình thức hợp đồng đúng như qui định của pháp luật thì tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, và giải quyết hậu quả pháp lý theo qui định chung của pháp luật. 2.3. Một số bất cập trong các qui định hiện hành về hình thức hợp đồng và định hướng hoàn thiện Qua nghiên cứu cho thấy, một số qui định của pháp luật hiện hành về hình thức hợp đồng còn thiếu linh hoạt, chưa dự liệu hết các khả năng của thực tế; đường lối giải quyết tranh chấp đối với các hợp đồng vi phạm hình thức chưa được khả thi và chưa phân hóa được từng trường hợp vi phạm cụ thể. Thực tiễn xét xử của các cấp tòa án về hợp đồng vi phạm hình thức còn nhiều bất cập, thiếu nhất quán. Nguyên nhân cơ bản là do qui định của pháp luật liên quan đến vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập, người dân thiếu ý thức chấp hành pháp luật về hình thức hợp đồng, và đôi khi do sai sót, hoặc nhận thức chủ quan của một số cán bộ làm công tác xét xử. 14 Từ cách tiếp cận vấn đề như trên, mục 3 đã đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các qui định liên quan tới hình thức hợp đồng: i) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 401 BLDS 2005 để qui định này trở nên linh hoạt, đầy đủ và tương thích với qui định về hợp đồng trong các Bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng; (ii) Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 401 làm cho nội dung Điều luật này trở nên ngắn gọn và thống nhất với các qui định khác; (iii) Bỏ đoạn 2 khoản 2; (iv) Bổ sung khoản 3 Điều 401 qui định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định. (v) Sửa đổi, bổ sung Điều 134 BLDS 2005 theo hướng bãi bỏ cách giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu như hiện nay, và thay vào đó là đường lối giải quyết mới, bằng cách qui định các căn cứ cụ thể để công nhận, hoặc không công nhận giá trị pháp lý của giao dịch, nếu giao dịch bị vi phạm hình thức mà các bên có tranh chấp. Các kiến nghị cụ thể được trình bày tại phụ lục 1. Chương 3 THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG Chương này nghiên cứu về khái niệm, các qui định chung về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, một số bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các nội dung liên quan. 3.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: khái niệm và qui định chung Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là mốc để xác định thời điểm khởi lưu của hiệu lực của hợp đồng. Theo pháp luật Việt Nam, thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là hai loại thời điểm khác nhau. 19 Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi - điều khoản hardship là điều khoản qui định cho phép một bên trong hợp đồng có quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những tác động khách quan làm thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh tế, tới mức gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của một hoặc các bên, làm mất đi cân bằng kinh tế của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém. Theo đó, điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi qui định những cơ chế can thiệp hợp lý vào hiệu lực hợp đồng, như cho phép các bên yêu cầu tòa án điều chỉnh hợp đồng, hoặc nếu không điều chỉnh được thì cho chấm dứt hợp đồng, nhằm tái lập sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong hợp đồng, theo những căn cứ, thủ tục, điều kiện chặt chẽ và hạn chế. Đây được xem là là nguyên tắc vừa đối lập, vừa bổ sung cho nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng; đồng thời cũng là một ngoại lệ quan trọng và không thể thiếu của nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng. Nội dung cơ bản của điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: (i) Quy định khái niệm điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và hạn chế áp dụng; (ii) Nghĩa vụ thương thảo lại hợp đồng và các thủ tục pháp lý cần thiết của việc thương thảo lại hợp đồng; (iii) Thương thảo lại không thành công và hậu quả pháp lý của nó. 5.2. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) trong pháp luật các nước và trong tập quán thương mại quốc tế Ở các mức độ khác nhau, điều khoản này đã được chấp nhận khá phổ biến ở rất nhiều nước (Pháp, Đức, Italia, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Hy Lạp, Đan Mạch, Nhật Bản…), cũng như được ghi nhận trong nhiều bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (Bộ Nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế, Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng châu Âu). 18 15 của hợp đồng, và hạn chế quyền đơn phương rút lui khỏi hợp đồng đã có hiệu lực; Thời điểm giao kết hợp đồng được xác định chủ yếu dựa vào hình thức của hợp đồng và phương thức trả lời chấp nhận đề nghị. (ii) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 303 BLDS 2005 theo hướng bổ sung thêm các giải pháp khắc phục trong trường hợp vật đặc định phải giao bị hư hỏng; Hợp đồng được lập hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác hoặc pháp luật qui định khác. Có một số loại hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm do pháp luật qui định, như các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản trong những trường hợp do pháp luật qui định... (iii) Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 303 BLDS 2005 qui định về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ giao vật cùng loại để ghi nhận các trường hợp ngoại lệ, khi vật cùng loại bị khan hiếm trên thị trường và khi người bị vi phạm không có khả năng tìm nguồn khác thay thế, thì bên có nghĩa vụ bị cưỡng chế phải giao vật cùng loại, thay vì chỉ phải thanh toán giá trị vật và bồi thường thiệt hại. Chương 5 HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI Trong bối cảnh có sự thay đổi không ngừng của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, kỹ thuật, thông tin, chính sách và các yếu tố khác làm cho các quan hệ hợp đồng ngày càng gặp nhiều rủi ro và pháp luật hợp đồng cũng luôn thay đổi. Để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các bên trong các hợp đồng dài hạn và cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp giữa các bên sau này, các thương gia quốc tế thường đưa vào hợp đồng của mình điều khoản xử lý tình thế đặc biệt khó khăn, gọi là điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi điều khoản hardship (hay change of circumstances). Trong bối cảnh trên và trong xu thế Việt Nam ngày cáng hội nhập sâu rộng mọi mặt vào các thể chế kinh tế quốc tế, việc tìm hiểu để tiếp thu và đưa qui định về điều khoản hardship vào pháp luật thực định Việt Nam, là một yêu cầu cần thiết. Chương này tìm hiểu về thực tiễn pháp lý nói trên, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện các qui định về điều khoản hardship trong luật thực định và thực tiễn xét xử ở các nước và các bộ nguyên tắc thương mại quốc tế về hợp đồng. 5.1. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: khái niệm và nội dung cơ bản Hợp đồng có điều kiện phát sinh hiệu lực từ thời điểm sau khi hợp đồng đã được giao kết và điều kiện phát sinh hiệu lực đã xảy ra (nếu chọn điều kiện là sự kiện xảy ra), hoặc không xảy ra (nếu chọn điều kiện là sự kiện không xảy ra). 3.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng Qua nghiên cứu cũng cho thấy, thực trạng các qui định này vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập như: việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa trên yếu tố hình thức của hợp đồng là chưa khoa học, chưa chặt chẽ; nội dung điều luật chưa dự liệu hết các tình huống của thực tiễn đời sống và bố cục điều luật cũng chưa hợp lý; qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo thỏa thuận của các bên vẫn chưa rõ ràng, cụ thể nên còn gây ra nhiều cách hiểu khác nhau.v.v. Thực tiễn xét xử liên quan đến việc xác định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong một số vụ án vẫn còn lúng túng và chưa có sự nhất quán giữa các cấp tòa án. Từ đó, đòi hỏi cần phải xem xét lại một số qui định về việc xác định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhất là các qui định trực tiếp tại các Điều 404, Điều 405 BLDS 2005 và các qui định khác có liên quan. 3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện các qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng Trên cơ sở nhận thức về một số điểm bất cập như vừa nêu, nội dung mục này trình bày một số ý kiến đề xuất liên quan tới việc sửa 16 đổi, bổ sung toàn diện qui định tại Điều 404 BLDS 2005, và sửa đổi, bổ sung một phần qui định tại Điều 405 BLDS 2005, với những gợi ý cụ thể về nội dung của từng điều khoản kèm theo. Cụ thể: (i) Kiến nghị sửa đổi và bổ sung Điều 404 BLDS 2005: qui định nguyên tắc chung của thời điểm giao kết hợp đồng: khoản 1 (mới); (ii) Qui định thời điểm giao kết hợp đồng gián tiếp hoặc khi các bên dành thời gian chờ bên được đề nghị trả lời: khoản 2 (mới); (iii) Qui định thời điểm giao kết hợp đồng khi bên được đề nghị trả lời bằng văn bản trong các trường hợp khác nhau: khoản 3 (mới); (iv) Bổ sung qui định thời điểm giao kết hợp đồng khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận bằng hành vi cụ thể: khoản 4 (mới); (v) Qui định thời điểm trả lời giao kết bằng hợp đồng sự im lặng: khoản 5 (mới); (vi) Bổ sung qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khi các bên có thỏa thuận khác: khoản 2 (mới) Điều 405 BLDS 2005. Nội dung cụ thể của các kiến nghị được trình bày tại phụ lục 2. Chương 4 HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG Chương này trình bày ba nội dung sau đây: (i) Khái niệm và các qui định chung về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; (ii) Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; (iii) Kiến nghị hoàn thiện các qui định của pháp luật về vấn đề này. 4.1. Hiệu lực ràng buộc hợp đồng: khái niệm và các qui định chung 4.1.1. Khái niệm hiệu lực ràng buộc hợp đồng Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng là hệ quả pháp lý tất yếu thể hiện bản chất của hiệu lực hợp đồng. Giống như các nghĩa vụ pháp định, nghĩa vụ trong hợp đồng cũng được pháp luật bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Vì thế, có thể ví hợp đồng như là 17 ‘một phần’của pháp luật tư, hay là một hình thức pháp luật ‘nối dài’ trong lĩnh vực luật tư. Trên cơ sở đó, có thể hiểu hiệu lực ràng buộc của hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng, được pháp luật bảo vệ và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp chế tài thích hợp, nhằm buộc các bên tham gia phải tôn trọng, thực hiện đúng hợp đồng. Một hợp đồng hợp pháp có hiệu lực ràng buộc và có giá trị như luật đối với các bên. 4.1.2. Qui định chung về hiệu lực ràng buộc hợp đồng Các qui định này thể hiện qua các nội dung sau đây: (i) Các nguyên tắc thể hiện hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; (ii) Buộc các bên tham gia phải thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng; (iii) Không được từ chối thực hiện nghĩa vụ và không được rút khỏi hợp đồng; (iv) Hiệu lực ràng buộc hợp đồng được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế pháp lý thích hợp… 4.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng đã xác định được rằng, qui định của pháp luật hiện hành về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam hiện còn một số vấn đề bất cập: (i) Pháp luật hiện vẫn còn thiếu qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; (ii) Qui định về các biện pháp khắc phục do vi phạm nghĩa vụ giao vật trong trường hợp vật đặc định bị hư hỏng, hoặc vật cùng loại khan hiếm trên thị trường… chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. 4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng Trên cơ sở nhận thức những bất cập đó, mục này đưa ra một kiến nghị như (xem cụ thể tại phụ lục 3): (i) Bổ sung Điều 405a về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng gồm hai khoản để qui định hai nội dung là hiệu lực bắt buộc như pháp luật
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan