Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động của vks trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp [tt...

Tài liệu Hoạt động của vks trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp [tt]

.PDF
28
389
136

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó, VKS giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế của hoạt động điều tra, ngay từ khi khởi tố, bắt giữ người phạm tội, yêu cầu điều tra thu thập chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ sự thật khách quan của vụ án, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính xác, điều tra để truy tố mọi tội phạm. Hoạt động THQCT và KSĐT của VKS hướng đến tính chính xác, khách quan của quá trình chứng minh sự thật của vụ án hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm của CQĐT, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội. Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từ khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam, phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra ngày càng nâng cao, đưa tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự đạt 96%, tỷ lệ truy tố đạt 98-99%; hạn chế đáng kể các trường hợp phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và Tòa án tuyên bị cáo vô tội. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động THQCT và kiểm sát HĐTP trong giai đoạn điều tra cũng như các hoạt động tiến hành tố tụng khác như điều tra, truy tố, xét xử, còn có những hạn chế, yếu kém chung là còn được tiến hành theo nếp cũ, chưa kịp đổi mới tư duy; nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp làm cho quá trình giải quyết vụ án chậm chạp, kéo dài, chi phí tiến hành tố tụng tốn kém; tình trạng áp dụng BPNC bắt, tạm giam quá phổ biến; Chưa có sự phân định hợp lý chức năng, nhiệm vụ, thẩm 2 quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; Cơ chế đảm bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng còn bất cập, nhất là quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, khắc phục những tồn tại, hạn chế các hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, về phương diện lý luận đã đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu như đổi mới việc thực hiện hoạt động THQCT theo phương hướng gắn với hoạt động điều tra; đổi mới phương thức KSĐT ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra, nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật; góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ chức Việt Nam XHCN. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng, chống tội phạm, của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tác giả chọn vấn đề “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: hoạt động của VKSND theo qui định của BLTTHS năm 2003 trong điều tra vụ án hình sự. Đây là hoạt động nhằm thực hiện chức năng THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra được tiến hành bởi người tiến hành tố tụng của VKS. Phạm vi nghiên cứu: luận án nghiên cứu hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ khi vụ việc vi phạm pháp luật bị CQĐT trong lực lượng Công an nhân dân hoặc bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi động hoặc tái khởi động tiến trình điều tra vụ án hình sự bằng các quyết định khởi tố vụ án, điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại đến khi CQĐT hoàn thành nhiệm vụ điều tra bằng việc kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra vụ án. 3 Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2004 (năm BLTTHS năm 2003 có hiệu lực) đến 2013 (thời điểm 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003). Về không gian, luận án nghiên cứu hoạt động của VKS trên địa bàn toàn quốc, nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng án hình sự thụ lý hàng năm lớn nhất Việt Nam, mang nhiều sắc thái tiêu biểu của tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai. 3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu của cán bộ giảng dạy, sinh viên trong các trường đại học luật, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp như Học Viện tư pháp, Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người quan tâm, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố Việt Nam trong điều tra hình sự. 4. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự. Chương 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp. 4 PHẦN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. nh h nh nghi n ứu nư ng i Chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cơ quan công tố trong TTHS của một số quốc gia tiêu biểu cho những hệ thống pháp luật hiện đại đều được thể hiện một cách tập trung, rõ ràng nhất tại các BLTTHS của các quốc gia này. Qua nghiên cứu BLTTHS của Liên Bang Nga, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn quốc,... Việc cải cách các cơ quan công tố - một bộ phận của cải cách tư pháp, đã làm xuất hiện một hình thức tổ chức và hoạt động mới của cơ quan công tố nói riêng và mô hình TTHS nói chung đó là mô hình TTHS kết hợp. Đó là mô hình TTHS có sự kết hợp các ưu điểm của hai mô hình TTHS tranh tụng và thẩm vấn trên cơ sở điều kiện riêng biệt về địa lý, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống tiến hành TTHS và mục tiêu phát triển của từng quốc gia. Cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu trực tiếp với các nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài của nghiên cứu sinh là việc tham dự khóa học ngắn hạn do United Nations Asia and Far East Institute (UNAFEI) tổ chức tại Nhật bản trong năm 2009 về vấn đề "Luật và Đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán, Công tố viên và các nhân viên thực thi pháp luật" (Ethics and Codes of Conduct for Judges, Prosecutors and Law Enforcement Officers). Kiến thức và kinh nghiệm có được từ các giảng viên đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc có giá trị tham khảo rất lớn khi nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS, đặc biệt là các giải pháp liên quan đến yếu tố con người; Việc tham gia các hội thảo khoa học về cải cách tư pháp, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 do Viện khoa học kiểm sát tổ chức dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA trong năm 2012; tham gia hội thảo phòng, chống tiêu cực trong HĐTP - Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới do Bộ tư pháp tổ chức ngày 03/4/2014 dưới sự tài trợ của Chương trình đối tác tư pháp Liên minh Châu Âu, cũng là 5 nguồn tài liệu nghiên cứu rất có giá trị trong việc định hình, xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học của tác giả đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài. 2. nh h nh nghi n ứu iệt Nam - Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ: Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, của tập thể các tác giả, Hà Nội, 1999; Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả năm 2008; Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, 2011; Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn Hải Phong và các tác giả. - Bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành: Lý Văn Chính, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2005; Đỗ Văn Đương, “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/7/ 2006; Lê Văn Cảm, "Bàn về hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án trong chiến lược cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 01/2009; Trần Công Phàn, "Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 03/2012; Trịnh Tiến Việt, "Khái niệm và các tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm soát xã hội đối với tội phạm", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách tư pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 6 16/2012; Nguyễn Hòa Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012; Nguyễn Thị Thủy, "Sửa đổi bổ sung Bô luật TTHS nhằm thực hiện chủ trương của Đảng - Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra”, tạp chí Kiểm sát 21/2012; Nguyễn Thái Phúc, "Sửa đổi nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành kiểm sát nhân dân", tạp chí Kiểm sát 17/2012; Trần Văn Độ, "Hoàn thiện các qui định của BLTTHS về biện pháp tạm giam", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Trần Đình Nhã, "Chế định điều tra tội phạm trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đỗ Văn Đương, "Phân định rõ thẩm quyển quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định chứng cứ trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 16/2012; Đào Trí Úc, "Đề xuất đổi mới VKS ở Việt nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", tạp chí Kiểm sát số 12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, "Vai trò cơ quan công tố các nước trên thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự", tạp chí Kiểm sát số 13/2013; Lê Thị Tuyết Hoa, "Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra", tạp chí Kiểm sát số 08/2014; - Báo cáo tổng kết chuyên đề trong ngành kiểm sát: Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các công tác của ngành kiểm sát nhân dân qua 50 tổ chức và hoạt động, Hà Nội, 2010; Báo cáo kết quả tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003, Hà Nội, 2012 - Chuyên đề tổng kết nghiệp vụ kiểm sát: Một số kinh nghiệm về Công tác THQCT và KSĐT án xâm phạm an ninh quốc gia từ năm 2005 đến năm 2007 của Vụ THQCT và KSĐT án an ninh năm 2007; Nâng cao chất lượng THQCT, KSĐT và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng” của Vụ THQCT và KSĐT án ma túy năm 2008; 7 + Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên trong công tác KSĐT án giết người của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về trật tự xã hội năm 2008; + Tổ chức bộ máy và tình hình hoạt động THQCT và KSĐT án tham nhũng của ngành Kiểm sát trong hai năm 2007-2008 của Vụ THQCT và KSĐT án tham nhũng năm 2009; + Thực trạng công tác KSĐT tội phạm công nghệ cao - Một số giải pháp và kiến nghị của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về kinh tế và chức vụ năm 2009; + Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Vụ THQCT và KSĐT án trật tự xã hội” năm 2011. - Đề tài nghiên cứu khoa học TTHS của Viện khoa học kiểm sát với sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp lý Nhật Bản và Cộng đồng Châu Âu: Mô hình TTHS thế giới; Mô hình TTHS Việt nam; Nghiên cứu về một số cơ quan công tố trên thế giới; So sánh pháp luật TTHS Việt nam và một số nước trên thế giới; Chỉ dẫn về công tác công tố; Định hướng sửa đổi luật tổ chức VKSND năm 2002 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp - Luận văn thạc sĩ luật học, điển hình có: Vũ Thị Xuân Nhuệ "Một số hoạt động KSĐT án kinh tế tại TP.Hồ Chí Minh 1991-1996"; Đoàn Tạ Cửu Long "Công tác KSĐT án trị an tại thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 2000 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"; Võ Phước Long "Chức năng của VKSND trong TTHS" năm 2007; Đoàn Tấn Minh "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Tiền giang" năm 2008; Nguyễn Văn Tấn "Hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay" năm 2008;… - Luận án tiến sĩ, điển hình có: Nguyễn Thị Mai Nga "Cơ sở lý luận và thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy", Nhà xuất bản thông tin và truyền thông năm 2012; Đào Hữu Dân Mối quan hệ giữa cơ quan cảnh sát điều tra với VKS trong điều tra vụ án hình sự, Luận án tiến sĩ luật học trường Đại học cảnh sát nhân dân năm 2006;… 8 - Về hoạt động nghiên cứu riêng của nghiên cứu sinh nhằm thực hiện đề tài, gồm có: chuyên đề "Cơ sở khoa học của hoạt động THQCT và kiểm sát HĐTP trong điều tra hình sự" năm 2010; chuyên đề "Chức năng, nhiệm vụ và phương hướng hoàn thiện hoạt động THQCT, kiểm sát HĐTP trong điều tra hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2011; chuyên đề "Thực trạng hoạt động của VKS trong điều tra hình sự" năm 2011; Tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra đối với Kiểm sát viên, luật sư, lãnh đạo VKS hai cấp tại một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Long An. 3. Giả thuyết, mục tiêu, mụ đí h nghi n ứu Trong nhận thức chung về quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của VKS trong từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ nói chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng còn khác nhau, tồn tại nhiều luận điểm khác biệt, mâu thuẫn. Từ sự nhận thức khác biệt về nhận thức này kéo theo hệ quả là việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt động chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS chưa được hợp lý nên tất yếu chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Để hoàn thành đề tài "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phải trả lời được những câu hỏi sau đây: - Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình, có những vấn đề gì cần nghiên cứu để đảm bảo tính nhất quán trong nhận thức và thực hiện? - Ưu điểm và hạn chế của truyền thống tổ chức, hoạt động của VKSND Việt nam là gì và những kinh nghiệm quí của thế giới có tính khả thi đối với Việt nam trong việc tổ chức, hoạt động của cơ quan công tố nhằm thực hiện cải cách để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự như thế nào? 9 - Mục đích, yêu cầu, nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đối với nền tư pháp nói chung và đối với VKS trong điều tra vụ án hình sự là gì? - Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào? - Những phương hướng, nội dung, giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp là gì? Giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, kết quả mà luận văn hướng tới là: trở thành nguồn tài liệu tham khảo kể trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn đối với những ai quan tâm nghiên cứu về một loạt hoạt động TTHS đặc biệt - hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự; và cao hơn nữa hướng tới sự đóng góp nhất định đối với công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta hiện nay, thông qua việc đề xuất hoàn thiện BLTTHS năm 2003. 4. Phương pháp luận v phương pháp nghi n ứu Phương pháp luận thực hiện đề tài dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước và trong TTHS; và các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. 10 PHẦN NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠ ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁ RONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Được trình bày từ trang 18 đến trang 81 của Luận án, gồm các nội dung sau: 1.1 Điều tra vụ án hình sự 1.1.1 Khái niệm điều tra vụ án hình sự Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 thì điều tra được hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình... phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình sự gồm các hoạt động cụ thể sau: + Hỏi cung bị can; + Lấy lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; + Khám xét (khám người, khám chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc); + Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện; + Khám nghiệm (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi); + Xem xét dấu vết trên thân thể; + Thực nghiệm điều tra; + Trưng cầu giám định. 1.2 Hoạt động của Viện kiểm sát tr ng điều tra vụ án hình sự THQCT và kiểm sát HĐTP là chức năng Hiến định của VKS. Việc thể hiện trên thực tế chức năng Hiến định này thành các chức năng tố tụng của VKS trong từng hoạt động cụ thể có sự khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở là QCT và kiểm sát HĐTP. 1.2.1 Thực hành quyền công tố Để có khái niệm đúng đắn, toàn diện về khái niệm "Thực hành 11 quyền công tố" với ý nghĩa là một chức năng Hiến định, một nội dung hoạt động của VKS trong TTHS, cần bắt đầu tìm hiểu các thành tố của nó như: công tố; quyền công tố. 1.2.1.1 Những vấn đề cơ bản về quyền công tố Công tố có nội hàm gồm "sự buộc tội" và “công”, có nghĩa là sự buộc tội của Nhà nước đối với người bị truy cứu TNHS1. Về chủ thể thực hiện, công tố được thể hiện thông qua người thực hiện sự cáo buộc ấy là Nhà nước. Về đối tượng, công tố nhằm vào không chỉ là một con người cụ thể mà còn có thể là một pháp nhân. Về lĩnh vực công tố, việc cáo buộc không hạn chế chỉ trong một lĩnh vực mà nó có thể được thể hiện và tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau tùy theo hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới từng loại quan hệ pháp luật khác nhau. Về phạm vi, công tố là thẩm quyền được Nhà nước thực hiện qua các giai đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử. Tóm lại, QCT là quyền năng của cơ quan có thẩm quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với cá nhân phạm tội để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích của công dân2. 1.2.1.2 Những vấn đề cơ bản của thực hành quyền công tố THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Mục đích của thực hành quyền công tố Lê Cảm (1999), “Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố”, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt nam từ 1945 đến nay, Viện khoa học VKSND Tối cao, Hà Nội, Tr. 1-8. 2 Lê Hữu Thể và các đồng tác giả (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 1 12 Theo Điều 1 BLTTHS năm 2003, THQCT là hoạt động của VKS nhằm mục đích phát xử lý nhanh chóng, kịp thời, công minh, mọi hành vi phạm tội. Chủ thể thực hành quyền công tố Thực hành quyền công được pháp luật giao cho một chủ thể duy nhất, đó là VKSND. Đối tượng thực hành quyền công tố Đối tượng của hoạt động THQCT là hành vi phạm tội được qui định trong BLHS. Phạm vi thực hành quyền công tố Phạm vi THQCT trong điều tra vụ án hình sự chính là việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội được giới hạn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Nội dung thực hành quyền công tố Nội dung THQCT là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng nhằm buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi hành vi phạm tội xảy ra và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Hình thức thể hiện của thực hành quyền công tố Quyền năng này được thể hiện qua các hình thức: văn bản pháp luật cá biệt có tính “mệnh lệnh” - quyết định; biên bản; công văn; hành vi và lời nói của Kiểm sát viên. 1.2.1.3 Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự Theo qui định của Điều 112 BLTTHS năm 2003, hoạt động THQCT trong điều tra vụ án hình sự 6 nhóm hoạt động THQCT. So với BLTTHS năm 2003, Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014, đã cụ thể hơn, rõ ràng hơn khi qui định các hoạt động thực hiện chức năng THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra. Về bản chất, các hoạt động này không thay đổi nhưng được đổi mới cách thức biểu đạt theo hướng tổng hợp, khái quát cao nhưng cụ thể các trường hợp, điều kiện áp dụng, 13 phù hợp với thực tiễn công tác kiểm sát. Về hình thức, Điều 14, Luật tổ chức VKSND năm 2014 xác định và phân chia hoạt động THQCT của VKS trong điều tra vụ án hình sự thành 11 nhóm hoạt động. Trong đó, bổ sung hoạt động phê chuẩn, không phê chuẩn, quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; bổ sung hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc THQCT theo qui định của BLTTHS; bổ sung những hoạt động THQCT mà từ trước đến nay VKS vẫn thực thực hiện trên thực tế nhưng chưa được Điều 112 BLTTHS năm 2003 qui định (hoạt động quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc). 1.2.2 Kiểm sát hoạt động tư pháp Các vấn đề có liên quan đến chức năng thứ hai - KSHĐTP và KSVTTPL trong tố tụng hình sự cần được làm rõ. Đặc biệt là các khái niệm: HĐTP, kiểm sát HĐTP, kiểm sát HĐTP trong điều tra vụ án hình sự. 1.2.2.1 Hoạt động tư pháp HĐTP hình sự là hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng nhằm giải quyết các vụ án hình sự. HĐTP trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động của CQĐT, của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp và hoạt động chức năng của VKS nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật3. 1.2.2.2 Những vấn đề cơ bản về kiểm sát hoạt động tư pháp Kiểm sát HĐTP là một dạng giám sát về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các HĐTP là sự giám sát trực tiếp Lê Hữu Thể và các đồng tác giả (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà nội, Tr 84. 3 14 các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng. Kiểm sát HĐTP là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Quốc hội giao cho VKS nhằm mục đích bảo đảm pháp chế trong HĐTP. Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp Phát hiện kịp thời để loại trừ vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Chủ thể kiểm sát hoạt động tư pháp Chủ thể của hoạt động KSHĐTP là Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên của VKS có thẩm quyền. Đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp KSHĐTP chủ yếu tập trung vào hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thẩm quyền thực hiện một số HĐTP theo qui định của pháp luật tố tụng. Phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong HĐTP bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án. Nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp KSHĐTP là kiểm tra và giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số HĐTP trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự và các HĐTP khác theo qui định của pháp luật. Hình thức thể hiện của kiểm sát hoạt động tư pháp KSHĐTP được thể hiện một cách phổ biến thông qua hành vi của Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án. Từ nội dung phân tích nêu trên, có thể khẳng định khái niệm kiểm sát HĐTP là “Hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các 15 hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong HĐTP”4[40]. 1.2.2.3 Những vấn đề cơ bản về kiểm sát điều tra KSĐT là một hình thức kiểm sát HĐTP và là một nhiệm vụ, đồng thời cũng là chức năng của VKS. Mục đích kiểm sát điều tra Mục đích của hoạt động KSĐT là nhằm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất. Đối tượng kiểm sát điều tra Trong giai đoạn điều tra, đối tượng của KSĐT là hành vi và quyết định của CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Phạm vi kiểm sát điều tra Phạm vi của hoạt động KSĐT vụ án hình sự được bắt đầu từ khi hoạt động điều tra vụ án được tiến hành và kết thúc khi đạt được mục đích, yêu cầu để truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra trước Tòa án hoặc khi vụ án được đình chỉ theo qui định của pháp luật TTHS. Nội dung kiểm sát điều tra Điều 113, BLTTHS năm 2003 qui định thông qua việc thực thi nhiệm vụ quyền hạn chung và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các chức danh tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra, gồm 05 nhóm hoạt động. So với BLTTHS năm 2003, Điều 15 Luật tổ chức VKSND 2014 có nhiều điểm đổi mới trong qui định về hoạt động KSĐT vụ án hình sự. Xu hướng đổi mới cơ bản là rõ ràng hơn, cụ thể hơn những hoạt động KSĐT đã được qui định tại BLTTHS năm 2003. Với 08 nhóm hoạt động KSĐT, Điều 15 Luật tổ chức VKSND đã: bổ sung đối tượng KSĐT là các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; qui định cụ thể hơn quyền yêu cầu, kiến nghị xử lý vi phạm pháp luật của VKS đối với người tham gia 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. 16 tố tụng; bổ sung quyền yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra; bổ sung qui định có “tính mở” về nhiệm vụ, quyền hạn khác trong KSĐT theo qui định của BLTTHS. Hình thức thể hiện của kiểm sát điều tra Hình thức KSĐT thụ động (VKS không chủ động tiến hành; phụ thuộc vào hoạt động điều tra) và hình thức KSĐT chủ động (không phụ thuộc vào hoạt động điều tra; VKS chủ động tiến hành). 1.2.3 Hoạt động tổ chức và chỉ đạo thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự Hoạt động tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự có vị trí, vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng THQCT, KSĐT, đạt được mục tiêu khởi tố, điều tra các vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. 1.2.3.1 Khái niệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự Khái niệm tổ chức và chỉ đạo công tác THQCT và KSĐT các vụ án hình sự được hiểu là hoạt động của người có chức vụ, quyền hạn trong ngành Kiểm sát tổ chức, phân công, điều hành các đơn vị và cá nhân dưới quyền thực hành chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố người phạm tội đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không làm oan sai người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. 1.2.3.2 Một số vấn đề cơ bản trong tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự Chủ thể thực hiện hoạt động tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự: Viện trưởng, Phó Viện trưởng (khi được uỷ quyền hoặc được phân công) của VKSND cấp huyện, cấp tỉnh và VKSND tối cao; Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng Vụ nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao. 17 Đối tượng của hoạt động tổ chức chỉ đạo, điều hành là cán bộ, Kiểm sát viên dưới quyền và những hoạt động trong phạm vi thực hiện thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm tra vụ án hình sự. Phạm vi hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành được thực hiện trong quá trình THQCT và KSĐT các vụ án hình sự. Phương pháp thực hiện công tác này đòi hỏi người lãnh đạo có phương pháp khoa học, hợp lý, phát huy được hiệu quả hoạt động của các tập thể và cá nhân dưới quyền. Nội dung công tác tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự: Đối với giai đoạn điều tra, tương ứng với mỗi hoạt động THQCT và KSĐT có một hoạt động tổ chức và chỉ đạo thực hiện. Hình thức thể hiện của hoạt động tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự: 02 hình thức: lời nói (chỉ đạo trong các cuộc họp nội bộ và liên ngành nhằm giải quyết các nhiệm vụ cụ thể); văn bản (thông qua các hình thức cụ thể như báo cáo – đề xuất, bút phê, công văn, kế hoạch, biên bản, qui chế, qui định…). 1.2.4 Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự Chức năng THQCT và KSHĐTP trong TTHS luôn luôn được xác định là hai chức năng nghiệp vụ của VKSND. Giữa chúng luôn có mối quan hệ và sự tác động qua lại lẫn nhau. 1.3 Yêu cầu cải á h tư pháp đối v i hoạt động của Viện kiểm sát tr ng điều tra vụ án hình sự Việt nam hiện nay 1.3.1 Tình hình tội phạm trong bối cảnh đổi mới nền kinh tế, xã hội và quan điểm cải cách tư pháp đối với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự Sự phát triển nhanh chóng, sôi động của kinh tế thị trường đặt ra nhiều vấn đề nhức nhối làm cho xã hội bức xúc cần được giải quyết. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã và đang đặtra những yêu cầu đổi mới về pháp luật. 18 Công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước đặt ra vấn đề đổi mới hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của VKS. Tình hình tội phạm trên địa bàn cả nước nói chung, nhất là trên địa bàn các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… trong những năm gần đây tiếp tục diễn biến phức tạp, gia tăng cả về số vụ, số người phạm tội. Quan điểm cải cách tư pháp đối với hệ thống VKS trong Bộ máy Nhà nước ta trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 đã rõ, được thể hiện qua các luận điểm sau: + VKS vẫn giữ chức năng THQCT và kiểm sát HĐTP, được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án, được bảo đảm tốt hơn các điều kiện để thực hiện tốt hơn hoạt động chức năng; + Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra; + Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp; + Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động của VKS. 1.3.2 Hoạt động của Viện công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cải cách tư pháp đối với Việt Nam Qua nghiên cứu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan công tố của một số quốc gia, đại điện cho hai hệ thống pháp luật tiêu biểu của thế giới đương đại, có thể khái quát định hướng đổi mới hoạt động của VKS Việt Nam trong điều tra vụ án hình sự có thể là[42]: -Tùy theo truyền thống pháp luật và đặc điểm của từng quốc gia mà việc tổ chức và hoạt động THQCT của Cơ quan công tố có những đặc điểm, tính chất khác nhau. - Trên nền tảng truyền thống tố tụng thẩm vấn (có nguồn gốc từ mô hình tố tụng thẩm vấn đã có sự kết hợp với mức độ nhất định các yếu tố 19 tích cực của mô hình tố tụng tranh tụng), kết hợp với các yếu tố tích cực của truyền thống tố tụng tranh tụng, căn cứ yêu cầu cải cách tư pháp “Gắn công tố với hoạt động điều tra”, “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” được ghi trong các văn bản của Đảng trong những năm gần đây, nước ta cần học tập kinh nghiệm các nước theo truyền thống tố tụng thẩm vấn (như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên bang Đức), để phát huy mạnh mẽ vai trò của VKS trong giai đoạn điều tra, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm trong hoạt động điều tra. Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠ ĐỘNG Ư PHÁP RONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Được trình bày từ trang 82 đến trang 127 của Luận án, có phụ lục số liệu hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ 2003- 2013, cụ thể như sau: 2.1 Một số vấn đề từ thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự 2.1.1 Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can: Điều 103, 104,126 BLTTHS năm 2003 2.1.2 Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC: Điều79, 80, 81, 82, 86,87, 88, 91, 92, 93, 9,4, 129,130,133, 134 BLTTHS năm 2003. 2.1.3 Đề ra yêu cầu điều tra : Điều 112, 114 BLTTHS năm 2003 2.1.4 Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra: Điều 131,135, 138 BLTTHS năm 2003. 2.1.5 Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; yêu cầu CQĐT truy nã bị can: Điều 160, 161, 162, 164, 165 BLTTHS năm 2003 2.1.6 Thủ tục rút gọn: Điều 319, 320, 321, 322, 323 BLTTHS năm 2003 20 2.2 Một số vấn đề từ thực trạng kiểm sát điều tra vụ án hình sự 2.2.1 Kiểm sát các hoạt động điều tra - Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định: Điều 150, 151 BLTTHS năm 2003. - Kiểm sát việc xem xét dấu vết trên thân thể: Điều 152 BLTTHS năm 2003. - Kiểm sát thực nghiệm điều tra :Điều 153 BLTTHS năm 2003. - Kiểm sát hoạt động trưng cầu giám định: Điều 155 BLTTHS năm 2003. - Kiểm sát hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can: Điều 64, 133,134 BLTTHS năm 2003. - Kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản: Điều 141 BLTTHS năm 2003. 2.2.2 Kiểm sát việc nhập, tách, chuyển vụ án hình sự; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra: Điều 116,117 BLTTHS năm 2003. 2.2.3 Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án hình sự: Điều 35 BLTTHS năm 2003; Thông tư liên tịch 05/2005 2.2.4 Kiểm sát điều tra vụ án hình sự bị điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại: Điều 121, 166 BLTTHS 2003; Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010. 2.2.5 Xử lý vi phạm theo quy định của BLTTHS trong điều tra vụ án hình sự; giải quyết khiếu nại trong điều tra vụ án hình sự:Điều 329 BLTTHS năm 2003. 2.3 Một số vấn đề từ thực trạng tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự 2.3.1 Thực trạng tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong nội bộ Viện kiểm sát Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT và khi KSĐT đã được BLTTHS 2003 xác định tại Điều 112 và Điều 113 chưa chuẩn xác,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan