Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với nkt từ thực tiễn trung tâm dạy nghề, giới th...

Tài liệu Hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với nkt từ thực tiễn trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật hà tĩnh, tỉnh hà tĩnh

.PDF
90
815
99

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI THÁI NGỌC LÂM HỖ TRỢ DẠY NGHỀ VÀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM DẠY NGHỀ, GIỚI THIỆU VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS: VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, 2016 Lời cam đoan Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những kết quả và số liệu trong khóa luận chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào và được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Võ Khánh Vinh. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Học viện về sự cam đoan này. Hà Nội, ngày.…..tháng 8 năm 2016 Tác giả Thái Ngọc Lâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DẠY NGHỀ VÀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT ............................................ 10 1.1. Những vấn đề lý luận về hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật . 10 1.2. Cơ sở pháp lý của việc hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật… 25 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HỖ TRỢ DẠY NGHỀ VÀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM DẠY NGHỀ, GIỚI THIỆU VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH… .. 30 2.1. Về thực trạng địa bàn nghiên cứu ......................................................................... 30 2.2. Thực trạng về học sinh học nghề và sau khi học nghề tại Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.. ......... 31 2.3. Thực trạng về đội ngũ giáo viên và hỗ trợ kinh phí cho các lớp dạy nghề tại Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh ........................................................................................................34 2.4. Thực trạng về nội dung, chương trình và kế hoạch dạy nghề và việc làm tại Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh ........................................................................................................ 38 2.5. Thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị trong việc hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật tại Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh ................................................................ 41 2.6. Đánh giá khái quát về thực trạng hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh ....................................................................... 52 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HỖ TRỢ DẠY NGHỀ VÀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT TẠI TỈNH HÀ TĨNH ................... 60 3.1. Định hướng hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật tại tỉnh Hà Tĩnh............................................................................................................................... 60 3.2. Các giải pháp tăng cường hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật tại tỉnh Hà Tĩnh............................................................................................................. 60 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO… ....................................................................... 70 PHỤ LỤC ............................................................................................................................. 73 DANH MỤC VIẾT TẮT WHO Tổ chức y tế Thế giới LHQ Liên Hiệp quốc ILO Tổ chức Lao động quốc tế CTXH Công tác xã hội NKT Người khuyết tật NV CTXH Nhân viên công tác xã hội TW Trung ương UBND Ủy ban nhân dân LĐTBXH Lao động - Thương binh và Xã hội XHCN Xã hội chủ nghĩa CTMT Chương trình mục tiêu DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Danh sách giáo viên dạy nghề tại Trung tâm…………… 37 Bảng 2.2. Thời gian đào tạo và cấp chứng chỉ cho NKT học nghề… 41 Bảng 2.3. Các giải pháp được khảo sát của đội ngũ giáo viên 2015……………………………………………..…………………. Bảng 2.4. Đánh giá khả năng tiếp thu của NKT học nghề……….... 56 57 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Số lượng NKT các lớp học nghề năm 2014 - 2015 35 Biểu đồ 2.2. Số lượng NKT học nghề mù chữ năm 2014 - 2015 35 Biểu đồ 2.3. Số lượng NKT tìm được việc làm năm 2014 - 2015 36 DANH MỤC HÌNH ẢNH Hình 2.1. Lớp học nghề Tin học văn phòng tại Trung tâm……. 46 Hình 2.2. Lớp học nghề Sữa chữa xe máy tại Trung tâm……… 48 Hình 2.3. Lớp học nghề Sữa chữa điện tại Trung tâm…….…… 49 Hình 2.4. Lớp học nghề Cắt may dân dụng tại Trung tâm…….. 50 Hình 2.5. Lớp học Mây tre đan tại Trung tâm …...….………… 51 Hình 2.6. Xưởng Cắt may của NKT tại Trung tâm ……………. 53 Hình 2.7. Xưởng In lưới của NKT tại Trung tâm……… ……… 54 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), hiện nay cả nước có khoảng 7,2 triệu NKT, chiếm 7,8% dân số và dự báo, số lượng người khuyết tật(NKT) trong những năm tới sẽ tiếp tục tăng do già hóa dân số, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và tai nạn lao động, tai nạn giao thông,… Theo thống kê thì số lượng người khuyết tật(NKT) chưa được học nghề chiếm hơn 90%, có khoảng 58% tham gia làm việc, có hơn 30% đang thất nghiệp và những NKT đã có việc làm nhưng chủ yếu là những công việc đơn giản bằng chân tay, có thu nhập thấp và có khoảng 70 - 80% NKT sống ở vùng nông thôn với những điều kiện kinh tế khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém, gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. trong khi đó thì phần lớn NKT không thể sống độc lập, có khoảng 70% phải sống dựa vào gia đình, người thân và từ trợ cấp xã hội, có trên 25% NKT tham gia làm việc bằng các nghề thủ công truyền thống đơn giản. Chúng ta đều biết bản thân NKT cũng như gia đình họ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, số NKT sử dụng các phương tiện phục vụ cá nhân để đi lại, sinh hoạt, hoạt động,…ví dụ, như đường tiếp cận cho xe lăn lên xuống nhà cao tầng là rất thấp, chỉ chiếm khoảng 2%. Bên cạnh đó phương tiện xe lăn, xe lắc đi lại cho họ được các doanh nghiệp, tổ chức Hội, các nhà hảo tâm trong nước và quốc tế cấp chỉ được 50%. Mặc dù bị khiếm khuyết những NKT vẫn có ước muốn, hoài bảo, cố gắng vươn lên để học tập, làm việc để tự nuôi sống bản thân hòa nhập với cộng đồng, hiện nay có đến 58% NKT đến độ tuổi lao động tham gia làm việc, trong đó, có đến 30% NKT chưa có việc làm và mong muốn tìm được việc làm và các khoản thu nhập của họ chỉ chiếm có 40% trong tổng thu nhập và còn lại từ trợ cấp của Nhà nước, gia đình và xã hội, chiếm đến 60%. Trên cơ sở số liệu thống kê này, cho chúng ta 1 thấy nhu cầu học nghề và việc làm của NKT là rất lớn vì nó sẽ tạo điều kiện, giúp đỡ NKT có cơ hội việc làm bền vững, tham gia lao động tạo ra thu nhập, góp phần ổn định cuộc sống hòa nhập với cộng đồng xã hội. Vì vậy vấn đề hỗ trợ dạy nghề và giải quyết việc làm cho NKT tại các cơ sở dạy nghề, các cơ sở sản xuất kinh doanh là vô cùng quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên để phát huy hiệu quả mang lại kết quả tích cực theo chủ trương đó thì chúng ta cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, mọi người hãy cùng chung tay, góp sức, có những hành động thiết thực hơn để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn nhằm đưa lại hiệu quả cao hơn trong việc hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT. Chính những vấn đề đó, để nắm rõ được những khó khăn, thách thức mà NKT gặp phải và muốn có việc làm ổn định, tạo thu nhập cho bản thân và gia đình của NKT cũng như muốn hiểu sâu hơn về hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT trên các mặt như: Trợ giúp tư vấn, tham vấn, trợ giúp để NKT tham gia học nghề và việc làm phù hợp với điều kiện sức khỏe, khả năng của bản thân; hỗ trợ pháp lý; chăm sóc sức khỏe NKT,... bên cạnh đó, hỗ trợ kinh phí dạy nghề, cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc trang thiết bị phù hợp, nguyên vật liệu, nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên dạy nghề, biên soạn chương trình dạy nghề phù hợp cho NKT, xây dựng các mô hình sản xuất, hỗ trợ thuế, vay vốn sản xuất,... Với những yêu cầu và sự cần thiết trên Tôi đã chọn đề tài: “Hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT từ thực tiễn Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh”. Bản thân mong muốn đề tài này sẽ mang đến cho tất cả chúng ta một cái nhìn mới, sâu sắc, rõ nét hơn về NKT và sự hiểu biết đầy đủ hơn về vấn đề hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT từ thực tiễn Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho NKT Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và của các cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm đối với NKT nói chung. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu ở trên thế giới Theo số liệu thống kê của Tổ chức y tế Thế giới(WHO) thì hiện nay trên thế giới có gần 1 tỷ NKT, chiếm từ 15% - 20% dân số thế giới. Số NKT nặng chiếm hơn 345 triệu người, ở các nước phát triển có hơn 100 triệu người, ở các nước đang phát triển có hơn 235 triệu NKT. Thống kê năm 2011 có khoảng hơn 1 tỷ người trên thế giới có dấu hiệu khuyết tật, chiếm 15% dân số; có khoảng từ 110 đến 190 triệu NKT có khó khăn về thực hiện chức năng; tỷ lệ NKT có xu hướng gia tăng; ở các nước chậm phát triển có tỷ lệ khuyết tật cao hơn các nước phát triển; khuyết tật phổ biến hơn ở trẻ em, nữ giới, người già, người nghèo, người neo đơn... Theo kết quả báo cáo thế giới về tình trạng khuyết tật hơn 40 năm qua và một cái nhìn tổng quát về thực trạng khuyết tật, thì các chuyên gia nghiên cứu mới chỉ ra rằng gần 1/5 tổng dân số ước tính trên toàn cầu sống chung với khuyết tật, và có khoảng từ 110 đến 200 triệu NKT phải đối mặt với những khó khăn thường xuyên như nạn đói, không có nhà ở, không được học tập, không được chăm sóc, khám chữa bệnh, bị bóc lột sức lao động,...nhưng thực tế cho thấy rằng những NKT đang gặp khó khăn có thể cao hơn rất nhiều. Số lượng NKT được cung cấp dịch vụ y tế với những kỹ năng không đáp ứng được nhu cầu của họ, cũng như dễ bị từ chối chăm sóc y tế cần thiết nhiều gấp 3 lần so với người bình thường. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế(ILO) đã nêu: Người khuyết tật có quyền hưởng những chương trình giáo dục - đào tạo, phục hồi chức năng, nghề nghiệp, trợ giúp, tư vấn những dịch vụ về sắp xếp việc làm và các dịch vụ khác để làm cho phát triển tối đa các khả năng, kỷ năng và thúc đẩy những quá trình hòa nhập hay tái hòa nhập xã hội của họ[28]. 3 2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Theo số liệu thống kê thì kết quả một cuộc điều tra cho thấy: Nước ta có khoảng 8% hộ gia đình có NKT, tức là bình quân một hộ gia đình chiếm 1,12 % NKT; khoảng 75% hộ gia đình có NKT sinh sống ở khu vực nông thôn và 32,5% thuộc diện hộ nghèo (cao gấp 2 lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm); gần 24% những hộ gia đình NKT phải sống trong điều kiện nhà tạm, 65% sống trong những ngôi nhà kiên cố và hầu như các hộ gia đình có NKT chỉ đảm bảo được nhu cầu về ăn để tồn tại, ở và mặc cho NKT, còn lại các nhu cầu khác như đi học văn hóa, học nghề, khám chữa bệnh,…thì khả năng đáp ứng của các hộ gia đình là rất khó khăn, có khoảng trên 80% và gần 55% hộ gia đình gặp trở ngại khi tiếp cận về việc làm và vay vốn sản xuất kinh doanh. Đối với cá nhân NKT, theo kết quả cuộc điều tra mẫu phản ánh một thực trạng đáng lo ngại về NKT và cuộc sống của họ, ví dụ như phần lớn NKT có trình độ văn hoá thấp, chưa được học văn hóa và chưa qua đào tạo nghề. Trong đó có khoảng 60% NKT đang thuộc độ tuổi lao động, và hiện nay mới chỉ có 3% NKT có việc làm tạm thời ổn định và 62% trong số này đang tham gia lao động để có thu nhập; những việc làm chủ yếu của NKT là sản xuất nông nghiệp, nghề đơn giản, có năng suất lao động và tạo ra giá trị lợi nhuận thấp nhất trong các lĩnh vực sản xuất của nền kinh tế quốc dân(như đan lát, thêu ren, làm chổi, làm tăm tre,...). Số NKT có thể tự lập được cuộc sống chỉ chiếm khoảng 11%, một tỷ lệ rất nhỏ. Theo Bộ LĐTBXH sơ kết thực hiện 5 năm Luật NKT[21] và thực hiện Quyết định 1019/TTg[7] về Đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2012-2020, trong đó, công tác dạy nghề, việc làm sau 5 năm triển khai, chúng ta thấy được mạng lưới cơ sở dạy nghề cho NKT đã gia tăng đáng kể, từ 850 cơ sở (năm 2010) lên 1.130 cơ sở (năm 2014), trong đó có 225 cơ sở dạy nghề chuyên biệt. Giai đoạn 2010 – 2014, cả nước có khoảng 120 nghìn NKT được hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm. Trong đó, đánh giá tổng kết đến năm 2015 đã hỗ trợ dạy nghề và giải quyết cho NKT của cả nước là 140.000 người, tiếp tục thực 4 hiện đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2012-2020, dự kiến có khoảng 300.000 NKT được hỗ trợ học nghề miễn phí và kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp. Trong những năm qua, một số địa phương đã tích cực tổ chức dạy nghề, tư vấn và tạo việc làm cho NKT, xây dựng mô hình việc làm của NKT có hiệu quả, hỗ trợ bằng phương pháp thông qua các chương trình, các hoạt động như hỗ trợ mua con giống, chăn nuôi, trồng trọt, phát triển nhóm, mô hình sản xuất quy mô vừa, nhỏ, nghề thủ công,...Có thể nói, trong 5 năm triển khai Luật NKT, việc thực hiện chính sách pháp luật về NKT đã tạo ra những chuyển biến tích cực, rõ nét đối với cuộc sống của NKT. Cùng với đó, sự thay đổi về nhận thức xã hội đã giúp cho NKT ngày càng tự tin hơn, hòa nhập với đời sống xã hội. Hiện nay theo số liệu điều tra đến nay ở Hà Tĩnh, số NKT trên địa bàn toàn tỉnh là 69.466 người, chiếm khoảng 5,2 dân số. Như vậy so với cả nước thì Hà Tĩnh là tỉnh có tỷ lệ người khuyết tật tương đối cao[30]. Tuy Hà Tĩnh là một tỉnh nghèo, các nguồn thu không đủ chi và chi ngân sách hàng năm chủ yếu do TW hỗ trợ, nhưng với sự quan của Tỉnh về triển khai thực hiện các chính sách an sinh xã hội nói chung và NKT nói riêng rất đúng đắn, đảm bảo và kịp thời. Hàng năm Tỉnh đã trích kinh phí phục vụ các chương trình như làm nhà cho NKT, hỗ trợ dạy nghề, cho vay vốn ưu đãi, xây dựng các công trình công cộng,...nhằm giúp đỡ NKT khắc phục những khó khăn vươn lên trong cuộc sống. Chúng ta hãy quan niệm và khẳng định rằng "Nếu chúng ta cho người ta một con cá, có thể người ta sống được một ngày. Nếu chúng ta dạy cho họ nghề cầu cá thì người ta có thể sống cả đời người". 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng về kết quả đạt được, hạn chế, khó khăn và các giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT từ thực tiễn Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho NKT Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. 5 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau, cơ sở lý thuyết, các chính sách; khảo sát, điều tra, phân tích...; Tìm hiểu về kết quả, hạn chế, nguyên nhân từ thực tiễn; Đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu, gồm: - Khách thể nghiên cứu: Cán bộ, giáo viên - Đối tượng nghiên cứu: NKT đang học nghề và làm việc tại Trung tâm 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4.2.1. Phạm vi không gian Nghiên cứu từ thực tiễn Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho NKT Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. 4.2.2. Phạm vi thời gian Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này trên các số liệu, báo cáo trong thời gian 2 năm, năm 2014 và 2015[30]. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, giúp chúng ta có cách nhìn đúng đắn và toàn diện hơn về thế giới khách quan. Mỗi khi nghiên cứu ta thấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh được những quy luật cơ bản thể hiện sự luận giải và nguyên tắc chung cho khoa học. Phải nói rằng con người là một thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và xã hội, đồng thời bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt, do vậy bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội và bản chất của con người theo quan điểm của Mácxit được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Việt Nam là nước đang phát triển và để phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng con người văn hóa, văn minh thì luôn phải quan tâm đến vấn đề an sinh 6 xã hội để nhằm ổn định xã hội, vì thế trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cho những người nghèo, đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, người có hoàn cảnh khó khăn,… và NKT nói riêng, đây là truyền thống tốt đẹp, mang tính nhân văn sâu sắc của người dân Việt Nam "lá lành đùm lá rách", truyền thống do ông, cha ta để lại từ ngàn đời. Tất cả những chính sách của Nhà nước ta đã đề cập đến những vấn đề ưu tiên, trợ giúp, ưu đãi, khuyến khích đó như hỗ trợ kinh phí học nghề, đi lại, hỗ trợ thuê đất, hỗ trợ miễn, giảm thuế, hỗ trợ vay vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm,…hỗ trợ những nhu cầu thiết yếu nhất cho NKT nhằm mục tiêu nâng cao năng lực hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho NKT. Như vậy, qua các thời kỳ phát triển đất nước đều có các chính sách rất quan trọng đã đóng góp tích cực, tạo mọi thuận lợi giúp đỡ và có hiệu quả thiết thực nhằm trợ giúp cho NKT giảm bớt những khó khăn trong đời sống học tập, lao động,…và tỉ lệ NKT được học nghề hàng năm tăng, năm sau cao hơn năm trước, số NKT có việc làm nhiều hơn và thu nhập ổn định, hòa nhập cộng đồng xã hội đạt kết quả tích cực, góp phần ổn định xã hội. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp thu thập thông tin và phân tích tài liệu Phương pháp thu thập, tổng hợp, tìm hiểu các tài liệu như sách, báo, tạp chí, các báo cáo, các văn bản pháp luật và nắm bắt, vận dụng các lý thuyết của ngành CTXH liên quan đến công tác hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT kết hợp với công tác dạy nghề NKT trong thời gian qua vào công tác nghiên cứu, giải thích hiện tượng, từ đó nhìn nhận tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài một cách đúng đắn, khách quan nhất. 5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu Chúng ta tiến hành phỏng vấn sâu đối với cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề và NKT tại trung tâm, phỏng vấn sâu 5 cán bộ giáo viên, tập trung trả lời những câu hỏi như: NKT cảm nhận như thế nào khi sống, học tập và làm việc tại trung tâm; được tham gia những hoạt động gì; được hưởng những quyền 7 lợi gì; có những thuận lợi gì; những khó khăn thường gặp phải,…? nhằm mục đích giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT từ thực tiễn Trung tâm. 5.2.3. Phương pháp điều tra khảo sát Dùng phương pháp này, chúng tôi chọn mẫu ngẫu nhiên, số lượng 10 mẫu để tìm hiểu các vấn đề, những khó khăn, nguyện vọng của NKT đang học nghề và làm việc tại Trung tâm. Với mỗi phiếu khảo sát, chúng tôi xây dựng từ 10 đến 15 câu hỏi, có những câu hỏi đóng và câu hỏi mở để tìm hiểu mức độ hài lòng của NKT với các khía cạnh trong cuộc sống. 5.2.4. Phương pháp quan sát Đây là phương pháp thu thập thông tin xã hội về đối tượng nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép tỉ mỉ mọi yếu tố, nhân tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và có ý nghĩa đối với mục tiêu của nghiên cứu. 5.2.5. Phương pháp đàm thoại Qua các cuộc trò chuyện trực tiếp, gián tiếp để khai thác thêm thông tin, hỗ trợ các phương pháp khác trong việc xử lý phân tích và đưa ra kết luận khách quan, Chúng tôi đàm thoại với 5 cán bộ giáo viên và 10 người NKT tại Trung tâm. Nội dung đàm thoại là những hoạt động đang triển khai trợ giúp cho NKT, đánh giá kết quả đạt được thông qua can thiệp với các nhóm đối tượng, nhu cầu về trợ giúp của Trung tâm hiện nay, những khó khăn, hạn chế trong hoạt động cung cấp, hỗ trợ học nghề và việc làm. 5.2.6. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi Nguyên tắc cơ bản về việc xây dựng bảng hỏi, trên cơ sở trưng cầu ý kiến những yêu cầu chi tiết, dễ hiểu để làm sao cho tất cả cán bộ, giáo viên và NKT trả lời theo các nội dung yêu cầu và cung cấp thông tin chính xác. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu đề tài hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT từ thực tiễn Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho NKT Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đề tài mang ý nghĩa lý luận sâu sắc, 8 có thể nhìn nhận công tác hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT từ góc độ khoa học, mô tả và đánh giá vấn đề bằng nhiều lý thuyết khác nhau, những kiến thức từ thực tiễn được bổ sung làm phong phú thêm kho tàng kiến thức, để phục vụ nghiên cứu, xây dựng chính sách hỗ trợ, đề ra các giải pháp có hiệu quả,…về công tác hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài đã nghiên cứu thực trạng hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT từ thực tiễn Trung tâm, từ đó chúng ta thấy được vấn đề cốt lõi, có cái nhìn tổng quát hơn, sâu sắc hơn, quy chuẩn hơn, dễ tiếp cận hơn và từ kết quả nghiên cứu có thể đưa ra những khyến nghị nhằm giúp các cơ quan chức năng, tổ chức, các cơ sở dạy nghề, các cơ sở sản xuất kinh doanh,…có những định hướng, giải pháp tăng cường hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với NKT đạt hiệu quả cao hơn. 7. Cơ cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, Luận văn có 3 chương sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật Chương 2: Thực trạng hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật tại Trung tâm dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật tại tỉnh Hà Tĩnh 9 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DẠY NGHỀ VÀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT 1.1.Những vấn đề lý luận về hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật 1.1.1. Khái niệm hỗ trợ dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật Khái niệm "khuyết tật" ở trên Thế giới và Việt Nam có nhiều cách nhìn nhận, đánh giá, cách hiểu và diễn giải khác nhau về khuyết tật, xuất phát từ sự đa dạng của khuyết tật, sự phức tạp về mức độ khuyết tật, công cụ đo lường và đánh giá, cũng như sự khác biệt về văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, cho đến nay chưa có khái niệm thống nhất về khuyết tật. Tổ chức Y tế Thế giới(WHO) đã không ngừng đưa ra những định nghĩa chung cho khuyết tật từ những năm 1976 và đến năm 1988(WHO) mới đưa ra cách phân loại quốc tế về giảm chức năng, khuyết tật, tàn tật đã là một hệ thống tiên phong trong quá trình hiểu và đưa ra định nghĩa về khuyết tật. Theo cách hiểu của WHO các thuật ngữ suy giảm chức năng, khuyết tật, tàn tật có nội hàm khác nhau: Suy giảm chức năng chỉ những người có vấn đề về thể chất; khuyết tật là những hạn chế trong hoạt động do suy giảm chức năng gây nên; tàn tật là hạn chế hay hao hụt(do khuyết tật) khả năng thực hiện vai trò trong xã hội. Theo người dân Việt Nam, thì từ "khuyết tật" và "tàn tật" là hai từ để chỉ cùng một khái niệm, từ năm 2009 trở về trước người ta vẫn dùng song song chúng trên cả phương tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy. Trong các pháp lệnh trước đây của Nhà nước Việt Nam thì "Tàn tật" là cụm từ được chính thức sử dụng. Chẳng hạn từ “khuyết”có nghĩa là không đầy đủ, thiếu mất một bộ phận, một phần, “tật” nghĩa là có “điều gì đó không được bình thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu, dụng cụ, máy móc. Còn ở người là sự bất thường, nói chung 10 không thể chữa được, của một cơ quan trong cơ thể do bẩm sinh mà có hoặc do tai nạn hay bệnh gây ra”. Năm 2010 Quốc hội (QH) Việt Nam đã chính thức sử dụng cụm từ khuyết tật thay cho tàn tật trong các Bộ Luật ban hành có liên quan, cụ thể là Luật NKT số 51/2010/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011[21] nó phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề NKT. NKT là đối tượng nhận được nhiều sự quan tâm của tất cả cộng đồng xã hội. Cộng đồng quốc tế đã có nhiều chương trình dành cho đối tượng này nhằm giúp họ có thể sống, học tập, làm việc và hòa nhập. Xác định thế nào là người khuyết tật là vấn đề rất quan trọng bởi có xác định chính xác thì mới không bỏ sót đối tượng thụ hưởng các chương trình, chính sách của Nhà nước. Quan niệm về NKT không giống nhau tùy thuộc vào nhận thức, chế độ xã hội và thái độ của mỗi người hay nhóm người trong cộng đồng xã hội. Theo quan niệm Quốc tế Theo quan niệm của Tổ chức y tế thế giới (WHO) thì có ba thuật ngữ có liên quan đến thuật ngữ tàn tật, khuyết tật đó là Khiếm khuyết, Suy giảm khả năng và Tàn tật. Khiếm khuyết: thuật ngữ này chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng không bình thường của một hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khiếm khuyết có thể là hậu quả của bệnh tật, tai nạn, các nhân tố môi trường hoặc do bẩm sinh gây nên. Giảm khả năng: thuật ngữ này hàm ý nói ở cấp độ cá nhân là tình trạng giảm hoặc mất khả năng hoạt động do khiếm khuyết gây ra; hạn chế hoặc mất chức năng: vận động, nghe, nói, nhìn hoặc giao tiếp... Tàn tật: thuật ngữ này hàm ý nói ở cấp độ xã hội là những thiệt thòi mà một người phải chịu do bị khuyết tật. Hậu quả của sự tương tác giữa một cá nhân bị khiếm khuyết hoặc giảm khả năng với những rào cản trong môi trường xã hội, văn hoá hoặc vật chất, làm cho cá nhân này không thể tham gia 11 một cách bình đẳng vào cuộc sống cộng đồng chung hoặc hoàn thành một vai trò bình thường. Nhìn chung, ở trên thế giới thì quan niệm về NKT cơ bản là giống nhau về bản chất vấn đề, nhưng cách diễn đạt cũng không hoàn toàn giống nhau. Theo quan điểm của Công ước Quốc tế về quyền con người của NKT được phê chuẩn ngày 30/3/2007[6] cho rằng, NKT bao gồm, những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc các giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã hội. Theo đạo luật số 7277 với tên gọi là “Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức năng, tự phát triển, tự tin cho NKT và hòa nhập NKT vào xã hội và các mục đích khác” được thông qua bởi Thượng nghị viện và Hạ nghị viện của Quốc hội Phillipines vào ngày 12/7/1991 quy định: NKT là người có sự khác biệt về khả năng và hạn chế do khiếm khuyết về giác quan, vận động và tâm thần để thực hiện một hoạt động được coi là bình thường. Với khái niệm về người khuyết tật thì Đạo luật 7277 của Philippin còn giải thích một số thuật ngữ khác có liên quan đến NKT, cụ thể: Sự khiếm khuyết là sự mất, giảm hay rối loạn về chức năng hay cấu trúc cơ thể, tâm lý và hành vi. Khuyết tật có nghĩa là sự khiếm khuyết về vận động hay trí não có ảnh hưởng đáng kể đến một hoặc nhiều chức năng vận động, tâm thần của một cá nhân hay các hoạt động của cá nhân hoặc được coi là có khiếm khuyết. Theo quan niệm ở Việt Nam Trước đây Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy định về giáo dục hòa nhập dành cho NKT số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT, nội dung của quy định này bao gồm: Những quy định về tổ chức, hoạt động giáo dục hòa nhập cho NKT; giáo viên, giảng viên, nhân viên; NKT trong giáo dục hòa nhập và cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học. Theo Quyết định này NKT 12 được định nghĩa là “NKT không phân biệt nguồn gốc gây ra khuyết tật, là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm giảm khả năng hoạt động, khiến cho việc sinh hoạt, học tập, lao động gặp nhiều khó khăn”. Ngày 17/6/2010, Quốc hội(QH) Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH/12 và có hiệu lực từ 01/01/2011[21], hình thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay cho khái niệm “tàn tật” hiện hành, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thể giới về vấn đề khuyết tật. Theo quy định của Luật NKT thì NKT được hiểu là “Người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập khó khăn”. Khuyết tật được phân loại: Tật vận động, tật giác quan (câm, mù, điếc,…), tật trí tuệ, tật thần kinh tâm thần, khuyết tật khác và hạng khuyết tật gồm: NKT đặc biệt nặng, NKT nặng, NKT nhẹ. Khái niệm "Dạy nghề" được hiểu như "Luật Dạy nghề" đã định nghĩa: "Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học"[19]. Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Dạy nghề có thể là những hoạt động dạy và học tại nơi làm việc, các cơ sở dạy nghề, trung tâm đào tạo, các lớp học không chính quy nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học. Mục tiêu dạy nghề cho NKT nhằm trang bị cho người học nghề kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả 13 năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc nhóm; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; giải quyết được các tình huống phức tạp trong thực tế, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn. Khái niệm về "hỗ trợ dạy nghề là các hoạt động trợ giúp người học nghề một cách đầy đủ về tất cả các mặt nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học". Theo góc độ Công tác xã hội(CTXH) thì hỗ trợ dạy nghề cho NKT chính là sự hỗ trợ về một số mặt, như sau: - Đội ngũ giáo viên dạy nghề cho NKT cần có trình độ chuyên môn đạt yêu cầu, tâm huyết với nghề, cần có những kiến thức riêng về NKT như đặc điểm, nhu cầu, tâm sinh lý của NKT,...Ngoài ra phải tận tụy, trách nhiệm, chịu khó, nhiệt tình, biết hy sinh,…thậm chí phải hiểu các chính sách, pháp luật, biết ngôn ngữ NKT nghe nói,… - Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật: phải được thiết kế đặc biệt phù hợp với người khuyết tật như có đường đi riêng giành cho xe lăn, bàn ghế trang thiết bị phù hợp với dạng khuyết tật,...Đồng thời có đầy đủ các phương tiện dạy học, máy móc trang thiết bị phù hợp, cũng như nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình thực hành học nghề của NKT. - Kinh phí hỗ trợ dạy nghề phải cấp đảm bảo, đáp ứng phục vụ dạy nghề và cần được huy động từ các cấp, các ngành, các địa phương, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. - Chương trình dạy nghề cho NKT, gồm: Chương trình, giáo trình dạy nghề, giáo án, thời gian, các loại sổ sách, hồ sơ khác của quá trình học nghề, 14 hình thức giảng dạy lý thuyết, thực hành (phù hợp với từng loại khuyết tật khi được học nghề). Để hiểu rõ khái niệm và bản chất của việc làm ta phải liên hệ đến phạm trù lao động vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lao động trước hết là một hành động diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, trong lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng với công cụ tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, đời sống con người, lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người, nó là hoạt động rất cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Con người không thể sống khi không có lao động. Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động là năng lực của con người nó bao gồm cả thể lực và trí lực, nó là yếu tố tích cực đóng vai trò trung tâm trong suốt quá trình lao động, là yếu tố khởi đầu, quyết định trong quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá có thể được ra đời hay không thì nó phải phụ thuộc vào quá trình sử dụng sức lao động. Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Từ việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân. Như vậy một hoạt động được coi là việc làm khi có những đặc điểm như: Công việc mà người lao động nhận được tiền công, đó là những công việc mà người lao động thu lợi nhuận cho bản thân và gia đình, hoạt động đó phải được pháp luật thừa nhận. Chúng ta có thể hiểu rằng "Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật cho người lao động". 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan