Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện từ thực tiễn tỉnh vĩn...

Tài liệu Hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện từ thực tiễn tỉnh vĩnh long

.PDF
95
441
121

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG VĂN VẠN HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH LONG Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số : 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI, 2017 HÀ NỘI - năm LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận văn Đặng Văn Vạn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN ............................... 11 1.1.Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu người nghiện ma túy............................... 11 1.2. Việc làm và hỗ trợ việc làm, các điều kiện hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện ma túy ……………………………….……….. 23 1.3. Vai trò, nguyên tắc, phương pháp, kỹ năng và các hoạt động của công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện ma túy ...................................................................................................................... 27 1.4. Thể chế về công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện…………………………………………………………… . 35 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện ma túy………………………………… . 37 Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH LONG ............................................................................... 41 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh Vĩnh Long ảnh hưởng đến hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy người sau cai nghiện ma túy……………………………………………………………….. . 41 2.2. Thực trạng người nghiên ma túy và thực trạng việc làm của người nghiện ma túy người sau cai nghiện ma túy tại tỉnh Vĩnh Long .................................. 42 2.3. Thực trạng công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm của người sau cai nghiện ma túy tại tỉnh Vĩnh Long hiện nay…………………………………………. . 47 2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với người sau cai nghiện ma túy tại tình Vĩnh Long………..……… . 57 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỔ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH LONG ………………………………………………………………………. . 67 3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác quản lý sau cai, hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện ma túy tại tỉnh Vĩnh Long trong những năm sắp tới ............................................................................................. 67 3.2. Định hướng nâng cao hiệu quả công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện ma túy……………………... 69 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện ma túy…………………………….. . 71 KẾT LUẬN………………………………………………………………… . .74 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 81 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tên đầy đủ NNMTSCN Người nghiện ma túy sau cai nghiện NSCNMT Người sau cai nghiện ma túy THNCĐ Tái hòa nhập cộng đồng CTXH Công tác xã hội THCS Trung học cơ sở PTTH Phổ thông trung học PVS Phỏng vấn sâu MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Về tình hình ma túy thế giới năm 2014, có thể đưa ra một bức tranh tổng thể về những diễn biến chính trên thị trường ma túy với nhiều loại ma túy khác nhau, từ sản xuất đến buôn bán, các cung đường và phương thức mới, cũng như việc tiêu thụ và sử dụng ma túy. Báo cáo đưa ra cái nhìn tổng thể với những tiến triển gần nhất liên quan đến thuốc phiện, cô-ca-in, cần sa và ma túy tổng hợp (am-phe-ta-min) và tác động của việc sử dụng ma túy đối với sức khỏe, đồng thời tập trung vào việc kiểm soát tiền chất được sử dụng trong sản xuất ma túy bất hợp pháp. Bức tranh toàn cầu về ma túy cho thấy tỷ lệ sử dụng ma túy trên toàn cầu vẫn tiếp diễn không có nhiều xáo trộn với khoảng 243 triệu người – tương đương với 5% dân số thế giới ở độ tuổi từ 15 - 64 đã từng sử dụng các chất ma túy trái phép trong năm qua. Trong khi đó số người lệ thuộc ma túy chiếm khoảng 27 triệu người, chiếm xấp xỉ 0.6% dân số trưởng thành trên toàn cầu hay cứ mỗi 200 người thì có một người lệ thuộc vào ma túy. Năm 2012 đã có khoảng 200.000 trường hợp tử vong có liên quan đến ma túy. Theo báo cáo của các nước thành viên của UNODC, số người tiêm chích ma túy hiện là 12,7 triệu người, tương ứng với tỷ lệ 0,27% đối với dân số trong độ tuổi 15 - 64, số người tiêm ma túy chung sống với HIV là 1,7 triệu người. Ước tính hơn một nửa số người tiêm chích ma túy sống chung với viêm gan C. Đây là những con số đáng báo động, trong khi các chất kích thần mới (NPS), tiền chất bất hợp pháp vẫn được bán khá công khai và đang hình thành “mạng đen” – chợ ảo trên internet, trở thành một hang ổ an toàn cho người mua và kẻ bán ma túy bất hợp pháp, thậm chí các đối tượng phạm tội đã và đang sử dụng các thủ đoạn mới để tránh hoạt động kiểm soát quốc tế. Một loạt chất “tiền – tiền chất” mới chưa được quản lý đã mau chóng xuất hiện thay thế cho các tiền chất đã bị quản lý để sản xuất ma túy tổng hợp như (Met-am-phe-ta-min). Điều này tạo ra những thách thức mới cho hệ thống kiểm soát ma túy quốc tế. 1 Báo cáo tình hình ma túy thế giới năm 2014 được UNODC nhấn mạnh, lạm dụng và buôn bán ma túy bất hợp pháp gây hậu quả nguy hiểm. Ma túy bất hợp pháp đe dọa sức khỏe và phúc lợi của người dân. Các rối loại do sử dụng ma túy làm xói mòn các mối quan hệ thân thuộc, tàn phá cuộc sống gia đình, kể cả cuộc sống của con trẻ, tiêu tan cơ hội học hành và việc làm. Với diễn biến phức tạp của tệ nạn ma tuý ở các nước trong khu vực nói chung, ở Việt Nam nói riêng, theo số liệu tổng điều tra, rà soát người nghiện ma túy của Bộ Công an, cuối tháng 9/2014 cả nước có khoảng 204.400 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, gấp 3,7 lần so với năm 1994 (55.445 người). Trong giai đoạn 1994 – 2013, trung bình mỗi năm số người nghiện có hồ sơ quản lý tăng 6,5% tương đương với 6.660 người. Khoảng 90% số quận huyện và 60% số xã phường của cả nước có người nghiện có hồ sơ quản lý. Cũng như ở Mỹ và nhiều quốc gia khác, tệ nạn nghiện ma túy ở Việt Nam cũng có liên quan chặt chẽ tới các tội phạm hình sự: khoảng 13,1 % người nghiện có hồ sơ quản lý năm 2013 đang được quản lý trong các trại giam, trại tạm giam; số đang cai nghiện trong các Trung tâm là 22,4%. Công tác cai nghiện và tái hòa nhập cộng đồng cho người nghiện ma túy vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Khoảng 50% trong số người nghiện ma túy có các vấn đề về sức khỏe tâm thần và thể chất, 38% đã có tiền án, tiền sự. Mô hình cai nghiện tại Trung tâm tốn nhiều kinh phí, hiệu quả hạn chế, tỷ lệ tái nghiện cao, từ 70 – 95%, bên cạnh đó còn chịu nhiều sự chỉ trích của các tổ chức quốc tế về nhân quyền cũng như về cơ sở khoa học điều trị nghiện trong Trung tâm. Hầu hết các học viên đều phải chấp hành đủ 24 tháng cai nghiện tại Trung tâm. Tại các Trung tâm cai nghiện bắt buộc, quy trình cai nghiện được thực hiện theo thông tư 41/2010/TTLT/BLĐTBXH-BYT, ngày 31/12/2010 sau giai đoạn cắt cơn, các học viên được chăm sóc sức khỏe, điều trị các bệnh cơ hội, tư vấn tâm lý, được tổ chức học nghề, tạo việc làm và nhiều hoạt động khác; Tuy nhiên, do cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề thiếu thốn; nên hầu hết các Trung tâm chỉ có thể dạy các nghề đơn giản như: may, mộc, làm lông mi giả, sửa xe Honda… Do vậy, nhiều học viên khi về với gia đình cũng không 2 sử dụng được nghề đã học trong Trung tâm, cơ hội tìm việc làm khó khăn; tỷ lệ tái nghiện sau khi về cộng đồng là rất cao. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống ma túy như: Chỉ thị số 21- CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống ma túy; Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đổi mới công tác cai nghiện ở Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về Tăng cường công tác phòng, chống ma túy trong tình hình mới. Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã đánh dấu thêm một bước tiến quan trọng trong lộ trình đổi mới quan điểm đối với công tác cai nghiện phục hồi bằng việc quy định thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc tòa án nhân dân cấp huyện (trước đây thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện). Những đổi mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính trong việc cai nghiện ma túy bắt buộc đã tăng thêm tính minh bạch, quyền được bào chữa của người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc. Công tác cai nghiện phục hồi tuy đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng về cơ bản tính hiệu quả và bền vững chưa cao, tỷ lệ tái nghiện còn cao. Trình độ văn hoá thấp, không có nghề nghiệp, không có việc làm là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiện ma tuý trong thanh thiếu niên. Hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi được chữa trị, phục hồi là một trong những biện pháp quan trọng có ý nghĩa cả về kinh tế và xã hội, nhằm giúp đối tượng trở về cuộc sống bình thường, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tệ nạn ma tuý. Tuy nhiên, trên thực tế kết quả giải quyết việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi được chữa trị, phục hồi còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này ngoài những khó khăn khách quan của nền kinh tế thị trường còn do nhận thức, trách nhiệm của chính quyền, đoàn thể ở các cấp chưa cao, đặc biệt là chính quyền cấp xã ít quan tâm. Về phía bản thân đối tượng và gia đình họ còn ỷ lại xã hội, không nỗ lực tìm kiếm việc làm. Mặt khác, Nhà nước ta cũng chưa có cơ chế chính 3 sách phù hợp để khuyến khích, huy động nhiều thành phần kinh tế - xã hội tham gia giải quyết việc làm cho đối tượng. Do vậy, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, tạo việc làm, có thu nhập ổn định không những là một nội dung quan trọng của quy trình cai nghiện mà còn là yêu cầu thiết yếu, tạo điều kiện cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng, phòng chống tái nghiện có hiệu quả. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết ở Tỉnh Vĩnh Long nói riêng, ở cả nước ta hiện nay là cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý để giúp họ thực sự tái hoà nhập cộng đồng và có cuộc sống yên ổn, trở thành người có ích cho xã hội. Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn đề tài “Hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Long ” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới Nghiên cứu của nhóm tác giả Klee H, Hilary Klee L, Lain Mclean và Christian Yavorsky C (2002), đã đề cập đến vấn đề này. Một là, ảnh hưởng của những trải nghiệm tại trường học và gia đình đối với người nghiện ma túy thông qua những tiếp xúc về hành vi và tình cảm. Hai là, ảnh hưởng của lối sống hiện đại tới nguy cơ nghiện ma túy của mỗi cá nhân. Ba là, mức độ hài lòng của người nghiện ma túy đối với dịch vụ xã hội. Họ cảm thấy sợ hãi và chưa sẵn sàng cho một cuộc sống mới. Nếu hệ thống an sinh xã hội không đáp ứng được nhu cầu của người nghiện ma túy, cuộc sống của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bốn là, khó khăn trong việc tìm được việc làm của người cai nghiện, do nhà tuyển dụng không tin tưởng vào tính cam kết, nếp sống không ổn định và sự thiếu tự tin của người sử dụng ma túy. Năm là, thành kiến của người sử dụng lao động đối với người cai nghiện. Cuối cùng, nghiên cứu này đề cập đến là sự ảnh hưởng của vấn đề tái hòa nhập cho người cai nghiện đến các chính sách [36]. Tuy nhiên cách tiếp cận này mới chỉ mang tính chất liệt kê các yếu tố bên ngoài mà chưa chú ý đến sự khó khăn tâm lý bên trong khi tiếp cận cơ hội việc làm của người nghiện ma túy. 4 Nghiên cứu của tác giả Copello.A và Orford.J (2002) đã tiến hành nghiên cứu với các thành viên gia đình tại Anh, Mê hi cô, Úc và Ý có người nghiện ma túy. Nghiên cứu này ước tính số gia đình có người nghiện ma túy nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng thường thất bại. Đồng thời, xem xét các mối đe dọa đến bản thân và gia đình người nghiện, gồm cảm xúc, xã hội, tài chính. Nghiên cứu này cũng cho thấy nguy cơ trẻ em sống trong gia đình có người nghiện sẽ có nguy cơ bị lạm dụng, bị bỏ mặc và tổn thương cao hơn. Những phát hiện của nghiên cứu này cũng đề xuất phát triển các dịch vụ hỗ trợ và đề cao vai trò của gia đình trong trợ giúp người nghiện ma túy. Mặc dù đã đề cập đến các khó khăn của gia đình của người nghiện ma túy tuy nhiên nghiên cứu này chưa đề cập đến những khó khăn xuất phát từ chính bản thân người nghiện khi không muốn tìm kiếm sự giúp đỡ. Đối với đề tài này tác giả tham khảo từ các nghiên cứu trên đây trong vấn đề can thiệp với thân chủ của mình, kết nối các nguồn lực và đề cao vai trò trợ giúp của gia đình, vai trò của nhân viên công tác xã hội trong quá trình can thiệp với thân chủ. 2.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau: Trong đề tài nghiên cứu “Quản lý dạy nghề và giáo dục phục hồi nhân cách cho người sau cai nghiện: vấn đề và kinh nghiệm ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Nhu và Hồ Bá Thâm (2008). Các tác giả đã đi từ thực tế các giải pháp quản lý, dạy nghề cho người sau cai nghiện trong chương trình 3 năm tại các trung tâm ở Tp.HCM. Từ đánh giá thực trạng, để phát hiện những nhân tố khách quan và chủ quan, xác định rõ những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động quản lý dạy nghề cho người nghiện ma túy. Từ đó đưa ra các giải pháp về hoạt động quản lý và dạy nghề cho học viên là người nghiện ma túy có tính khả thi theo thời gian quy định (3 năm) ở các đơn vị. Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào giải quyết việc làm, nhu cầu việc làm cho người nghiện ma túy của Thành phố do sở Lao động - Thương binh và Xã hội cùng Lực lượng Thanh niên xung phong thành phố quản lý. Mặc dù nghiên 5 cứu trên bình diện xã hội học nhưng nghiên cứu cũng đã cho thấy thách thức lớn nhất mà người nghiện ma túy đang phải đối mặt là vấn đề việc làm và thỏa mãn nhu cầu việc làm cho họ. Nghiên cứu cũng đã đưa ra những giải pháp cụ thể cho các doanh nghiệp khi sử dụng lao động là người nghiện ma túy. [17]. - Đề tài “Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay” (năm 2008) của Nguyễn Thị Lợi đã chỉ ra rằng việc hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma túy ở nước ta là việc làm cơ bản, cấp bách và lâu dài, có ý nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả công tác cai nghiện, phục hồi, góp phần làm giảm tỷ lệ tái nghiện và phòng chống các Tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, việc làm cho người sau cai nghiện ma túy là vấn đề lớn, cần phải có những giải pháp đồng bộ có hiệu quả, thiết thực không chỉ là trách nhiệm của ngành Lao động mà là của toàn xã hội. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ hỗ trợ tại trung tâm Lao động xã hội có các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp nhận người sau cai nghiện ma túy sẽ góp phần giải quyết tốt vấn đề việc làm cho những người nghiện ma túy khi tái hòa nhập cộng đồng [13]. - Đề tài “Tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện ở thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Hồng Minh (2010), với đã đề cập khá cụ thể các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma túy và sau cai nghiện trên địa bàn TP HCM; các nội dung, phương pháp để hoàn thiện tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng. Về thực tiễn, luận án đã hệ thống hoá được các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma túy và sau cai nghiện trên địa bàn TP HCM; đánh giá được thực trạng về cách tổ chức các hoạt động quản lý, giáo dục thanh niên sau cai (TNSCN) ở TP HCM và chỉ ra những mặt hạn chế để tìm giải pháp khắc phục, hoàn thiện tổ chức tư vấn hướng nghiệp (TVHN) cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng. Đã đề xuất được cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Văn phòng tư vấn hướng nghiệp cho TNSCN làm cơ quan đầu mối cho hoạt động TVHN cho TNSCN ở cộng đồng; đề xuất đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Đội tình nguyện; xây dựng nội dung chương 6 trình giáo dục chuyển biến nhận thức và hành vi TNSCN ở cộng đồng [15]. - Đề tài “Nhu cầu về việc làm của người sau cai nghiện ma túy”, từ cách tiếp cận tâm lý học, tác giả Hoàng Thị Hương (2013) đã nhận định rằng, sau khi được cai nghiện và trở về tái hòa nhập cộng đồng, đa số người nghiện ma túy đều có nhu cầu việc làm. Tuy nhiên, chất lượng việc làm của người sau cai nghiện ma túy chưa tốt là do chưa thực sự đáp ứng, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của họ. Nếu được giúp đỡ, hỗ trợ đúng nhu cầu về việc làm của người sau cai nghiện ma túy thì công việc của họ sẽ thuận lợi hơn [10]. Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách tiếp cận khác nhau. Có thể thấy rằng, các tài liệu mới chỉ đề cập rất ít tới vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập trung nghiên cứu vấn đề hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố đó, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề đã được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực tế ở địa phương, tôi có thể rút ra một số giải pháp hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý tỉnh Vĩnh Long hiện nay. Trong đó sẽ đi sâu vào khía cạnh thực trạng việc làm của người sau cai nghiện ma túy, vai trò của các tác nhân như gia đình, cộng đồng và bản thân người sau cai nghiện ma túy tác động đến khả năng tìm kiếm việc làm và đề xuất những giải pháp theo thực tế nghiên cứu, đưa công tác xã hội vào trợ giúp cho đối tượng là người sau cai nghiện ma túy 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn (qua thực tiễn tỉnh Vĩnh Long) về hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện. Từ đó đề xuất một số biện pháp công tác xã hội trong việc hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. 7 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về ma tuý, sử dụng ma tuý, cai nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện ma tuý. - Phân tích lý luận về hỗ trợ việc làm cho đối tượng sau cai nghiện, góp phần hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của tệ nạn ma tuý đối với kinh tế - xã hội. - Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma túy sau cai nghiện. - Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma túy sau cai nghiện ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Long. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Đề tài nghiên cứu về vấn đề hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý sau cai nghiện trên phạm vi tỉnh Vĩnh Long. - Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý từ năm 2011 đến năm 2015; đề xuất giải pháp cho những năm tiếp theo. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu - Dựa trên quan điểm của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhìn nhận, đánh giá hoạt động dịch vụ công tác xã hội đối với công tác hỗ trợ việc làm cho NSCNMT phải xuất phát từ thực tiễn và đặt hoạt động dịch vụ công tác xã hội đối với NSCNMT trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố khách quan và chủ quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 8 Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 5.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc sử dụng một bảng hỏi soạn sẵn, người điều tra phát bảng hỏi, hướng dẫn cách trả lời, người được hỏi sẽ tự mình ghi câu trả lời ra phiếu bảng hỏi. Điều tra viên thu lại và xử lý. Tác giả sử dụng bảng câu hỏi điều tra đánh giá công tác hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma túy sau cai nghiện tại Vĩnh Long. Số lượng mẫu: 127 mẫu là đối tượng nghiện ma túy sau cai nghiện. 5.2.2. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình phân tích, đánh giá thực trạng công tác xã hội đối với hỗ trợ việc làm cho NSCNMT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Tác giả so sánh sự thay đổi trong mức sống, nhận thức của đối tượng NSCNMT trước và sau cai nghiện. 5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Đối tượng được lựa chọn để trả lời phỏng vấn sâu bao gồm: 5 đối tượng sau cai nghiện ma túy (cả người có việc làm và chưa có việc làm); 5 cán bộ làm công tác phòng chống tệ nạn xã hội và cán bộ lãnh đạo quản lý tại các huyện, thị; 5 hộ gia đình của người sau cai nghiện ma túy. 5.2.4. Phương pháp quan sát Với phương pháp này tác giả đã đến nhà một số gia đình người sau cai nghiện ma túy tại Trung tâm nhằm quan sát và tìm hiểu rõ hơn về cuộc sống thường ngày của họ với mục đích tìm hiểu sâu hơn thực trạng hoàn cảnh cử đối tượng này tại đơn vị nghiên cứu. 5.2.6. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng phương pháp thống kê toán học để phân tích và xử lý dữ liệu có được qua các kết quả nghiên cứu, các kết quả phỏng vấn và số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Về mặt lý luận 9 Nghiên cứu sẽ xác định khung lý thuyết đã xây dựng được hệ thống khái niệm công cụ về hỗ trợ việc làm đối với người cai nghiện ma túy, các nhiệm vụ của công tác xã hội đối với người nghiện ma túy, các yếu tố tác động đến công tác xã hội đối với hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma túy sau cai nghiện. Cơ sở lý luận này góp phần bổ sung và hoàn thiện các vấn đề lí luận về công tác xã hội đối với người nghiện ma túy. 6.2. Về mặt thực tiễn Từ thực tế hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện tại tỉnh Vĩnh Long, nghiên cứu đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện nhìn từ góc độ công tác xã hội. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu góp phần giúp nhân viên công tác xã hội, thúc đẩy sự thành công tìm kiếm việc làm cho người sau cai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long trong điều kiện nguồn lực và hoàn cảnh thực tế. Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người làm nghề CTXH, cán bộ quản lý nghiên cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn về tạo việc làm cho người sau cai nghiện không chỉ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long mà còn phù hợp với điều kiện và tình hình ở mỗi địa phương, góp phần đẩy mạnh công tác phòng chống ma túy, làm giảm tỷ lệ tái nghiện và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu, nội dung luận văn có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện Chương 2: Thực trạng hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Long Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện nhìn từ góc độ công tác xã hội 10 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhu cầu của ngƣời nghiện ma tuý và các lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu. 1.1.1 . Một số khái niệm liên quan đến ma tuý - Ma tuý Thuật ngữ “ma túy” xuất hiện ở Việt Nam ban đầu có ý nghĩa là chỉ thuốc phiện, về sau còn được hiểu là các cây cần sa, cô ca và các loại thuốc tân dược gây nghiện khác. Có ý kiến giải thích thuật ngữ “ma tuý” đó là vì các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái. Nó chữa được một số bệnh có hiệu quả cao và làm tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh, đồng thời làm cho con người mê mẩn, ngây ngất và tuý luý. Và như vậy, thuật ngữ “ma tuý” được ghép từ các từ ma thuật, ma quái và tuý luý. Chương trình kiểm soát ma tuý quốc tế của Liên Hợp quốc (UNDCP) năm 1991 đã xác định: “Ma tuý là những chất độc có tính gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo khi xâm nhập và cơ thể con người thì có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào chúng gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng”; theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Ma tuý là bất kỳ chất gì mà khi đưa vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể”. Hay hiểu ngắn gọn theo cách định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt: “Ma túy là tên gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn và dùng quen thành nghiện”. Từ các quan niệm nêu trên, có thể nêu khái niệm như sau: ma túy là các chất có nguồn gốc từ tự nhiên hay tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó ( Ma túy thiên nhiên: thuốc phiện, cần sa, cây cô ca,...; Ma túy bán tổng hợp: heroin; Ma túy tổng hợp: methamphetamine (ma túy đá), estasy (thuốc lắc),...) 11 - Nghiện ma tuý Khi dùng ma túy lần đầu, người ta thấy có cảm giác lâng lâng, dễ chịu và thèm muốn dùng lại. Ma túy vào cơ thể vài lần sẽ tác động đến cơ quan cảm thụ, gây trạng thái quen thuốc, nếu không dùng tiếp sẽ rất khó chịu, đau đớn, vật vã…, thèm muốn được dùng lại và trở nên nghiện ma tuý. Do đó, nghiện ma tuý, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đó là tình trạng một bộ phận trong xã hội gồm những người có thói quen dùng các chất ma tuý. Còn theo nghĩa hẹp thì nghiện ma túy là sự lệ thuộc của con người cụ thể đối với các chất ma tuý, làm cho con người ta không thể quên và từ bỏ được ma tuý. Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về “nghiện ma tuý”, nhưng chưa có một khái niệm đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) “Nghiện ma tuý là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính có hại cho cá nhân và xã hội do dùng lặp lại một chất ma túy tự nhiên hay tổng hợp” [01, tr.4]. - Cai nghiện ma tuý Với những hậu quả, tác hại mà ma túy gây ra cho người nghiện và gia đình, xã hội… thì tất yếu phải có hoạt động cai nghiện ma tuý, đó là biện pháp giúp người nghiện ma tuý thông qua chữa trị để từ bỏ ma tuý, phục hồi sức khoẻ tinh thần và tái hoà nhập cộng đồng. Thực chất “cai nghiện ma tuý” là quá trình giải quyết sự rối loạn ba yếu tố của người nghiện (trạng thái tâm sinh lý, nhận thức và hành vi). Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa: cai nghiện là một biện pháp tổng hợp gồm các tác động về y học, pháp luật, giáo dục học, đạo đức…nhằm điều trị giúp người nghiện ma túy cắt các hội chứng cai nghiện, phục hồi sức khoẻ và tái hoà nhập xã hội. - Tái nghiện ma tuý Quá trình nghiện ma tuý đã tạo cho người nghiện có phản xạ cực nhạy với ma tuý, cho nên mặc dù đã cắt cơn rồi nhưng trong phạm vi 60 tháng hễ cứ nhìn thấy ma tuý, ngửi thấy hơi người nghiện, tiếp xúc với người nghiện, thậm chí nói đến tên loạn ma tuý quen dùng, là cơn thèm khát ma tuý lại bùng 12 lên dữ dội, khó có thể kiềm hãm được. Vì vậy, khi ra khỏi các trung tâm cai nghiện, người cai trở lại sống với gia đình và cộng đồng, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội còn chưa trong sạch ma tuý dẫn đến khả năng tái sử dụng ma túy là rất cao. Việc tái sử dụng ma tuý chính là tái nghiện ma tuý và theo PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì: Tái nghiện được hiểu là một đối tượng nghiện ma tuý đã được gia đình, chính quyền, các đoàn thể tại địa phương giúp đỡ, giáo dục, chữa trị cai nghiện để trở lại cuộc sống bình thường trong xã hội. Thế nhưng vì một lý do nào đó họ đã không kiềm chế được những ham muốn cá nhân, những suy nghĩ lệch lạc nên lại tiếp tục sử dụng các loại chất ma tuý, người ta gọi trường hợp này là tái nghiện [02]. “Tái nghiện được xem như một quá trình, một loạt kích thích không tốt và cuối cùng dẫn đến việc dùng trở lại các chất ma tuý”. Ranh giới giữa tái sử dụng ma tuý (tái nghiện) và dứt khoát đoạn tuyệt với ma túy là rất mong manh. Chính vì vậy, công việc phòng, chống tái nghiện khi người cai hoà nhập cộng đồng là một việc làm tất yếu phải được thực hiện. - Tác hại của ma túy + Đối với người nghiện: • Gây tổn hại sức khỏe: Hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, các bệnh về da, làm suy giảm chức năng thải độc, nghiện ma túy dẫn đến tình trạng nhiễm độc ma túy mãn tính, suy nhược toàn thân, cơ thể gầy dét do suy kiệt hoặc phù nề do suy dinh dưỡng, rối loạn sinh học, thức đêm ngủ ngày, sức khỏe giảm sút rõ rệt. Người nghiện ma túy bị suy giảm sức lao động, giảm hoặc mất khả năng lao động và khả năng tập trung trí óc, sử dụng ma túy quá liều có thể tử vong. • Gây tổn hại về tinh thần: Người nghiện thường có hội chứng quên, hội chứng loạn thần kinh sớm ( ảo giác, hoang tưởng, kích động...) và hội chứng loạn thần kinh muộn ( Các rối loạn về nhận thức, cảm xúc, về tâm tính, các biến đổi về nhân cách đăc trung cho người nghiện ma túy). Ở trạng thái 13 loạn thần kinh sớm, người nghiện ma túy có thể có những hành vi nguy hiểm cho bản thân và người xung quanh. • Gây tổn hại về kinh tế: Sử dụng ma túy tiêu tốn nhiều tiền bạc. Khi đã nghiện, Người nghiện luôn có xu hướng tăng liều lượng sử dụng, chi phí về tiền của ngày càng lớn, dẫn đến họ bị cạn kiệt về kinh tế. + Đối với gia đình người nghiện: Nghiện ma tuý và tái nghiện ma túy khiến gia đình người nghiện bị điêu đứng về kinh tế: người nghiện lần lượt đem tiền bạc, của cải trong gia đình đi đổi lấy ma tuý, đẩy đời sống gia đình đi vào đổ vỡ, mâu thuẫn, xung đột sâu sắc và bần cùng. + Đối với nền kinh tế: Ma tuý gây ảnh hưởng đến kinh tế xã hội một cách nặng nề. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì đến cuối năm 2014 cả nước có khoảng 204.400 người nghiện có hồ sơ quản lý, nếu trung bình một ngày người nghiện dùng hai tép heroin (mỗi tép giá 50.000đ) thì một năm tổng số người nghiện đã tiêu tốn khoảng 3.679 tỷ đồng. Khi số lượng người nghiện trên tái nghiện thì số tiền tiêu phí sẽ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra, hàng năm ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm tỷ đồng cho công tác cai nghiện phục hồi, phòng chống tái nghiện, trả lượng cho đội ngũ cán bộ làm công tác phòng chống tệ nạn ma tuý, chưa kể tiền của gia đình người nghiện đóng góp. Thêm vào đó, tái nghiện ma tuý làm tổn thất một nguồn nhân lực rất lớn cho phát triển kinh tế vì đại đa số người nghiện, tái nghiện đều trong độ tuổi lao động và còn rất trẻ. Như vậy, thiệt hại về kinh tế do tái nghiện ma túy không chỉ dừng lại ở các con số kể trên. + Tác hại đối với xã hội Nghiện ma túy gắn liền với bệnh tật, nghiện ma tuý là thân tàn ma dại, sức khoẻ bị suy kiệt, người nghiện chỉ có tuổi thọ trung bình là 40 tuổi, trong khi tuổi thọ bình quân của người bình thường là 75 tuổi. Vì thế sẽ là lãng phí nguồn nhân lực, sức lực lớn nếu như không tổ chức cai nghiện, hỗ trợ việc làm giúp người sau cai nghiện tái hoà nhập cộng đồng phòng ngừa tái nghiện cho gần hai trăm ngàn người nghiện, trong đó chiếm tới 80% là thanh niên. 14 Nghiện ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh, trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng và lan rộng các căn bệnh xã hội nguy hiểm như HIV/AIDS, ảnh hưởng đến văn hoá, đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục, bản sắc và giá trị văn hoá của dân tộc. Nghiện ma tuý có mối quan hệ liên đới với rất nhiều loại tệ nạn và tội phạm xã hội khác: khoảng 85% người nghiện ma túy có tiền án, tiền sự, 40% các vụ trọng án là do người nghiện ma túy gây ra. Thông qua các vấn đề xã hội cũng như việc giải quyết các vấn đề đó có thể đánh giá khả năng điều hành đất nước của một chính phủ nào đó và tình hình chính trị ổn định như thế nào. Không loại trừ nguy cơ các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề ma tuý để công kích sự nghiệp cách mạng của nước ta. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm người nghiện ma túy sau cai nghiện ma tuý * Khái niệm: Người sau cai nghiện ma túy là người từng bị lệ thuộc vào ma túy và đã được áp dụng các hoạt động điều trị, tư vấn, học tập, lao động và rèn luyện nhằm chấm dứt tình trạng lệ thuộc vào ma túy và đang tái hòa nhập xã hội, chịu sự quản lý của cộng đồng nơi cư trú hoặc tiếp tục tham gia hoạt động trong các trung tâm quản lý sau cai nghiện [3, tr.63]. Hiện nay, theo Nghị định 94/2009/NĐ-CP, ngày 26 tháng 10 năm 2009 của chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy, khi nói đến Người nghiện ma túy sau cai nghiện là nói đến học viên cai nghiện trong các Trung tâm quản lý sau cai nghiện và cả những người nghiện ma túy sau cai nghiện tại cộng đồng có thể tiếp tục điều trị nghiện bằng hình thức dùng thuốc điều trị thay thế Methadone [4, Điều 5, khoản 1 điều 17] Như vậy, Người nghiện ma túy sau cai nghiện là người từng sử dụng và lệ thuộc vào ma túy, vừa trải qua quá trình cai nghiện phục hồi. Trong quá trình đó, họ đã được hỗ trợ hàng loạt các liệu pháp về y tế, tâm lý, xã hội...làm cho chức năng tâm sinh lý được phục hồi. Quá trình cai nghiện phục hồi giúp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan