ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
LẠI THỊ THANH BÌNH
HOẠT ĐỘNG GIẢI TRÍ CỦA NGƯỜI DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
SỐNG TRONG KHU VỰC ĐANG CÔNG NGHIỆP HOÁ,
ĐÔ THỊ HOÁ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội – 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
LẠI THỊ THANH BÌNH
HOẠT ĐỘNG GIẢI TRÍ CỦA NGƯỜI DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
SỐNG TRONG KHU VỰC ĐANG CÔNG NGHIỆP HOÁ,
ĐÔ THỊ HOÁ HIỆN NAY
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30
LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC
Người hướng dẫn khoa học: T.S Mai Thị Kim Thanh
Hà Nội - 2010
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
Mục lục
Trang
Mục lục
1
Danh mục bảng biểu
3
Phần 1. Phần mở đầu
4
1. Lý do chọn đề tài
4
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
5
3. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
5
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT
7
PHẦN 2. NỘI DUNG CHÍNH
10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
10
1.1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
10
1. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
14
1. 3. HỆ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
20
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
25
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐỊA BÀN KHẢO SÁT
25
1.1.1. Tỉnh Vĩnh Phúc
25
1.2.2. Phường Khai Quang
25
2.2. HOẠT ĐỘNG GIẢI TRÍ CỦA NGƯỜI DÂN SỐNG TRONG KHU VỰC
ĐANG CHN, ĐTH
28
2.2.1. Nhận thức của người dân về giải trí
28
2.2.2. Sự tham gia các hoạt động giải trí của người dân
31
2.2.2.1. Giải trí tại nhà
34
2.2.2.2. Giải trí ngoài gia đình
36
2.2.3. Các nhân tố tác động đến nhu cầu và sự tham gia giải trí của người
dân sống trong khu vực đang CNH, ĐTH
50
2.2.3.1. Nguyên nhân mang tính vĩ mô - bối cảnh xã hội chuyển đổi và phát
triển
50
2.2.3.2. Hạ tầng phục vụ giải trí của địa phương
53
1
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
2.2.3.2. Vấn đề thu hồi ruộng đất - một yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt
động vui chơi giải trí của người dân
54
2.2.3.3. Nhóm nguyên nhân từ những đặc điểm cá nhân và hộ gia đình (mức
sống, nghề nghiệp, học vấn; tuổi)
57
2.2.4. Hoạt động vui chơi giải trí của người dân sống trong khu vực đang
CNH, ĐTH – những thách thức đặt ra
69
KẾT LUẬN và KHUYẾN NGHỊ
74
Tài liệu tham khảo
78
Phụ lục
80
2
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Biểu đồ 1: Nhận thức của người dân về mức độ cần thiết của giải trí
29
Bảng 2.1. Loại hình giải trí yêu thích trong thời gian rỗi
32
Bảng 2.2. Mức độ tham gia các hoạt động giải trí tại nhà của người dân
36
Bảng 2.3. Mức độ sang chơi nhà hàng xóm, đi sinh nhật, mừng thọ
38
Bảng 2.4. Mức độ sử dụng dịch vụ giải trí ngoài cộng đồng
41
Bảng 2.5. Mức độ tham gia các môn thể thao
44
Bảng 2.6. Mức độ tham gia các tổ chức xã hội
45
Bảng 2.7. Mức độ tham gia sinh hoạt tín ngưỡng của người dân
49
Bảng 2.8. Phần trăm thu nhập tính theo năm dành cho giải trí
57
Bảng 2. 9. Phương tiện giải trí có trong gia đình
58
Bảng 2.10. Tương quan giữa tổng mức thu nhập của hộ gia đình
với các phương tiện giải trí hiện có trong gia đình
60
Bảng 2.11. Tương quan giữa mức thu nhập hộ gia đình với
mức độ sử dụng dịch vụ giải trí
61
Bảng 2.12. Tương quan giữa nghề nghiệp của người được hỏi với
mức độ sử dụng các dịch vụ giải trí ngoài gia đình.
63
Bảng 2.13. Tương quan giữa tuổi của người được hỏi với
mức độ tham gia một số loại hình giải trí
67
3
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hoạt động giải trí là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu hoạt động sống của
cá nhân nhằm giải toả những căng thẳng do lao động đưa lại, bù đắp những thiếu
hụt về đời sống tinh thần, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện cả về thể
chất, trí tuệ, tình cảm và thẩm mỹ. Hoạt động giải trí cũng góp phần tạo nên diện
mạo văn hóa cho mỗi cá nhân, và là một trong những thước đo lối sống của con
người hiện đại. Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong các xã hội hiện đại, hoạt động giải
trí cần thiết đối với con người không kém gì các nhu cầu thiết yếu khác như ăn,
mặc, ở, … Thậm chí, nếu nhu cầu giải trí không được đáp ứng thỏa đáng, nhân cách
của con người sẽ có nguy cơ bị biến dạng, các loại tâm bệnh sẽ ngày càng phổ biến
và trầm trọng hơn.
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa (CNH, ĐTH) thời gian qua đã mang lại
những đổi thay đáng kể cho nhiều vùng nông thôn Việt Nam, trong đó có tỉnh Vĩnh
Phúc, vốn là một tỉnh có tốc độ đô thị hóa cao nhất trên cả nước hiện nay. Sự đi lên
của đời sống kinh tế, sự xuất hiện của những yếu tố văn hóa đô thị mới mẻ, hiện
đại, và đặc biệt là sự gia tăng thời gian nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đã tác
động không nhỏ đến nhận thức, nhu cầu và sự tham gia giải trí của người dân. Từ
chỗ đầu tư hết thời gian cho việc làm ăn đến chỗ dành thời gian đáng kể cho giải trí;
từ nhu cầu cơm áo thường nhật đến các nhu cầu cao hơn về giải trí, hưởng thụ cuộc
sống; từ nhu cầu giải trí đơn giản đến những nhu cầu tham gia các loại hình giải trí
hiện đại, mang tính đô thị hơn. Bên cạnh những mặt tích cực, nhiều yếu tố tiêu cực
cũng nảy sinh từ các hoạt động giải trí, đặt ra nhiều thách thức cho các vùng quê
đang trong quá trình chuyển đổi như ở Vĩnh Phúc.
Cho đến nay, việc nghiên cứu về vấn đề giải trí, sự biến đổi nhu cầu và hành
vi giải trí của người dân tại những khu vực đang CNH, ĐTH – nơi có sự tiếp biến,
giao lưu mạnh mẽ giữa văn hóa nông thôn và đô thị, vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ
với nhiều câu hỏi cần phải làm sáng tỏ, cả trên bình diện lý thuyết và thực tiễn. Điều
4
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
này đã gợi cho tôi ý tưởng nghiên cứu về vấn đề “Hoạt động giải trí của người
dân tỉnh Vĩnh Phúc sống trong khu vực đang công nghiệp hóa, đô thị hóa hiện
nay”.
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Ý nghĩa lý luận
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở thực nghiệm và kiểm chứng cho hệ thống lý
thuyết xã hội học trong các lĩnh vực chuyên biệt, góp phần bổ sung về mặt lý luận
cho xã hội học văn hóa, xã hội học gia đình, xã hội học đô thị.
- Kết quả nghiên cứu còn góp phần xây dựng một quan niệm khoa học về
giải trí lành mạnh; góp phần khắc phục một số quan niệm sai lầm đang phổ biến
trong các xã hội đang trong quá trình chuyển đổi hiện nay coi giải trí là rong chơi vô
bổ, đối lập với lao động, thậm chí gắn nó vào những tệ nạn xã hội.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các địa phương đang chuyển đổi trong việc quy hoạch và quản lý các hoạt động vui
chơi giải trí của người dân
- Kết quả nghiên cứu còn hướng sự chú ý của xã hội vào vai trò của giải trí
và tính bức thiết phải đáp ứng nó. Ngoài ra còn giúp nâng cao nhận thức của người
dân về giải trí và định hướng hành động giải trí của họ
3. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động giải trí của người dân sống trong khu
vực đang CNH, ĐTH
3.2. Khách thể nghiên cứu:
- Người dân sống trong khu vực đang CNH, ĐTH.
3.3. Địa bàn nghiên cứu
- Tỉnh Vĩnh Phúc
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài cố gắng làm rõ những vấn đề sau:
- Nhận thức về giải trí của người dân sống tại khu vực đang CNH, ĐTH.
5
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
- Mức độ tham gia vào các hoạt động giải trí của người dân sống tại khu vực
đang CNH, ĐTH.
- Những nhân tố cơ bản tác động đến hoạt động giải trí của người dân sống tại
khu vực đang CNH, ĐTH.
- Đề xuất các khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người dân
về giải trí và góp phần hoàn thiện công tác quản lý các hoạt động vui chơi giải trí
trong bối cảnh CNH, ĐTH nay trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và cả nước nói
chung.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên những phương pháp cụ thể như sau:
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, chúng tôi đã đọc và phân tích những
tài liệu, những công trình nghiên cứu có đề cập đến hoạt động giải trí của người dân
sống tại khu vực đang CNH, ĐTH để hiểu và bổ xung những thông tin cần thiết mà
các phương pháp khác còn thiếu, đảm bảo tính kế thừa và tránh trùng lặp với các
nghiên cứu trước đó.
5.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi đối với hộ gia đình
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn với 250 bảng hỏi. Mục đích của bảng hỏi là
đưa ra các số liệu định lượng nhằm đánh giá thực trạng giải trí của người dân sống
tại khu vực đang công nghiệp hóa, đô thị hóa. Các câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn và
dựa trên các bảng hỏi này, các cuộc phỏng vấn được tiến hành tại phường Khai
Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là một phường mới thực hiện
chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất và có khu công nghiệp Khai Quang
mới đi vào sử dụng được hơn 10 năm, là cửa ngõ của thành phố Vĩnh Yên và cả
tỉnh Vĩnh Phúc. Địa bàn này rất thích hợp cho việc triển khai nghiên cứu đề tài này.
Ngoài ra, chúng tôi đã sử dụng thêm những nguồn số liệu từ điều tra bằng hỏi
của một số cuộc khảo sát, nghiên cứu trước đây trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, bao
gồm:
6
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
- Cuộc điều tra của K49 Khoa Xã hội học, trường Đại học KHXH&NV Hà
Nội tại Vĩnh Phúc vào tháng 7/2008
- Cuộc điều tra của Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia năm 2009 về
“Tác động của chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất đến lối sống của người
dân khu vực đang CNH, ĐTH”, địa bàn nghiên cứu là tỉnh Vĩnh Phúc
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm
Để củng cố độ tin cậy của các thông tin định lượng, hoặc để lý giải những lý
do, nguồn gốc của vấn đề mà bảng hỏi phát hiện mà không lý giải nổi nếu chỉ tiến
hành phân tích định lượng; đồng thời nội dung phỏng vấn sâu cũng đi sâu phát hiện
những tâm tư, nguyện vọng của các cá nhân mà bảng hỏi không bao quát hết được.
Nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành 10 cuộc phỏng vấn sâu (1 phỏng vấn sâu với trưởng
thôn; 1 phỏng vấn sâu với cán bộ văn hóa của phường; 8 phỏng vấn sâu còn lại chia
đều cho 4 nam, 4 nữ thuộc các ngành ngề khác nhau. Ngoài ra đề tài cũng tiến hành
2 thảo luận nhóm (1 thảo luận với nhóm cán bộ thôn, xóm; 1 thảo luận với nhóm
người dân). Những thông tin định tính sẽ được lựa chọn, khái quát, trích dẫn theo
từng chủ đề.
5.4. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được tiến hành chủ yếu vào khoảng thời gian nghỉ làm
việc của đa số người dân trong phường (vào khoảng sau 5 giờ chiều), hoặc khoảng
thời gian diễn ra các lễ hội văn hóa, các lễ hội thể thao ... Đó là khoảng thời gian
diễn ra nhiều hoạt động sinh hoạt cộng đồng nên rất có ích cho việc đánh giá các
vấn đề một cách đầy đủ và bao quát hơn. Chúng tôi cũng tiến hành quan sát những
loại hình giải trí hiện có trên địa bàn khảo sát, cũng như phương tiện giải trí có
trong mỗi hộ gia đình.
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT
6.1. Giả thuyết nghiên cứu
1. Họat động giải trí của người dân tỉnh Vĩnh Phúc sống tại khu vực đang
CNH, ĐTH khá đa dạng, phong phú, theo hướng hiện đại hơn so với trước, nhưng
vẫn chủ yếu là những hoạt động giải trí tại nhà, chi phí thấp.
7
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
2. Nhiều loại hình giải trí mang tính truyền thống, nông nghiệp, nông thôn vẫn
tiếp tục được bảo lưu, phát huy và phát triển.
3. Nhiều hình thức vui chơi giải trí không lành mạnh có xu hướng gia tăng
trong cộng đồng
4. Mức sống của hộ gia đình là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến nhu cầu và
sự tham gia các hoạt động giải trí của người dân.
5. Khả năng đáp ứng nhu cầu giải trí của người dân từ phía xã hội còn rất hạn
chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
7.2. Khung lý thuyết
(Xem ở trang sau)
8
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
Điều kiện kinh tế - xã hội
(Bối cảnh chuyển đổi và phát
triển CNH, ĐTH)
- Hạ tầng phục
vụ giải trí tại
địa phương
- Các thiết chế
văn hóa của địa
phương
- Mức sống
hộ gia đình
- Đặc điểm
cá nhân
(tuổi, nghề
nghiệp, học
vấn …)
Nhận thức của người dân
về giải trí
Sự tham gia các hoạt động giải trí
của người dân
Giải trí tại gia đình
Xem
tivi,
nghe
đài
Đọc
sách,
báo
Giải trí
khác tại
nhà: Hát
karaoke,
truy cập
Internet
Giải trí ngoài gia đình
Sang chơi
nhà hàng
xóm, sinh
nhật,
mừng thọ
9
Sử
dụng
dịch
vụ giải
trí
Tham
gia
CLB,
hội,
nhóm
Sinh
hoạt
thể
thao
Sinh
hoạt tín
ngưỡng
Đi
thăm
quan,
du
lịch
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
PHẦN 2. NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số quan niệm về vai trò của giải trí đối với đời sống con người
Ý niệm về vai trò của giải trí đối với đời sống của con người từng được triết
gia Aristotle đề cập đến từ thời kỳ cổ đại. Ông cho rằng, giải trí mang lại nhiều lợi
ích cho con người về mặt sinh học giống như giấc ngủ: nó đem lại sự thư giãn và
khoẻ khoắn; nó rũ sạch những mệt nhọc và căng thẳng do công việc gây ra. Tuy
nhiên ông cũng cho rằng, con người cần phải biết sử dụng thời gian rỗi của mình
một cách hợp lý, nếu sử dụng nó vào những trò chơi không mục đích, những hình
thức giải trí thụ động, và những phương cách bạt mạng chỉ để giết thì giờ, thì rõ
ràng nó không tốt cho xã hội, nó có thể đưa đến sự thoái hóa và mục nát. Nhưng
nếu mọi người dùng thời gian rảnh rỗi để khai mở những khả năng của họ, để giải
trí lành mạnh, phát triển về mặt tinh thần, và để cùng góp phần vào xã hội và văn
hóa, thì càng có nhiều thời gian rỗi càng tốt.
Trên thế giới, những nghiên cứu về vai trò của giải trí xuất hiện nhiều hơn vào
cuối thế kỷ XIX, khi xã hội công nghiệp đã phát triển khá mạnh mẽ. Trong các xã
hội công nghiệp và đô thị, những áp lực về công việc khiến cho các nguy cơ về mất
cân bằng, trầm cảm ngày càng gia tăng, người ta mới nhận thấy vui chơi giải trí có
những tác động tích cực như thế nào đối với đời sống. Dumagedier trong cuốn
Những thực tại của sự nhàn rỗi và các hệ tư tưởng (1959; 6) đã xem giải trí là sự
biến đổi về chất của xã hội công nghiệp từ chỗ bị bóc lột thô bạo bằng việc kéo dài
thời gian lao động, người công nhân đã có quyền nghỉ ngơi và giải trí mà vẫn hưởng
lương. Ông tiên đoán về triển vọng của xã hội hậu công nghiệp sẽ là một xã hội giải
trí, trong đó thời gian lao động được rút ngắn tới mức tối thiểu, nhường phần áp đảo
cho thời gian rỗi, mối quan tâm của xã hội không phải làm gì để sống mà làm thế
10
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
nào để giải trí tốt hơn. Các loại hình giải trí sẽ ngày càng đa dạng và đáp ứng được
ngày càng nhiều nhu cầu của con người. Corbin Alain trong cuốn “Sự ra đời của
giải trí 1850-1960” (1995; 1) cũng đã phân tích vai trò của giải trí trong xã hội
phương Tây thời kỳ từ 1850-1960, trong đó ông cho rằng, giải trí lành mạnh là cách
tốt nhất giúp con người cân bằng cuộc sống, và làm giàu thêm đời sống tinh thần.
Hoạt động giải trí cũng giúp con người có thêm những mối quan hệ xã hội. Tác giả
cũng phân tích những ước muốn du lịch của người lao động sau những ngày lao
động vất vả trong những xã hội công nghiệp.
Tác giả Đoàn Văn Chúc trong cuốn Văn hóa học (2004; 4) đã phân tích khá
sâu sắc về vai trò của giải trí đối với đời sống con người. Theo tác giả, vui chơi giải
trí là một dạng hoạt động xã hội, nó sinh ra cùng với xã hội loài người và gắn bó
như hình với bóng trong suốt cuộc đời của một con người. Trong thời thơ ấu thì
hoạt động vui chơi của trẻ em là phương thức tập dượt để làm người lớn, đến tuổi
trưởng thành thì hoạt động giải trí để nhằm giải toả những căng thẳng về tâm sinh
lý, để lặp lại sự cân bằng, là phương thức nghỉ ngơi tích cực nhằm tái sản sinh ra
sức lao động ở một cấp cao hơn, và khi về già thì vui chơi giải trí được coi là hoạt
động dinh dưỡng tinh thần để hoàn tất cuộc đời. Tuy nhiên, con người không giải trí
bằng bất kỳ giá nào. Các hoạt động rỗi chỉ có hiệu quả giải trí khi có một nội dung
thẩm mỹ nhất định, vì thế nhu cầu giải trí cũng được gọi là nhu cầu văn hóa, hoặc
nữa là nhu cầu thẩm mỹ. Tác giả cho rằng, bước sang xã hội công nghiệp, các hoạt
động giải trí vui chơi không hề giảm đi mà còn phát triển mạnh mẽ, vui chơi giải trí
không chỉ là hoạt động xa xỉ như quan niệm của xã hội truyền thống, mà trở thành
một dạng hoạt động sống đích thực của xã hội công nghiệp.
Về hoạt động giải trí của người dân sống tại khu vực đang CNH, ĐTH
Ở Việt Nam, sau hơn hai thập kỷ đổi mới, khu vực nông thôn đang diễn ra sự
thay đổi mạnh mẽ dưới tác động của các chính sách phát triển kinh tế. Hệ quả của
các chính sách phát triển là tiến trình CNH, ĐTH đang diễn ra trên quy mô rộng và
với tốc độ nhanh chóng. Chính bởi vậy, một trong những chủ đề được quan tâm
nghiên cứu trong thời gian gần đây ở Việt Nam là sự biến đổi xã hội tại các khu vực
11
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
đang công nghiệp hóa, đô thị hóa. Nhiều tác giả và nhóm nghiên cứu, cả trong và
ngoài nước, đã tập trung mô tả các vấn đề kinh tế - xã hội mới nảy sinh tại các vùng
ven đô và các khu công nghiệp mới được hình thành (Trịnh Duy Luân, 2000 &
2003; Nguyễn Hữu Minh, 2005; Trần Văn Thạch, 2005; Ngô Văn Giá, 2006;
Nguyễn Đình Tuấn, 2007 ... ). Các vấn đề như sự biến đổi về mức sống, đời sống
văn hoá – tinh thần, phân hoá giàu nghèo, việc làm của những người nông dân bị
thu hồi đất, di dân, môi trường xã hội và tệ nạn xã hội, văn hoá truyền thống, quan
hệ gia đình, giải trí…vv đều được nghiên cứu mặc dù chưa đạt được sự khái quát
cao. Điểm nổi bật và xuyên suốt các công trình nghiên cứu nêu trên là các nhà khoa
học đã phác hoạ ra được một bức tranh đa dạng về sự biến đổi kinh tế - xã hội ở một
số vùng nông thôn dưới tác động của CNH, ĐTH. Vấn đề giải trí của người dân
được một số nghiên cứu tiếp cận từ các chỉ báo sau:
Từ khía cạnh mức sống, một điểm chung của một số nghiên cứu (Nguyễn Hữu
Minh, 2003; Nguyễn Văn Quân, 2006; Ngô Văn Giá, 2006) là coi giải trí như một
chỉ báo phản ánh mức sống của người dân. Những nghiên cứu này đều có chung
nhận định rằng, sự thay đổi mức sống là nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi về
nhu cầu và sự tham gia các hoạt động giải trí của người dân. Theo các tác giả, đời
sống kinh tế khá lên, cuộc sống của người nông dân truyền thống và thuần tuý với
“một nắng hai sương” chân lấm tay bùn đã dần bớt đi. Công việc đồng áng, lợn gà,
bếp núc không còn quá vất vả như trước đây mà đã có những phương tiện hiện đại
hỗ trợ. Bởi vậy, người dân đã có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia hưởng
thụ đời sống văn hoá tinh thần. Không chỉ sang hàng xóm trò chuyện, uống nước,
đánh cờ, chơi với người thân, họ còn có thể tham gia nhiều hoạt động văn hoá tinh
thần trong và ngoài gia đình mang hơi thở của cuộc sống đô thị như đọc báo, đi
tham quan, tham gia vào các hội, nhóm. Đời sống kinh tế khá lên cũng khiến người
dân có nhiều điều kiện mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu giải trí, điều
kiện tiếp nhận và trao đổi thông tin vì thế cũng được đầy đủ hơn, nâng cao tầm hiểu
biết và nhận thức của bản thân và gia đình.
12
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
Tiếp cận vấn đề giải trí từ chiều cạnh lối sống, nhóm tác giả của Viện Xã hội
học – Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia (2009; 19) đã phân tích khá rõ nét sự
biến đổi nhu cầu, hành vi tham gia giải trí của người dân – một trong những chỉ báo
quan trọng phản ánh lối sống - do tác động của việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất mang lại. Các tác giả nhận định rằng, việc dành thời gian trong ngày cho các
hoạt động vui chơi giải trí đã trở thành một nét mới trong lối sống của người dân
sống tại khu vực đang chuyển đổi. Sự thay đổi này có mối liên hệ mật thiết với
nguồn tiền đền bù đất. Nhờ nguồn tiền này mà nhiều gia đình mua sắm được các
phương tiện sinh hoạt, giải trí hiện đại. Cũng nhờ nguồn tiền này mà chính quyền
địa phương có điều kiện đầu tư các nhà văn hóa, sân chơi, tổ chức các sự kiện vui
chơi giải trí cho cả cộng đồng với quy mô lớn hơn, chu đáo hơn, chẳng hạn như các
giải thi đấu thể thao, lễ hội...vv.
Từ chiều cạnh văn hóa, Nguyễn Thị Phương Châm trong cuốn: Biến đổi văn
hóa ở các làng quê hiện nay (2009; 2) lại cho rằng, điều kiện kinh tế cùng với cấu
trúc xã hội theo mạng lưới khá kết đoàn và bền chặt ở làng là nhân tố quan trọng
thúc đẩy nhanh quá trình tiếp cận thông tin cũng như các loại hình giải trí ở các
làng. Kinh tế đã khá giả, con người quan tâm nhiều hơn và cũng dành thời gian
nhiều hơn cho hưởng thụ cuộc sống, chăm sóc sức khỏe và kết nối chặt chẽ hơn các
mối quan hệ xã hội. Chính nhờ việc tham gia vào các hoạt động giải trí đa dạng cả ở
cấp độ gia đình và cộng đồng đã khiến cho quá trình giao lưu được rộng mở hơn,
dân làng có những thay đổi rõ rệt trong nhận thức, nhất là nhận thức về văn hóa:
truyền thống văn hóa của làng, của vùng cũng như giá trị của văn hóa truyền thống
trong quá trình phát triển. Những đặc trưng văn hóa của thế giới cũng như của các
đô thị lớn trở nên không xa lạ với dân làng, hơn thế còn giúp dân làng có ý thức cao
hơn về những giá trị văn hóa của chính làng quê họ.
Mặc dù được tiếp cận từ nhiều chiều cạnh khác nhau, nhưng đến nay hầu
như vẫn chưa có một nghiên cứu chuyên biệt nào về vấn đề giải trí của người dân
sống tại khu vực đang CNH, ĐTH. Phần lớn các nghiên cứu chỉ giúp người đọc
nhận diện được một phần vấn đề giải trí qua những cách tiếp cận khác nhau, mà
13
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
chưa lý giải được thấu đáo nhiều vấn đề xung quanh nó: từ nhận thức đến nhu cầu
giải trí của người dân; từ nhu cầu đến hành vi; từ những sự tác động khác nhau của
một cộng đồng xã hội mang những đặc trưng rất riêng ở Việt Nam; và từ cả mức độ
đáp ứng của mỗi cá nhân đối với vấn đề này. Đây chính là điều mà luận văn mong
muốn được làm rõ.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.2.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Những nguyên tắc và quan điểm của xã hội học Mác - Lênin là cơ sở phương
pháp luận, đóng vai trò nền tảng xuyên suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Theo đó,
trong xã hội, không có sự vật - hiện tượng nào tồn tại độc lập mà chúng có một sự
liên kết và ràng buộc lẫn nhau, cái này tác động hoặc chịu tác động của cái kia,
ngoài ra chúng còn chuyển hoá lẫn nhau. Do vậy, việc nghiên cứu các vấn đề xã hội
yêu cầu mỗi chúng ta phải xem xét các hiện tượng xã hội trong mối liên hệ với các
hiện tượng xã hội khác, phải xem xét các mặt, các yếu tố của nó một cách toàn diện.
Tuy nhiên, chúng ta không thể xem xét tất cả mọi mặt của sự vật, hiện tượng mà chỉ
xem xét những mối liên hệ quan trọng nói lên bản chất sự vật, hiện tượng cần
nghiên cứu.
Vận dụng những quan điểm trên vào nghiên cứu hoạt động giải trí của người
dân khu vực đang công nghiệp hóa, đô thị hóa đòi hỏi chúng ta phải xem bối cảnh
thời gian và không gian của vùng miền đó. Cụ thể ở đề tài này, chúng ta cần xem
xét hoạt động giải trí của cư dân sống trong khu vực đang có những chuyển biến lớn
trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội do những tác động của quá trình đô thị hóa
mang lại. Ngoài ra, nhu cầu giải trí luôn biến đổi theo không gian, thời gian, sở
thích, chịu sự lựa chọn chủ quan của chủ thể hành động. Do đó, những vấn đề liên
quan đến sự biến đổi văn hóa, lối sống ... cũng cần được quan tâm làm rõ.
1.2.2. Lý thuyết biến đổi xã hội
Lý thuyết biến đổi xã hội đề cập đến sự biến đổi về cấu trúc xã hội hay tổ chức
của một xã hội. Sự thay đổi đó ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các cá nhân trong
một xã hội. Điều kiện của biến đổi xã hội là cần phải có thời gian, biến đổi phải
14
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
được xác định trong hoàn cảnh cụ thể về vật chất và văn hóa, và nhu cầu xã hội
chính là động lực cho sự biến đổi xã hội. Các tác nhân quan trọng của biến đổi xã
hội thường được quan tâm là: môi trường tự nhiên; cách tân văn hóa; động thái dân
số; chính sách và bộ máy quản lý nhà nước; công nghệ; hành động xã hội. Do vậy,
tất cả các chủ đề nghiên cứu trong khuôn khổ quá trình thời gian đều cần thiết phải
áp dụng lý thuyết biến đổi xã hội vào nghiên cứu (nhất là nghiên cứu về biến đổi giá
trị và biến đổi văn hóa). Những câu hỏi thường đặt ra để phân tích biến đổi xã hội
là: cái gì biến đổi? Biến đổi như thế nào? Ai gây ra biến đổi? Nó có tác dụng gì? Nó
có tầm ảnh hưởng như thế nào? Nó có hậu quả gì? Nó cần thời gian bao lâu? Nó
xảy ra theo hướng nào? Biến đổi xã hội vừa diễn ra ở tầm vi mô vừa diễn ra ở tầm
vĩ mô. Biến đổi xã hội là một hiện tượng phổ biến nhưng nó diễn ra không giống
nhau giữa các xã hội. Biến đổi xã hội luôn có sự khác biệt về thời gian và hệ quả xã
hội. Biến đổi vừa có tính kế hoạch vừa có tính phi kế hoạch. Biến đổi xã hội có
quan hệ nhưng hoàn toàn không đồng nhất với biến cố xã hội, tiến bộ xã hội, tiến
hóa xã hội.
Hạt nhân hợp lý của lý thuyết biến đổi xã hội chính là việc đề cao và chỉ ra xu
hướng tất yếu của tiến bộ xã hội. Vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội vào phân tích
quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ở Việt Nam sẽ có giúp chúng ta có cơ sở
khoa học trong việc xem xét nhìn nhận nó như là một tất yếu của sự phát triển xã
hội. Chính quá trình đô thị hóa là một tác nhân quan trọng làm thay đổi các điều
kiện sống của dân cư, từ đó làm thay đổi nhận thức, nhu cầu và sự tham gia vào các
hoạt động giải trí của người dân. Việc đưa lý thuyết biến đổi xã hội vào nghiên cứu
hoạt động giải trí của người dân khu vực đang công nghiệp hóa, đô thị hóa là rất cần
thiết và có tính khả thi. Bởi vì, nó sẽ giúp chúng tôi có thể tiến hành phân tích và
giải thích hàng loạt các vấn đề mà luận văn cần phải giải quyết. Chẳng hạn, đời
sống của cư dân sinh sống tại khu vực đang công nghiệp hóa, đô thị hóa đã và đang
biến đổi như thế nào? Nhận thức, nhu cầu, và hành vi của họ đối với vấn đề giải trí
thay đổi ra sao trước sự biến đổi của xã hội nói chung và biến đổi mức sống của họ
nói riêng? Các nhân tố gây ra những biến đổi đó là gì? Sự biến đổi nhận thức, nhu
15
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
cầu và hành vi giải trí của người dân có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống của
chính họ và xu hướng vận động của nó ra sao? v.v...
Theo cách tiếp cận của lý thuyết biến đổi xã hội có nhiều tác nhân dẫn đến sự
biến đổi nhu cầu và sự tham gia các hoạt động giải trí, tuy nhiên trong khuôn khổ
luận văn này chúng tôi chủ yếu nhấn mạnh việc xem xét yếu tố: mức sống, trình độ
học vấn, tuổi, giới tính trong phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động giải trí
của người dân khu vực công nghiệp hóa, đô thị hóa.
1.2.3. Lý thuyết hành động xã hội
Các tác giả nổi tiếng của thuyết này như Pareto, Weber, Parson, … đều coi
hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ con người – xã hội, là cơ sở của đời
sống xã hội con người. Theo Weber, hành động xã hội là hành vi được chủ thể gắn
cho một ý nghĩa chủ quan nhất định. Và cái mà Weber gọi là “ ý nghĩa chủ quan”
chính là ý thức, là hành động có ý thức, chủ thể hiểu được mình định thực hiện hành
động gì và sẽ thực hiện nó như thế nào? – điều này khác hẳn với những hành động
bản năng sinh học. Hành động lựa chọn những hình thức giải trí của người dân là
hành động có sự tham gia của ý thức, thể hiện sự lựa chọn của chủ thể về nhiều khía
cạnh như chơi cái gì? Đi đâu? Vào lúc nào? Có phù hợp với điều kiện của mình
không? Vận dụng lí thuyết hành động xã hội vào trong nghiên cứu này có thể nhận
thấy hoạt động giả trí của người dân là một dạng hành động xã hội vì:
- Hành động xã hội của cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh và môi
trường hành động. Trong đề tài này hoạt động giải trí của người dân phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện đáp ứng của xã hội, điều kiện kinh tế gia đình… Chính vì vậy
trong một cộng đồng sẽ có những sự lựa chọn các loại hình giải trí khác nhau.
- Hành động xã hội có tính chuẩn mực, luôn phụ thuộc vào hệ giá trị chuẩn
mực của xã hội. Nhận thức của các cá nhân trong hoạt động giải trí đều được điều
chỉnh bởi giá trị và chuẩn mực của xã hội, đã được các thành viên trong xã hội chấp
nhận. Vì vậy, khi tham gia vào hoạt động giải trí không thể không tính đến hệ giá
trị, chuẩn mực của xã hội.
16
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
- Hành động có tính duy lý, nghĩa là phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của
chủ thể. Các cá nhân một mặt tuân theo hệ giá trị chuẩn mực của xã hội, mặt khác
vẫn hành động rất khác nhau, chứ không nhất thiết theo khuôn mẫu cứng nhắc. Vì
vậy các cá nhân tuỳ thuộc vào nhu cầu, sở thích và mục đích có thể lựa chọn cho
mình những hình thức giải trí phù hợp.
1.2.4. Lý thuyết về thang bậc nhu cầu của Maslow.
Lý thuyết về thang bậc nhu cầu của Maslow là một trong các lý thuyết mà tầm
ảnh hưởng của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu
cầu của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc và được thể hiện dưới dạng một
hình kim tự tháp, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các
nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Trong đó:
Nhu cầu cơ bản (basic needs:) đươc coi là quan trọng nhất vì nó đáp ứng nhu
cầu sinh lý tối thiểu của con người như ăn uống, ngủ, mặc, không khí để thở, tình
dục ... Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện khi
những nhu cầu cơ bản này không được thỏa mãn.
Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs): Khi con người đã được
đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này không còn điều khiển suy nghĩ và
hành động của họ nữa, họ sẽ nảy sinh nhu cầu về an toàn, an ninh. Con người mong
muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ
trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính
mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,…. Nhu cầu này cũng thường được
khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống
trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa an toàn để ở
… Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo cũng là do nhu cầu
này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần. Các chế độ bảo hiểm xã
hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm, … cũng chính là thể
hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.
17
LuËn v¨n cao häc x· héi häc
L¹i ThÞ Thanh B×nh
Nhu cầu về xã hội (social needs): Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong
muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về
tình cảm, tình thương (needs of love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp
như việc kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi
làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm…
Nhu cầu được quý trọng (esteem needs): Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu
tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện 2 khía cạnh: nhu cầu được người khác
quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý
trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng
của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học
tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.
Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs): đây chính là nhu cầu
được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm
việc, đạt các thành quả trong xã hội. Đó chính là việc đi tìm kiếm các cách thức mà
năng lực, trí tuệ, khả năng của mình được phát huy và mình cảm thấy hài lòng về
nó.
Theo Maslow, con người cá nhân hay con người trong tổ chức chủ yếu hành
động theo nhu cầu. Chính sự thỏa mãn nhu cầu làm họ hài lòng và khuyến khích họ
hành động. Đồng thời việc nhu cầu được thỏa mãn và thỏa mãn tối đa là mục đích
hành động của con người. Theo cách xem xét đó, nhu cầu trở thành động lực quan
trọng và việc tác động vào nhu cầu cá nhân sẽ thay đổi được hành vi của con người.
Những nhu cầu này phát triển một cách hết sức tự nhiên cùng với sự phát triển của
đời sống bản thân, gia đình và xã hội.
Theo tháp nhu cầu của Maslow, nhu cầu giải trí nằm ở nấc thang thứ ba, thuộc
về nhu cầu xã hội. Khi các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, mặc ở…, sự an
toàn được đảm bảo, con người sẽ nảy sinh những ước muốn được thỏa mãn các nhu
cầu tinh thần, nhu cầu được giải trí. Mặc dù Maslow xếp nhu cầu này sau 2 nhu cầu
phía trên, nhưng ông nhấn mạnh rằng nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp
ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh.
18
- Xem thêm -