Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố...

Tài liệu Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố đà nẵng

.PDF
87
349
82

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ ANH ĐẠT HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ công tác xã hội với đề tài: “Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài luận văn này là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Hồ Anh Đạt MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 Chương 1 ..................................................................................................................... 9 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ............................................................ 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của người khuyết tật ..................................... 9 1.2. Lý luận về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật........... 14 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người người khuyết tật ...................................................................................................... 24 1.4. Thể chế hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật ............... 27 Chương 2 ................................................................................................................... 32 THỰC TRẠNG HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................................................... 32 2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu ................................. 32 2.2. Thực trạng hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật tại thành phố Đà Nẵng ................................................................................................. 37 2.3. Thực trạng của các yếu tố ảnh hưởng đến kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật ...................................................................................................... 49 Chương 3 ................................................................................................................... 57 ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT ...................................................... 57 TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................ 57 3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng .................................................. 57 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ............................................................ 58 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 71 PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 74 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CTXH Công tác xã hội BTXH Bảo trợ xã hội DN Dạy nghề HN Học nghề VL Việc làm DVVL Dịch vụ việc làm International Labour Organization ILO (Tổ chức Lao động Quốc tế) LĐTBXH Lao động – Thương binh và Xã hội LHQ Liên hợp quốc NKT Người khuyết tật PVS Phỏng vấn sâu UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện nay Việt Nam có khoảng 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số. Trong đó, có khoảng 28,9% người khuyết tật đặc biệt nặng và nặng, 58% người khuyết tật là nữ, 28,3% người khuyết tật là trẻ em, 10,2% người khuyết tật là người cao tuổi, 61,5% người khuyết tật trong độ tuổi lao động và khoảng 10% người khuyết tật thuộc hộ nghèo [1]. Đà Nẵng là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hậu quả chiến tranh và chất độc hóa học để lại, do vậy, tỷ lệ người khuyết tật chiếm khá cao. Theo số liệu điều tra thông tin người khuyết tật trên địa bàn toàn thành phố bằng phương pháp phân loại khuyết tật của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2014 do Hội trợ giúp người khuyết tật Việt Nam (VNAH) hỗ trợ thực hiện có 152.131 người khuyết tật, chiếm tỷ lệ 20,3% tổng dân số, trong đó có hơn 10.000 người khuyết tật có mức độ khuyết tật đặc biệt nặng, nặng, nhẹ (đã được giám định mức độ khuyết tật) được đưa vào diện mở hồ sơ quản lý trường hợp, theo dõi và có nhu cầu cần trợ giúp, trong số đó có hơn 30% người khuyết tật đặc biệt nặng đang được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên. Phần lớn đời sống hộ gia đình người khuyết tật đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc diện hộ nghèo cần sự trợ giúp rất lớn của xã hội và cộng đồng. Trong quá trình thực hiện các chính sách và các hoạt động trợ giúp người khuyết tật, hỗ trợ kết nối việc làm cho người khuyết tật sau khi được đào tạo nghề là một vấn đề khó khăn và nan giải. Với người không khuyết tật, cơ hội tìm được việc làm đã khó, với người khuyết tật tiếp cận, tìm kiếm được việc làm còn khó khăn hơn rất nhiều. Việc làm và thu nhập của người khuyết tật còn nhiều rào cản. Theo báo cáo thống kê của Cục Việc làm, số người khuyết tật có việc làm chỉ chiếm 1020% trong tổng số người khuyết tật [6], số người khuyết tật còn lại gặp nhiều khó khăn, hầu hết phải sống dựa vào gia đình. Một bộ phận người khuyết tật tuy có việc làm, nhưng công việc không ổn định và thu nhập còn rất thấp. 1 Ở Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng, chính quyền các cấp luôn chú trọng đến công tác học nghề, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Nhiều năm trở lại đây vấn đề này nhận được sự quan tâm lớn và tạo điều kiện thuận từ phát triển hạ tầng cơ sở cho đến chính sách trợ giúp đối tượng tham gia học nghề cũng như giáo viên dạy nghề. Luật Dạy nghề năm 2006 đã dành toàn bộ Chương VII quy định dạy nghề cho người khuyết tật, với mục tiêu giúp đối tượng có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm, ổn định đời sống. Đồng thời, Nhà nước cũng khẳng định, hỗ trợ về tài chính và các chính sách ưu đãi khác đối với các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật nhằm khuyến khích công tác dạy nghề cho người khuyết tật. Trong Bộ luật Lao động, tại Điều 125 cũng nêu rõ: “Hàng năm, Nhà nước dành một khoản ngân sách để giúp người khuyết tật phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động, học nghề và có chính sách cho vay với lãi suất thấp để họ tự tạo việc làm, ổn định đời sống”. Thời gian qua đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề công tác học nghề hay hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật. Các nghiên cứu này hầu hết thực hiện nghiên cứu, đánh giá một cách đơn lẻ hai vấn đề học nghề, hỗ trợ việc làm. Vì vậy, cần thiết có đề tài nghiên cứu về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1 Tình hình nghiên cứu quốc tế Trong nghiên cứu của Acemoglu và Joshua (2010) có đề cập khía cạnh về các chương trình bảo vệ và hỗ trợ người khuyết tật trong vấn đề việc làm [29]. Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm cũng như phân tích và đánh giá về các chính sách liên quan đến việc làm của người khuyết tật. Từ đó đã có những đề xuất và giải pháp định hướng cho việc xây dựng chính sách cho người khuyết tật trong lĩnh vực này. 2 Một cuộc nghiên cứu tổng thể về các vấn đề việc làm của người khuyết tật trong lĩnh vực hành chính công đã được Hirst (2004). Nghiên cứu này tác giả đã thu thập số liệu và tập trung phân tích các vấn đề về việc làm của người khuyết tật dựa trên những số liệu và thông tin từ rất nhiều các nghiên cứu khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau [31]. 2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam TS. Trần Thị Thúy Lâm đã có bài viết phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về học nghề, dạy nghề cho người khuyết tật trên các phương diện: Chính sách đối với cơ sở dạy nghề, người khuyết tật học nghề và giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật; đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc học nghề đối với người khuyết tật cả ở phương diện hoàn thiện pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện [14]. Ths. Bùi Thái Hiền đã phân tích rõ thực trạng và vấn đề trong công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật tại trong nghiên cứu “Nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm dạy nghề tàn tật tỉnh Bình Dương” từ đó đề xuất các nhóm giải pháp nhằm cải thiện chất lượng đào tạo nghề và đề xuất hướng giải pháp gắn kết học nghề và giải quyết việc làm tại trung tâm [10]. Trong luận văn thạc sĩ công tác xã hội “Hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình” của tác giả Ngô Thị Bích Phượng (2013) đã tiến hành khảo sát nghiên cứu tại hai cơ sở tư nhân trên địa bàn xã Yên Thắng và Khánh Thịnh [17]. Tác giả chỉ ra một trong những hoạt nhằm giải quyết việc làm cho người khuyết tật bằng cách gắn kết nó với việc học nghề từ các lớp dạy nghề địa phương hoặc của các doanh nghiệp. Thông qua những đặc điểm của người khuyết tật như độ tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, tình trạng khuyết tật, hoàn cảnh kinh tế gia đình, là một trong những yếu tố tác động đến quá trình học nghề và tìm kiếm việc làm, tác giả đề xuất một số phương pháp, cách thức nhân viên Công tác xã hội có thể sử dụng để hỗ trợ cho người khuyết tật tiếp cận được cơ hội việc làm. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến những yếu tố khác có tác động đến việc làm của người khuyết tật như yếu tố về môi trường, doanh nghiệp, chính sách. 3 Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện một cuộc nghiên cứu vấn đề việc làm của người khuyết tật dựa trên cơ sở giới vào năm 2010 và đã đưa ra “Báo cáo khảo sát về Đào tạo nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam” [12]. Báo cáo này cung cấp một cách nhìn tổng thể về các tổ chức của người khuyết tật, các tổ chức đại diện cho người khuyết tật và các dịch vụ đào tạo nghề, việc làm và phát triển doanh nghiệp cho người khuyết tật, đặc biệt tập trung vào các tổ chức của phụ nữ khuyết tật và các dịch vụ dành riêng cho phụ nữ khuyết tật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận, thực trạng về việc học nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật và hoạt động kết nối học nghề với giải quyết việc làm tại thành phố Đà Nẵng; các yếu tố ảnh hưởng đến việc kết nối học nghề với giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc kết nối học nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm sáng tỏ các khái niệm về học nghề, việc làm cho người khuyết tật, về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật. - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kết nối học nghề với giải quyết việc làm cho người khuyết tật. - Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật. - Phân tích đánh giá thực trạng về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. - Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật tại thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi về đối tượng Nghiên cứu lý luận và thực trạng về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật; cụ thể đó là hỗ trợ tư vấn, định hướng việc học nghề để phù hợp với nhu cầu việc làm của xã hội, hỗ trợ giới thiệu việc làm sau khi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm tại chỗ. * Phạm vi về khách thể Nghiên cứu tình hình học nghề của người khuyết tật, công tác kết nối học nghề và kết nối việc làm tại Trung tâm giáo dục nghề nghiệp Đà Nẵng; hai cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật tư nhân là: Cơ sở dạy nghề Thanh Ngọc Minh, cơ sở dạy nghề Dana Tre Đà Nẵng; 30/56 nhân viên Công tác xã hội tại 56 xã/phường của 7 quận/huyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, những người trực tiếp làm công tác hỗ trợ kết nối học nghề cho người khuyết tật và nghiên cứu trên 100 người khuyết tật trên địa bàn thành phố. Nghiên cứu khách thể gồm cán bộ quản lý, chuyên viên làm công tác hoạch định kế hoạch hỗ trợ học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật. * Phạm vi về địa bàn: Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Phương pháp luận cho chúng ta biết cách thức tiếp cận một vấn đề xã hội cụ thể, đó là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực. Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng, từ những đánh giá về thực trạng học nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật tại thành phố Đà Nẵng, rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp để nâng cao hiệu quả công tác kết nối học nghề với việc làm đối với người khuyết tật tại thành phố. Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm cơ sở lý luận, khoa học cũng như phát triển hệ thống các lý luận, phương pháp trong nghiên cứu về các vấn đề liên quan như công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội và một số vấn đề lý luận về người khuyết tật. 5 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản Tìm kiếm, nghiên cứu các tài liệu về các công ước quốc tế; các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật và vấn đề học nghề, tạo việc làm đối với người khuyết tật như Luật người khuyết tật, Bộ luật lao động, Luật việc làm, Luật dạy nghề, Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP… Bên cạnh đó nghiên cứu này có tham khảo số liệu từ các báo cáo, thống kê, văn bản của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến vấn đề người khuyết tật, học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật. Nghiên cứu một số công trình của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề học nghề, dạy nghề, việc làm đối với người khuyết tật. 5.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu Nghiên cứu này tập trung chủ yếu vào phỏng vấn sâu 30 nhân viên công tác xã hội trực tiếp làm công tác tư vấn, hỗ trợ người khuyết tật đến học tại các đơn vị đào tạo nghề cũng như kết nối nguồn lực giải quyết việc làm cho người khuyết tật thời gian vừa qua. Phỏng vấn trực tiếp 70 đối tượng là người khuyết tật trên địa bàn thành phố để có được những thông tin có chiều sâu về hoạt động học nghề, việc làm cũng như đánh giá của người khuyết tật về công tác kết nối học nghề với việc làm. Bên cạnh đó phỏng vấn sâu các nhân viên, cán bộ quản lý của cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật, các nhà quản lý tại các cơ quan, đơn vị như: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng, Trung tâm dịch vụ việc làm, trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội…để tìm hiểu sâu hơn, lý giải nguyên nhân về các vấn đề nghiên cứu của đề tài. 5.2.3 Phương pháp quan sát Trong đề tài, phương pháp quan sát được sử dụng để ghi lại những thái độ, hành vi, cách cư xử, trao đổi của các giảng viên đào tạo nghề, nhân viên tư vấn, giới thiệu việc làm cho người khuyết tật. 6 5.2.4. Phương pháp điều tra bảng hỏi Là phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập một bảng hỏi cho nhóm đối tượng cần nghiên cứu trong một không gian, thời gian nhất định. Đề tài sẽ điều tra bằng bảng hỏi 70 khách thể là người khuyết tật, trên 56 xã/phường của 7 quận/huyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu giúp làm sáng tỏ lý luận về công tác hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, qua đó bổ sung và làm phong phú thêm về cách nhìn nhận, đánh giá 2 hoạt động học nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật. Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về công tác xã hội. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Đối với người khuyết tật: Đánh giá rõ hơn tình hình học nghề, giúp khắc phục những vấn đề, khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm nhất là sau khi đào tạo nghề từ đó nâng cao số lượng và chất lượng giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Người khuyết tật sẽ ngày càng khẳng định được vai trò trong xã hội. - Đối với các cơ quan, trung tâm, tổ chức cung cấp dịch vụ dạy nghề, hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật: Các phát hiện của nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng về mức độ liên kết giữa việc học nghề với việc làm cho người khuyết tật hiện nay tại thành phố từ đó đưa ra những giải pháp, định hướng nhằm gia tăng chất lượng dịch vụ của các cơ sở giúp nâng cao hiệu quả hỗ trợ người khuyết tật. - Đối với các cơ quan quản lý: Giúp các cơ quan quản lý có những chính sách hoạch định hiệu quả về vấn đề học nghề, dạy nghề, hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật. - Đối với xã hội: Việc giải quyết vấn đề việc làm cho người khuyết tật sẽ góp phần giải quyết các vấn đề chung của người khuyết tật, góp phần khẳng định nỗ lực 7 trong việc thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 3 chương (ngoài phần phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục) như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật. Chương 2: Thực trạng hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật hiện nay tại thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ KẾT NỐI HỌC NGHỀ VỚI VIỆC LÀM CHO NGƯỜI NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của người khuyết tật 1.1.1. Khái niệm người khuyết tật * Khái niệm người khuyết tật Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về người khuyết tật cụ thể như: “Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trợ sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác” - Công ước của LHQ về người khuyết tật (2006). Định nghĩa về người khuyết tật của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) như sau: “Khuyết tật là một thuật ngữ chung bao gồm các khiếm khuyết, hạn chế hoạt động và hạn chế sự tham gia. Người khuyết tật là người gặp phải một vấn đề trong chức năng hoặc cấu trúc cơ thể dẫn đến giới hạn hoạt động trong việc thực hiện một nhiệm vụ hoặc hành động, hạn chế sự tham gia giải quyết, thực hiện một vấn đề của chính cá nhân đó trong việc cuộc sống. Khuyết tật không chỉ là một vấn đề sức khỏe. Đây là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các đối tượng của cơ thể của một người và đặc điểm xã hội trong đó con người đang sống.” Disabilites _ Retrieved 28/10/2016. Theo Luật Người khuyết tật Việt Nam ban hành vào năm 2010: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” Đây là định nghĩa khá đầy đủ, tổng hợp được các cách hiểu khác nhau về khuyết tật và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam vì vậy trong phạm vi đề tài, tác giả sử dụng định nghĩa này để hiểu về người khuyết tật. * Dạng khuyết tật Việc phân loại khuyết tật ở Việt Nam đã được cụ thể hóa trong Luật Người khuyết tật năm 2010. 9 Căn cứ vào Khoản 1, Điều 2, Chương 1, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật, đã quy định 6 dạng khuyết tật cơ bản như sau: Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói. Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường. Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp được quy định tại các dạng trên. * Các mức độ khuyết tật Theo Luật người khuyết tật và Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, người khuyết tật được chia theo 3 mức độ khuyết tật sau đây: - Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Người khuyết tật đặc biệt nặng rất cần sự trợ giúp trong mọi mặt của đời sống, người khuyết tật đặc biệt nặng thường không có khả năng học nghề hay lao động. - Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. Do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực 10 hiện một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày nên cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Mặc dù khó khăn trong các hoạt động hằng ngày tuy nhiên người khuyết tật nặng hoàn toàn có học nghề hay lao động tạo thu nhập. - Người khuyết tật nhẹ khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%. Người khuyết tật nhẹ chiếm gần 50% trong tổng số người khuyết tật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Người khuyết tật hoàn toàn có thể có khả năng tự phục vụ bản thân cũng như học tập và làm việc. Trong khuôn khổ luận văn này đối tượng nghiên cứu hướng đến là người khuyết tật nặng và nhẹ vẫn còn khả năng học tập và lao động. 1.1.2. Đặc điểm và nhu cầu của người khuyết tật * Đặc điểm tâm lý của người khuyết tật Người khuyết tật là đối tượng thuộc nhóm yếu thế, họ gặp khó khăn về nhiều mặt trong cuộc sống, trong đó có khó khăn về học tập, việc làm, hôn nhân, bị kỳ thị... Những đặc điểm tâm lý cũng như thể chất của người khuyết tật luôn ảnh hưởng đến hoạt động trợ giúp họ. Sự khiếm khuyết về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của người khuyết tật có thể bị giảm sút, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong sinh hoạt, lao động, học tập… Chẳng hạn, do bị bệnh tật, khó khăn đi lại hoặc giao tiếp nên hoạt động học tập, lao động, giao lưu của người khuyết tật hạn chế hơn nhiều so với người không khuyết tật. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt về thể chất dẫn đến những cản trở trong sinh hoạt, lao động nên người khuyết tật thường bị ức chế dẫn đến bi quan, chán nản, tự ti hay cáu gắt, nóng nảy…Vì thế, người khuyết tật có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị. Bộ phận, giác quan này mất đi thì một hoặc nhiều bộ phận hay giác quan khác sẽ phát huy mạnh hơn vai trò hay thể hiện rõ nét hơn chức năng của nó. Các cơ quan còn lại này rất phát triển và sự nhận biết thế giới xung quanh thực hiện chủ yếu thông qua các giác quan đó. Ví dụ như người khiếm thị thường rất nhạy cảm với các kích thích da, đôi tay; người khiếm thính nhạy cảm với kích thích rung động, biểu cảm phong phú. Vì vậy, khi thực hiện các hoạt động đào tạo nghề cần 11 vận dụng tối đa sự tham gia của các cơ quan cảm giác còn lại (như dạy nghề cho người khuyết tật nghe, nói cần tăng cường sử dụng hình ảnh trực quan, các động tác tay chân để mô phỏng; ngược lại với người khiếm thị thì phải tích cực hỗ trợ bằng các phương tiện nghe, sờ,…). Người khuyết tật thường có tâm lý mặc cảm, tự ti, sống khép kín, ngại giao tiếp với mọi người; họ cho rằng số phận mình không may mắn, là gánh nặng cho người thân, gia đình. Do đó, họ dễ bị kích động, khó kiểm soát phản ứng khi bị phân biệt đối xử và thiếu tôn trọng. Cộng đồng và xã hội cần giáo dục mọi người tránh lời nói, cử chỉ, hành vi miệt thị, xa lánh; đồng thời, tạo điều kiện cho người khuyết tật hòa nhập vào cuộc sống xã hội như những người bình thường. Nhân viên tư vấn việc làm phải lưu ý đặc điểm này, khi giao tiếp tư vấn cho người khuyết tật cũng như đánh giá khả năng làm việc của họ. Người khuyết tật gặp khó khăn trong giao tiếp với môi trường xung quanh. Họ có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị, dễ cảm thông với những người đồng cảnh ngộ và biết ơn khi được quan tâm, giúp đỡ. Vì vậy, người khuyết tật là những người hoạt động rất tích cực trong nhóm tự giúp nhau, vượt qua khó khăn, chia sẽ kinh nghiệm trong cuộc sống, việc làm. Một số người khuyết tật có ý chí, nghị lực cao, đặc biệt những người khuyết tật về vận động nhưng trí tuệ phát triển bình thường hoặc thậm chí rất tốt. Họ thường cố gắng học tập, tìm kiếm việc làm để không phụ thuộc vào người khác. Vì vậy, với sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng, họ sẽ đạt được nhiều thành công trong học tập và lao động sản xuất. Trong mối quan hệ tương tác với người khác trong gia đình, cộng đồng, họ thường có cảm xúc buồn, thất vọng, hay tự ái. Do đó, người khuyết tật thường thiếu những kỹ năng xã hội cần thiết, ít tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ, các trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm, các cơ sở dạy nghề hoặc ngân hàng chính sách xã hội, thiếu thông tin từ các nhà tuyển dụng. Nếu sống trong những gia đình khó khăn, người khuyết tật có cảm giác mình bị bỏ rơi. Đa số người khuyết tật chưa được đi học hoặc học nghề đến nơi, đến chốn là do tâm lý gia đình ít quan tâm đến nhu cầu đi học, việc làm của người khuyết tật. 12 * Nhu cầu của người khuyết tật Nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt khi nó được coi là thiết yếu cho sự sinh tồn của một con người, một tổ chức hay bất kỳ thứ gì khác [5, tr.4]. Theo quan điểm của nhà tâm lý học A. Maslow, con người có 5 bậc thang nhu cầu được xếp theo thứ tự từ nhu cầu vật chất cơ bản cần thiết đến nhu cầu tinh thần nâng cao như sau: - Nhu cầu về sinh lý: đây là các nhu cầu cần thiết để con người sống và tồn tại như ăn, uống, tình dục, không khí sạch,…khi các nhu cầu này được thoả mãn, thì con người có xu hướng tìm kiếm các đáp ứng nhu cầu cao hơn. - Nhu cầu về an toàn: đây là những nhu cầu giúp con người có cuộc sống an toàn, bình yên, ổn định, được sống trong sự bình ổn về kinh tế, về pháp luật, về trật tự xã hội, không bị đe dọa…, khi nhu cầu sinh lý được thỏa mãn mà nhu cầu an toàn chưa được đáp ứng, thì các nhu cầu an toàn sẽ là động lực điều khiển hành động của con người. Con người mong muốn một thế giới bình yên, mọi sự mất ổn định đều làm cho người ta lo lắng sợ hãi. - Nhu cầu về xã hội: đây là nhu cầu được yêu thương, được kết bạn, được giao tiếp, được tham gia vào các nhóm gắn bó về tình cảm. Những nhu cầu này giúp con người có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, con người thấy được giá trị của mình qua tương tác với những người khác, và họ cũng học được qua người khác, hiểu và biết cách sống chung cùng người khác, biết hoà nhập với mọi người, với cộng đồng, xã hội. - Nhu cầu được tôn trọng: đây là nhu cầu giúp con người sống bình đẳng, tự tin vào khả năng, nhu cầu về vị thế, uy tín, tôn trọng phẩm giá, không bị coi thường, định kiến hoặc chối bỏ. - Nhu cầu được thể hiện mình: đây là nhu cầu về thăng tiến, phát triển. Những nhu cầu này giúp con người phấn đấu, vươn lên, hoàn thiện bản thân, tìm kiếm sự hoàn hảo. Các nhu cầu không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn kết, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong cuộc sống, trước mắt con người mong muốn thỏa mãn những nhu cầu bậc thấp, sau đó mới vươn tới những nhu cầu bậc cao hơn. 13 Người khuyết tật có tất cả các nhu cầu như người bình thường và nhu cầu là nguồn gốc thúc đẩy người khuyết tật hoạt động vươn tới những mục tiêu cho sự phát triển của bản thân. Tuy nhiên, đối với người khuyết tật việc đáp ứng các nhu cầu đó thường gặp khó khăn hơn, vì họ bị khiếm khuyết. Vận dụng thuyết nhu cầu trong việc hỗ trợ kết nối học nghề với giải quyết việc làm cho người khuyết tật sẽ giúp nhân viên xã hội nhận thức rằng dù là người khuyết tật nhưng họ cũng có những nhu cầu cơ bản như những người bình thường khác và một trong những nhu cầu đó là nhu cầu được học nghề, kiếm cách mưu sinh từ đó hỗ trợ việc làm để ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng và phát triển trong xã hội. Do đó sau khi hỗ trợ và đảm bảo những nhu cầu ở bậc thấp thì nhân viên xã hội cũng cần có kế hoạch và chiến lược để hỗ trợ người khuyết tật. Ngoài ra vận dụng thuyết nhu cầu cũng rất hữu ích với nhân viên xã hội trong việc biện hộ để giúp người khuyết tật có được việc làm. Cụ thể là không riêng gì người khuyết tật mà cả những người bình thường như lãnh đạo trong các cơ sở tuyển dụng cũng sẽ có những nhu cầu này. Vậy vận dụng thuyết này chúng ta sẽ hiểu lãnh đạo và quản lý các doanh nghiệp cũng sẽ có những nhu cầu như được thể hiện mình và được xã hội công nhận tôn trọng. Do đó ngoài yếu tố pháp luật, nếu nhân viên xã hội khéo léo vận dụng việc biện hộ để đáp ứng những nhu cầu này của các doanh nghiệp thì khả năng người khuyết tật có được việc làm sẽ cao hơn nhiều. 1.2. Lý luận về hỗ trợ kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật 1.2.1. Một số khái niệm * Khái niệm học nghề Từ điển Việt Nam định nghĩa về học như sau: “Học là thu nhận kiến thức, luyện tập kĩ năng được truyền giảng hoặc từ sách vở” [16, tr.357]. Trong nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Bích Phượng (2013) về Hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình, tác giả có đưa ra định nghĩa về học nghề như sau “Học nghề được hiểu như là khái niệm chỉ việc học có tính bài, có cơ sở dạy nghề, giáo viên, giáo cụ, theo một chương trình và phương pháp căn bản, có dạy lý thuyết và thực hành nghề”. 14 Học nghề có thể hiểu là quá trình tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và có thể liên quan đến việc tổng hợp các loại thông tin khác nhau từ sách vở hoặc sự truyền dạy từ giáo viên, những người am hiểu về các ngành nghề. * Khái niệm đào tạo nghề Cuốn “Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam” của Viện Khoa học lao động và Xã hội và Tổ chức GIZ phối hợp xây dựng đã định nghĩa: “Đào tạo nghề là việc cung cấp kỹ năng, kiến thức một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho các cá nhân có đủ khả năng thực hiện công việc, nghề nghiệp hoặc một nhóm công việc, nghề nghiệp phù hợp” [28, tr.29]. Theo Luật giáo dục nghề nghiệp, “Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học để nâng cao trình độ nghề nghiệp” [20]. Khái niệm “Đào tạo nghề nghiệp” theo Luật giáo dục nghề nghiệp là một khái niệm mới, đầy đủ và bao quát nhất. * Khái niệm việc làm Việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi người vì nhờ nó con người tạo thu nhập để đảm bảo các nhu cầu vật chất, tinh thần của mìnhvà các thành viên trong gia đình, đồng thời là điều kiện để con người tham gia vào các hoạt động xã hội, quan hệ xã hội, qua đó khẳng định vai trò, giá trị xã hội của mình. Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13, các nhà thống kê về lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận tiền công hay hiện vật” [2, tr.5]. Theo pháp luật của Việt Nam quy định tại Khoản 1 Điều 9 Chương 2 của Bộ luật lao động cũng như tại Khoản 2 Điều 3 của Luật việc làm, đều định nghĩa: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm” [22]. 15 Như vậy, việc làm là hoạt động lao động của con người nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân và gia đình mà không bị pháp luật ngăn cấm, bao gồm: - Việc làm hưởng lương: Những người làm các công việc được trả tiền lương hoặc tiền công bằng tiền hoặc hiện vật theo hợp đồng lao động (bằng văn bản hoặc bằng lời nói) với một người khác, tổ chức hoặc doanh nghiệp. Người khuyết tật thường phải đối mặt với nhiều rào cản để có được việc làm hưởng lương. - Việc làm tự chủ: Những người làm các công việc tự làm hoặc các công việc gia đình để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công bằng tiền hoặc hiện vật cho các công việc đó. Việc làm tự chủ là cơ hội kiếm sống chính cho người khuyết tật ở các nước thu nhập thấp. * Khái niệm tư vấn việc làm Theo Từ điển Tiếng Việt, “Tư vấn là đóng góp ý kiến về những vấn đề được hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định” [16, tr.457]. Các hoạt động tư vấn trong thực tế như tư vấn xây dựng, tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm,... Tư vấn việc làm được xem như là hoạt động cung cấp thông tin về thị trường lao động, cho lời khuyên về học nghề, về công việc, trợ giúp những khó khăn tâm lí hay hướng dẫn cho người lao động khi họ có nhu cầu tìm việc làm sau khi học nghề hoặc chưa xác định được ngành nghề phù hợp để học. * Khái niệm giới thiệu việc làm Giới thiệu việc làm là hoạt động trong đó các tổ chức hoặc cá nhân có những thông tin về chỗ việc làm còn trống và giới thiệu cho người tìm việc đến địa chỉ của người sử dụng lao động để tìm hiểu và có thể đi đến thỏa thuận về việc làm; hoặc thông tin về người có nhu cầu làm việc cung cấp cho người sử dụng lao động tiếp xúc và có thể đi đến những thỏa thuận tuyển dụng [17, tr.32]. * Khái niệm kết nối học nghề với việc làm cho người khuyết tật Theo Từ điển tiếng Việt: “Kết nối là làm cho các phần đang tách rời nối liền lại, gắn liền lại với nhau” [16, tr.576]. Trong công tác xã hội kết nối là một trong những vai trò quan trọng trong các hoạt động trợ giúp của nhân viên công tác xã hội, có thể kể đến các hoạt động 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan