Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Học thuyết nho giáo trong văn hóa gia đình việt nam...

Tài liệu Học thuyết nho giáo trong văn hóa gia đình việt nam

.PDF
33
359
115

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 2 CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU .................................................................................. 4 I. NÊN HIỂU NHO GIÁO NHƯ THẾ NÀO? II. NGUỒN GỐC CỦA NHO GIÁO .......................................................... 5 III. SƠ LƯỢC VỀ HỌC THUYẾT CỦA NHO GIÁO CHƯƠNG 2: HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM .................................................................................................. 12 I. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHỤ - TỬ .............. 13 II. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHU – THÊ............. 15 1. Vai trò gia đình .................................................................................. 17 2. Vai trò xã hội ..................................................................................... 19 III. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ HUYNH – ĐỆ........ 21 CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN ............................................................................ 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 33 Trang 1 LỜI NÓI ĐẦU Xã hội càng phát triển, càng hiện đại, cuộc sống vật chất của con người càng được cải thiện. Với sự trợ giúp của rất nhiều loại phương tiện máy móc hiện đại, con người càng gần tới được ngưỡng cửa của sự sung sướng, ấm no. Trước đây trong xã hội Việt Nam, mọi người chỉ lo sao có đủ cơm ăn, áo mặc thì ngày nay mọi người lại phải nghĩ đến chuyện ăn sao cho ngon, cho có văn hóa, mặc sao cho đẹp, cho hợp thời trang. Cuộc sống vật chất sung sướng là vậy nhưng cũng chính vì phải chạy theo các lợi ích kinh tế, con người ngày càng ít thời gian quan tâm đến những chuẩn mực đạo đức, lề lối gia phong, tình làng nghĩa xóm. Kết quả tất yếu là cơ cấu gia đình trong xã hội lỏng lẻo hơn, mối quan hệ trong gia đình và xã hội của các thành viên từ đó cũng mất đi sự bền chặt vốn có của nó. Thậm chí trong nhiều trường hợp sự ích kỷ cá nhân, tranh giành vật chất còn mang lại sự bất hòa không đáng có giữa những người cùng chung huyết thống, cùng gánh chịu hoạn nạn. Đạo đức gia đình, nề nếp tổ tiên bị lu mờ trước sự cám dỗ của vật chất. Trước thực trạng đó, vấn đề cấp thiết phải đặt ra là làm sao dung hòa được lợi ích vật chất với những vẻ đẹp văn hóa, thuần phong mỹ tục và đặc biệt là chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội. Bài tiểu luận với chủ đề Học thuyết Nho giáo trong văn hóa gia đình Việt Nam được thực hiện với mong muốn làm cho người đọc hiểu được khái quát vẻ đẹp đạo đức truyền thống trong các mối quan hệ gia đình người Việt. Từ đó người đọc tự biết chắt lọc những đạo đức tốt đẹp xưa kết hợp với tư tưởng xã hội tiến bộ, áp dụng vào trong gia đình và cuộc sống hàng ngày của họ. Không tham vọng là tài liệu tham khảo toàn diện về tư tưởng Nho giáo trong quan hệ gia đình, bài viết chỉ hướng tới mục tiêu cung cấp cho người đọc những kiến thức nền tảng về Nho giáo, sự hình thành cũng như quan điểm đạo đức giữa các thành viên trong một gia đinh Nho giáo chuẩn mực. Trang 2 Do quy mô của bài tiểu luận nên những hạn chế vẫn còn tồn tại là điều không tránh khỏi. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến. Trang 3 CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU I. NÊN HIỂU NHO GIÁO NHƯ THẾ NÀO? Trên thực tế, có rất nhiều cách hiểu về Nho giáo. Tùy vào cấp độ nhận thức của con người, góc độ khoa học cụ thể mà có những cách hiểu khác nhau nhưng có đặc điểm chung là đều nhấn mạnh vào tính nhân đạo trong tư tưởng Nho giáo. Vậy Nho giáo có thể được hiểu khái quát như sau. Theo nghĩa Hán tự thì chữ “Nho” (儒) trong Nho giáo được ghép từ hai chữ Nhân (người) và Nhu (cần dùng). Chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi và bất kỳ khi nào xã hội cần đến thì đem tài sức ra giúp đời. Như vậy, “Nho” là những người học thông thạo đạo lý của Thánh hiền, biết được lẽ Trời Đất và người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với đạo Trời, hợp với lòng người. Trong sách Pháp ngôn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho”, nghĩa là người hiểu rõ Thiên văn, am tường Địa lý mới gọi là Nho. Bởi vậy từ xưa đến nay những Nho sĩ sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân. Đức Khổng Tử là một tấm gương tiêu biểu, cả cuộc đời không màng vinh hoa phú quý, ông đi khắp nơi nhằm mở trường dạy học. Với tư tưởng nhân đạo, ông cho rằng phải giáo dục dân thì đất nước mới phồn thịnh. “Giáo” (教) được hiểu là tôn giáo, mối đạo. Vì vậy, Nho giáo có thể hiểu là một học thuyết có hệ thống, có phương pháp, dạy về nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và xã hội. Cũng chính vì vậy mà Nho giáo là từ viết tắt của “Dĩ Nho học để giáo dân”, tức là lấy Nho học để giáo dân. Theo Đức Mạnh Tử thì bản tính của con người là do Trời phú nên là tính thiện “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Vì thế cần phải được giáo dưỡng thường xuyên thì mới có thể trở thành người có ích cho xã hội. Đức Khổng Tử lại cho rằng “Tính tương cận, tập tương viễn”, có nghĩa là con người khi sinh ra thì bản tính gần giống nhau nhưng do thói quen trong cuộc sống, do tồn tâm dưỡng tính của mỗi người Trang 4 khác nhau nên tính của mỗi người khác nhau. Khi dân đông thì điều quan trọng cần phải giáo dục họ. Trong thời gian rất dài, hệ thống tư tưởng của Nho giáo chính là chuẩn mực đạo đức của xã hội một số nước Phương Đông. Nho giáo được đưa vào trường học và được coi là yếu tố bắt buộc để rèn Đức cho con người. Không những vậy có thể thấy Nho giáo hiện diện trong mọi mặt của đời sống xã hội và trở thành kim chỉ nam điều chỉnh hành vi của con người. Ở phương Đông nói chung chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc một cách sâu sắc, nhất là Việt Nam. Trung Quốc đô hộ Việt Nam hơn một nghìn năm nên đã đưa văn hóa, phong tục tập quán của mình vào nhằm biến Việt Nam thành một vùng đất cai quản. Trong sự du nhập văn hóa thì Nho giáo có vị trí khá cao trong xã hội Việt Nam và đặc biệt Nho giáo ảnh hưởng tới mô hình gia đình một cách sâu sắc. II. NGUỒN GỐC CỦA NHO GIÁO Sự phát kiến ra văn minh Trung Hoa là công của thế kỷ 18, “thế kỷ ánh sáng”. Diderot, một triết gia Pháp ở thế kỷ 13 đã nhận xét về người Trung Hoa như sau: “Mọi người đều công nhận rằng dân tộc ấy văn minh hơn hết thảy các dân tộc khác ở Châu Á: lịch sử họ cổ hơn, tinh thần, nghệ thuật tiến bộ hơn, họ minh triết hơn, thích triết lí, chính trị của họ hoàn hảo hơn; và vài tác giả còn bảo rằng về tất cả các phương diện ấy họ không kém các xứ văn minh nhất Châu Âu”. Trong một cuốn sách của Keyserling, ông kết luận rằng “Chính ở Trung Quốc thời thượng cổ người ta đã tạo ra được cái mẫu mực nhân loại thông thường hoàn toàn nhất…Trung Quốc đã tạo ra một nền văn hóa cao nhất từ trước đến nay…Tôi càng ngày càng ngạc nhiên, cảm kích về sự cao quý của Trung Quốc…Những danh nhân xứ đó có giáo dục hơn các danh nhân chúng ta rất nhiều…Những ông quan đó có tư cách thật cao, khiến chúng ta phải phục…Giới trí thức Trung Hoa thật là cực kỳ nhã nhặn, lễ độ!...Không còn nghi ngờ gì nữa, người Trung Hoa có lẽ là người thâm trầm nhất.”. Để có được những cái tinh hoa như vậy thì Trung Quốc đã phải trải qua những biến động to lớn. Nhưng cũng chính nhờ những biến động trong xã hội thời bấy giờ mà con Trang 5 người mong muốn tìm được giải pháp để bình ổn xã hội, và đã có nhiều tư tưởng đã ra đời tạo nên sự khởi sắc của các học thuyết chính trị trong lẽ sống làm người của họ, đặc biệt là hệ thống triết học. Theo nhiều tư liệu khác nhau, người ta vẫn khẳng định rằng triết học Trung Quốc xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Trong lịch sử, thời kỳ này được gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc (chiến tranh loạn lạc), thời kỳ xã hội Trung Quốc diễn ra nhiều biến động to lớn, thời kỳ giải thể chế độ chiếm hữu nô lệ chuyển sang chế độ phong kiến. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là kinh tế. Thời kỳ này, lực lượng sản xuất phát triển, sử dụng và chế tạo công cụ bằng sắt, sử dụng các con vật vào trong quá trình sản xuất đem lại năng suất lao động cao. Chính sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp dẫn đến sự phát triển trong sản xuất công nghiệp, các đô thị lớn, trung tâm kinh tế lớn, và trung tâm giao lưu kinh tế và văn hóa ra đời ảnh hưởng và tác động đến chế độ sở hữu và làm xuất hiện giai cấp mới và những mâu thuẫn giai cấp. Các giai cấp này đấu tranh với nhau tạo nên cục diện gọi là Xuân thu chiến quốc. Cục diện này làm rối loạn từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Thực tế, các vua chư hầu có thực quyền vượt qua thiên tử. Rồi tình trạng bề tôi giết vua, vua giết bề tôi liên tục xảy ra. Trong gia đình thì cha không ra cha, vợ không ra vợ…Vấn đề chính trị thực tiễn đặt ra là phải làm gì và bằng cách gì để khắc phục tình trạng rối loạn, khôi phục lại xã hội như thời vua Nghiêu, vua Thuấn và đặc biệt là phải đưa xã hội Trung Hoa phát triển đi lên. Chính vì để giải đáp những thực tiễn ấy làm xuất hiện cảnh giới Bách gia tranh minh, Bách gia tri tử. Từ việc tranh luận, con đường đưa xã hội Trung Hoa tiến lên làm xuất hiện hơn 100 trường phái triết học khác nhau xuất hiện. Đáng kể nhất là có cửu phái: Âm dương ngũ hành, Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia, Nông gia, Tạp gia, Tung hoành gia. Trong đó, Nho gia là tư tưởng có ảnh hưởng nhiều nhất không chỉ ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng ra các khu vực lân cận, đặc biệt là Việt nam. Trang 6 Nho giáo bắt nguồn từ thời thái cổ ở Trung Quốc. Ngày đó vua Phục Hy, một Thánh Vương đắc đạo, trông thấy được các hiện tượng trong cõi Hư linh. Ngài nhìn thấy Long Mã có bức đồ trên lưng gồm những chấm đen trắng, nổi lên giữa sông Hoàng Hà, mà biết được lẽ âm dương, chế ra Tiên Thiên Bát Quái, cắt nghĩa sự biến hóa của trời đất để là nguyên tắc dạy người. Những vạch đơn giản của Bát Quái ấy được xem là đầu mối của văn tự về sau này. Vua Phục Hy còn dạy dân nuôi súc vật để sai khiến, làm lưới để đánh cá, nuôi tằm để lấy tơ, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân lễ nghĩa, phép cưới vợ gả chồng, từ đó mới có danh từ gia tộc. Đến thời vua Hoàng Đế (Hiên Viên Huỳnh Đế), mới chế ra áo mão và sai ông Thương Hiệt ra chế ra chữ viết. Đó là khởi thủy của Nho giáo, hình thành do thực tế kết hợp với huyền lý của Trời Đất. Nho giáo lấy đạo Trời làm khuôn mẫu, dạy người thuận theo lẽ Trời, còn nghịch với Trời thì phải chết. Lúc này, Nho giáo đã giúp Trung Quốc thời Thượng Cổ được hòa bình, dân chúng trên thuận dưới hòa, tạo ra một nền luân lý có căn bản vững chắc. Tiếp theo đến đời nhà Châu, vua Văn Vương và con của ngài là Châu Công Đán, tiếp tục khuếch trương Nho giáo, diễn giải Kinh Dịch do vua Phục Hy truyền lại, hệ thống hóa lễ nghi và sự tế tự. Đó là Nho giáo thuộc Nhất Kỳ Phổ Độ. Vào cuối thời nhà Châu, đời vua Linh Vương, năm 551 trước Tây lịch, đức Khổng Tử đã ra đời. Ông đã chỉnh đốn và san định kinh sách, phục hưng Nho giáo, tạo thành một Nho giáo có học thuyết có hệ thống chặt chẽ, xứng ngang hàng với với Lão giáo và Phật giáo. Đây được coi là Nho giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Kể từ khi được Đức Khổng Tử phục hưng, nối tiếp về sau Nho giáo được các vị Thánh nhân như Tử Tư, Mạnh Tử phát huy đến độ rực rỡ, nhưng rồi cũng suy tàn theo thời gian vì không có bậc tài giỏi nối tiếp. Mặc dù vậy, tư tưởng Nho giáo cũng đã ăn sâu và trở thành chuẩn mực đạo đức trong đời sống văn hóa của người dân, đặc biệt là Việt Nam. Trang 7 III. SƠ LƯỢC VỀ HỌC THUYẾT CỦA NHO GIÁO Người sáng lập ra phái Nho gia là Khổng Tử (551-479), tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ. Xuất thân trong một gia đình quý tộc suy vong, ông trọn đời lo cho những hoạt động giáo dục, văn hóa. Đến thời trung niên, có một dạo ông ra làm quan. Tư tưởng của ông phản ánh tập trung trong cuốn Luận ngữ, đó là tác phẩm do môn nhân cùng học trò của ông ghi chép lại những câu chuyện, những mẫu hội thoại, những câu giải đáp thắc mắc của ông và học trò. Về phương diện Triết học, Khổng Tử dao động giữa duy tâm và duy vật. Một mặt ông tuyên dương “sợ mệnh trời, sống chết có mệnh, giàu sang tại trời”; một mặt lại nói “trời có gì đâu mà bốn mùa vận hành vạn vật sinh trưởng”; một mặt “kính quỷ thần mà nên xa quỷ thần”, mặt khác lại “không nói những quái lực loạn thần”. Tuy ông không rõ ràng phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần, trái lại nhận rằng quỷ thần thật không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống thực tại của con người. Nhận thức luận của Khổng tử có tính nước đôi. Một mặt ông nói: “người mới sinh ra mà đã biết là bậc trên, người phải học mới biết là hạng thứ”. Mặt khác, ông không thừa nhận bất cứ một hạng người nào sinh ra mà đã biết, gồm cả chính ông. Trong Thuật Nhi ông đã nói: “Ta không phải là người sinh ra mà đã biết, ham đạo đời xưa, ta chỉ thích đạo ngày xưa mà lo cần mẫn học thôi”. Bên cạnh đó, ông còn khẳng định một cách trừu tượng có tri thức tiên nghiệm. Vì theo ông, bất kỳ một tri thức nào đều phải thông qua điều tai nghe mắt thấy mà có. Một mặt ông nói “duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” (chỉ có hạng trí ở trên và hạng ngu ở dưới là không thay đổi, xê dịch được). Mặt khác, ông lại nói “Tính tương cận, tập tương viễn”. Như vậy, ông đã thừa nhận con em nhà bần tiện cũng có thể thành người có đức hạnh. Sự mẫu thuẫn giữa yếu tố duy tâm và duy vật trong quan điểm triết học của ông có liên quan mật thiết đến yếu tố bảo thủ với những yếu tố cải lương trong quan điểm chính trị của ông. Về phương diện chính trị, Khổng Tử vẫn hy vọng quay trở về với thời đại sinh hoạt Tây Chu: lễ nhạc chinh phạt đều do mệnh lệnh thiên tử ban bố ra. Ông Trang 8 không tán thành một số cải cách trái với lễ nhà Chu. Như vậy, ông có tính bảo thủ ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, đối với lễ, ông chủ trương nên có những thêm bớt cần thiết. Ông đã nhập Nhân vào với Lễ. Ông nói Lễ lấy Nhân làm cơ sở tư tưởng, và Nhân lấy Lễ làm nguyên tắc chính trị. Ông xem Nhân là phạm trù cao nhất của luân lý đạo đức, đem hàm nghĩa cơ bản của nó mà lý giải thành Nhân là yêu người, thể hiện một sự tôn trọng nhất định đối với nhân cách, trong khi đương thời hạng quý tộc chủ nô không coi nô lệ là người. Về tư tưởng giáo dục, lần đầu tiên ông đề xuất có thể dạy dỗ được cho tất cả mọi người, tức là ông đã đả phá giới hạn thị tộc khiến cho giáo dục ở trên một trình độ nhất định đã hướng mở cho quần chúng nhân dân. Trong thực tiễn giáo dục, ông nhấn mạnh “dạy người không biết mỏi”, “dạy có thứ tự dẫn dắt người học dễ tiếp thu”. Ông chú ý phát huy tính năng động chủ quan của học sinh, khi học sinh tự cảm thấy có vấn đề thì mới nêu ra giảng giải từng điểm. Trong Thuật Nhi, ông nói: “Không bực tức vì không hiểu được, thì ta không bảo cho mà biết, không hậm hực vì không nói ra được, thì ta không bảo cho mà nói, cử một góc, chẳng biết xét đến ba góc, thì ta không bảo lại vậy”. Ông luôn yêu cầu học sinh phải tự tìm tòi, học hỏi. Phải năm chắc cái cốt lõi của vấn đề để đưa ra những phương pháp hớp lý. Tư tưởng của ông đã có những ảnh hưởng vô cùng sâu xa trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Về phương diện thái độ và phương pháp học tập, Khổng tử đã có nhiều quan điểm, có những sự phân tích sâu sắc. Ông dạy học trò: “Biết cái gì nhận là biết, chảng biết cái gì nhận là chẳng biết, như thế là biết vậy”. Theo quan niệm của ông nếu giỏi chăm vào việc học tập thì ở đâu cũng tìm thấy thầy để học: “Trong ba người cùng đi, hẳn có người là thầy ta, chọn điều thiện của họ mà theo, nêu điều bất thiện của họ mà sửa đổi”. Ông đặc biệt chú ý đến sự kết hợp giữa học tập và nghiền ngẫm suy nghĩ. Yêu cầu học phải đi đôi với hành, thường xuyên ôn luyện lại những kiến thức cũ. Trong thời cổ đại, những nguyên tắc của ông đã thành cách ngôn chỉ đạo giữa việc xử sự giữa người với người, ngày nay vẫn có ý nghĩa tích cực. Trang 9 Người thầy vĩ đại thứ hai của Nho gia là Mạnh Tử (385-304), tên thật là Kha, tự là Tử Dư, người nước Trâu, từng thụ nghiệp với môn nhân của Khổng Cấp, tức Tử Tư, cháu nội của Khổng Tử. Mạnh Tử cũng giống Khổng tử, đi chu du khắp nước mà chưa từng làm quan, suốt một đời chỉ lo dạy học. Tư tưởng của ông chủ yếu phán ảnh trong bảy thiên sách Mạnh Tử do ông cùng học trò của ông biên soạn qua những lời bàn luận của bản thân ông. Cốt lõi triết học của Mạnh Tử là Thuyết tính thiện và Thuyết lương tri. Ông nhận rằng, mỗi người đều có những mầm mống đầy đủ về quan niệm cơ bản đạo đức phong kiến: Lòng trắc ẩn là đầu mối đức nhân, lòng hổ giận là đầu mối đức nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối đức lễ, lòng phải trái là đầu mối đức trí. Bốn đầu mối ấy cùng với đời sống của con người ta mà đến, cũng như ta có tứ chi, mọi người đều giống nhau. Có người không phải thành thiện nhân, không phải là tại nhân tính có gì sai kiệt mà vì người đó không lo bồi dưỡng, mở rộng bấy nhiêu đầu mối thiện, do đó mà đánh mất bản tính. Mạnh Tử nhận rằng trí thức của người chỉ có thể có được cùng với cuộc sống của ta. Điều con người không học mà biết đó là lương năng. Điều không lo nghĩ mà biết, đó là lương tri. Theo ông, sự manh nha của tất cả tri thức đa ở nội tâm của con người. Ông rất chú ý phát huy tính năng động của con người, nhấn mạnh tư duy lý tính ngang hàng với nhận thức cảm tính: “Lỗ tai con mắt không lo nghĩ, cái tâm sẽ lo nghĩ. Lo nghĩ thì được, không lo nghĩ thì không được cái gì”. Mạnh tử còn đề xướng thế giới quan: “Vạn vật đều đủ ở ta”. Như vậy tư tưởng của ông thuộc duy tâm luận chủ quan. Tư tưởng dân bản là tinh hoa của quan điểm chính trị của ông. Ông thừa nhận rằng, đối với một quốc gia dân là quý, xã tắc là hàng thứ sau dân, vua là nhẹ. Cho nên Vua phải có trách nhiệm với bề tôi, còn bề tôi phải trung thành với Vua. Ông nói: “Vua xem bề tôi như tay chân, thì bề tôi xem Vua như tâm phúc, Vua xem bề tôi như chó ngựa, thì bề tôi xem Vua như dân thường, Vua xem bề tôi như bùn đất rau cỏ, thì bề tôi xem Vua như thù địch.”. Ông xem giữa Vua tôi có một quan hệ qua lại ở một trình độ nhất định, không có sự phục tùng và nghĩa Trang 10 vụ lệ thuộc trời sinh. Điều này có chỗ bất đồng với đạo Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi của Khổng Tử. Quan điểm của Khổng Tử và Mạnh Tử có những điểm bất đồng nhưng đều tựu chung vào vấn đề lấy con người làm trọng, mong muốn xây dựng một xã hội lý tưởng, thiên hạ thái bình, ai cũng được giáo dục và học hành. Tư tưởng của Nho đã tạo cho Trung Quốc thời Thượng cổ có nền tảng luân lý vững chắc. Từ đời Tống trở về sau, Khổng Tử được tôn là Chí Thánh Tiên Sư, còn Mạnh Tử là Á Thánh Công. Trang 11 CHƯƠNG 2: HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM Trong mọi xã hội, gia đình luôn là yếu tố cấu thành quan trọng nhất. Điều này càng tỏ ra đúng đắn đối với các xã hội phương Đông vốn có truyền thống đề cao các mối quan hệ cộng đồng hơn thể hiện cá nhân. Các trường phái tư tưởng phương Đông thường có khuynh hướng thiết lập những chuẩn mực đạo đức dựa trên vai trò và các mối quan hệ xã hội của con người. Chúng thường mang tính chất hướng nội và khô cứng, có nghĩa là tập trung giáo huấn con người ở mức độ tự giác theo những khuôn mẫu được đặt sẵn từ rất lâu đời. Những khuôn mẫu này được áp dụng không đổi trong mọi trường hợp, mọi đối tượng mà quên đi yếu tố linh động của văn hóa ứng xử. Nho giáo, một trường phái tư tưởng lớn của Trung Quốc, cũng không tránh khỏi những nhược điểm cố hữu đó. Nó thiết lập những giới hạn vô hình đối với con người và ngăn cản sự phá cách bằng định kiến xã hội. Con người hành động theo những “tấm gương” mà theo Nho giáo là những người quân tử, những phẩm hạnh đạo đức cần noi theo. Như vậy trong xã hội hình thành nên một lớp người chỉ biết suy nghĩ theo những quy tắc sáo rỗng, khô cứng mà quên đi việc phát triển cái tôi cá nhân của mình. Trì trệ trong tư duy nhận thức của con người mang lại sự kém phát triển của xã hội. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng Nho giáo đóng một vai trò vô cùng to lớn trong việc giáo dục nhân cách con người và bình ổn xã hội. Đạo đức, hành vi luôn được quy định chặt chẽ tùy thuộc vào danh phận, địa vị hay trình độ tri thức của mỗi người. Trong quan điểm của Nho giáo, chúng ta thấy không tồn tại một con người cá nhân, một cái tôi tách khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội đã giúp cho Nho giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội. Nếu xét trên quan điểm quản lý đất nước, Nho giáo là một công cụ hữu hiệu để giáo dục người dân và khơi dậy trong họ ham muốn hướng thiện để trở thành bậc “thánh nhân” hay người “quân tử” và được “lưu danh thiên cổ”. Lúc này chính những nhược điểm của Nho giáo đã đề cập bên trên lại có tác dụng hạn Trang 12 chế hành động của con người trong một giới hạn mong muốn, mang lại một xã hội ổn định hơn. Nho giáo cho rằng mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ PHỤ – TỬ, PHU – THÊ, HUYNH – ĐỆ, QUÂN – THẦN, và BẠN – HỮU. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong mối quan hệ ấy Nho giáo đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức tương ứng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hiếu, Trung. Trong đó tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy phạm đạo đức riêng. Trong phạm vi bài tiểu luận này sẽ đề cập đến học thuyết của Nho giáo Trung Quốc tới ba mối quan hệ trong gia đình người Việt là PHỤ – TỬ, PHU – THÊ, và HUYNH – ĐỆ. I. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHỤ - TỬ Lịch sử hàng ngàn năm Bắc thuộc đã mang lại cho văn hóa Việt Nam những ảnh hưởng nhất định từ nền văn hóa Trung Quốc. Chúng ta có thể dễ dàng thấy được lối sống, chuẩn mực đạo đức và hành vi ứng xử khá tương đồng của con người sống ở hai quốc gia này. Rất nhiều phong tục, tập quán như lễ tết, thủ tục cưới xin, ăn uống có nguồn gốc từ Trung Quốc nay đã trở thành một phần văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên dáng dấp của văn hóa Trung Hoa mà điển hình là Nho giáo được thể hiện rõ nhất trong cơ cấu, quan hệ giữa các thành viên và tôn ti trật tự trong gia đình người Việt. Trong quan niệm của người Việt Nam và Trung Quốc, gia đình là tế bào nhỏ nhất hình thành nên xã hội, trong đó các thành viên đều đóng vai trò chung để gia đình là một tổ chức có ích cho xã hội. Hơn thế nữa người Việt Nam và người Trung Quốc cổ còn xem gia đình là một cơ thể thống nhất cùng chung hưởng vinh nhục với từng thành viên trong gia đình. Do đó mới có chuyện “con làm, cha chịu” hay “Chu di cửu tộc” có nghĩa là một người chịu tội, chín họ liên đới phải chịu chém đầu. Có lẽ chính vì vậy mà hệ thống giáo dục tức là tư tưởng Nho giáo lúc bấy giờ quy định nghiêm ngặt những luật lệ điều chỉnh hành vi của từng thành viên trong gia đình. Quan điểm “nam tôn, nữ ti” đã mang lại quyền Trang 13 lực tối cao cho người đàn ông hay người cha trong gia đình. Họ có quyền quyết định mọi việc nhưng đồng thời họ cũng là người chịu trách nhiệm chính trong gia đình. Như vậy, luôn tồn tại hai con người mà mà người chủ gia đình phải đối mặt. Thứ nhất đó là người cha, người chồng thực thụ với lòng yêu thương, bao dung thiên bẩm của người Á Đông. Nhưng song song với con người này là người chủ gia đình mang đậm tư tưởng gia trưởng có trách nhiệm nối bước tổ tiên mang lại vinh quang cho gia đình. Sự xung đột này cũng tồn tại trong các thành viên khác đó là xung đột giữa ý thức tuân thủ luật lệ và mong muốn vươn tới sự công bằng. Và chính điều này đã tạo ra những câu chuyện thật cảm động trong mối quan hệ Phụ - Tử, hay còn gọi là quan hệ cha – con. Quan hệ cha – con là một trong ba mối quan hệ cơ bản của con người. Duy trì mối quan hệ này cũng là duy trì tôn ti trật tự trong gia đình cũng như xã hội và ràng buộc trách nhiệm giữa con người với con người. Tư tưởng Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến chuẩn mực đạo đức gia đình người Việt, và được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Chuẩn mực đạo đức trong quan hệ cha – con tập trung biểu hiện trong khuôn khổ của Từ, Hiếu và Lễ. Trang 14 Cha mẹ phải yêu thương, nuôi dưỡng con cái (Từ), còn con cái phải kính trọng cha mẹ (Hiếu, Lễ). Cha mẹ là người thường xuyên giáo dục con trẻ thái độ, cử chỉ, ăn nói lễ phép, tôn kính người trên, tôn sư trọng đạo, nhường nhịn lẫn nhau, như tổ tiên thường dạy: “Dạy con từ thuở còn thơ”. Ca dao Việt Nam có câu: “Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con”, có nghĩa là cha mẹ phải luôn giữ lời ăn, tiếng nói cũng như tác phong làm việc để con cái noi theo. Cha mẹ là người thầy đầu tiên định hướng cho con cái, rèn luyện cho con cái nền nếp học tập và đức tính tốt. Trong Kinh Lễ có ghi: ngay từ khi con cái đến tuổi biết ăn cơm, cha mẹ “cần thiết phải dạy nó biết sử dụng tay phải, con trai biết thưa dạ, con gái biết nhu hòa…Khi con lên sáu tuổi, hãy dạy chúng về số học và đếm số…Tám tuổi, dạy chúng khi ra vào hay khi ngồi vào bàn ăn, nhất nhất phải theo sau bậc trưởng thượng, bắt đầu dạy chúng biết nhường nhịn…Mười tuổi, cho ra ngoài học thêm sách vở khác…bắt đầu hướng dẫn chúng về Lễ, sớm tối tuân theo nghi thức của trẻ nhỏ…Hai mươi tuổi là làm lễ đội mũ, bắt đầu học Lễ…dạy chúng thuần hậu và hiểu Lễ”. Đạo làm cha mẹ quy định phải nuôi nấng, chăm sóc, và tạo điều kiện cho con cái học hành đến nơi đến chốn dù đó là con trai hay con gái. Tuy nhiên tư tưởng “nam tôn, nữ ti” của Nho giáo xưa chỉ coi phụ nữ là con người của gia đình và chỉ đàn ông mới làm được việc đại sự, mới được xã hội tôn trọng. Do đó, việc chỉ có nam giới mới được đến trường học cũng là điều dễ hiểu. Tư tưởng này cũng không loại trừ con gái của những gia đình giàu có hay quý tộc. Đối với một số cô gái thông minh và ham học hỏi, gia đình chỉ có thể tạo điều kiện bằng cách mời thầy giáo về nhà dạy chữ cho con mình. Thậm chí các công chúa, tiểu thư cũng không được đến trường công mà phải học ở các lớp đặc biệt dành riêng cho phụ nữ. Ở đó, họ học các tín điều Nho giáo dành cho phụ nữ. Điều này tỏ ra khá khác biệt với tư tưởng hiện đại đến từ phương Tây: “Nam nữ bình quyền”, có nghĩa là phụ nữ cũng có mọi quyền và nghĩa vụ như nam giới và họ cũng có thể được hưởng chế độ giáo dục đầy đủ để có thể trở thành người có ích trong tương lai. Như đã nói Trang 15 ở trên, mỗi thành viên trong gia đình đều tồn tại sự đấu tranh giữa tư tưởng nhân văn tiến bộ hướng tới sự công bằng và tư tưởng nho giáo hà khắc. Tuy nhiên con người Việt trong xã hội xưa luôn ngả về những tư tưởng nho giáo tuy hà khắc nhưng lại được sự hậu thuẫn bởi luật pháp và định kiến xã hội. Bất kỳ hành động phá cách nào cũng có thể mang lại tai họa và sự ô danh cho cả gia đình hay dòng họ. Trong lịch sử Việt Nam có nhiều phụ nữ nổi tiếng về tài năng và học vấn như nữ sĩ Ngô Chi Lan (thế kỷ 16), Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ thứ 18) bởi những đóng góp của họ cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Tài năng của họ không thua kém bất kỳ đấng trượng phu đương thời nào và nhẽ ra cũng có những đóng góp to lớn cho đất nước. Tuy vậy, định kiến nho giáo đã trói buộc tài năng của họ ở những tác phẩm văn thơ mang đậm tư tưởng bất bình về sự bất công giới tính. Có lẽ người phụ nữ thành công nhất trong lịch sử nước Việt Nam là bà Nguyễn Thị Du, người đã dám phá bỏ những quy tắc, luật lệ nho giáo phong kiến để cải trang thành nam nhi đi học và đỗ trạng nguyên vào năm 17 tuổi. Câu chuyện về bà là một minh chứng cho tình cảm cha con đã thắng được những định chế Nho giáo lạc hậu xưa. Theo “Đại nam Nhất thống chí” và báo Nam Phong số 24-6-1919 của Nguyễn Hữu Tiến, bà Nguyễn Thị Du quê ở làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, Tỉnh Hải Dương. Năm 10 tuổi bà theo cha tị nạn lên Cao Bằng. Bà vốn thông minh, chăm học nên 10 tuổi bà đã biết làm văn, làm thơ và có tài đối đáp rất nhanh. Người cha tiếc tài của con gái, cho con cải trang thành nam và cho đi học. Bà học rất giỏi, thông làu kinh sử. Năm Quý Tỵ (1953), nhà Mạc sau khi thất trận bỏ kinh đô lên Cao Bằng, Mạc Kính Cung đã tự lập làm vua lấy niên hiệu là Càn Thống. Đến năm 1961, triều Mạc mở khoa thi. Bà Nguyễn Thị Du và thầy dạy mình cùng đi thi cùng với nhiều sĩ tử khác. Nguyễn Thị Du với cái tên Nguyễn Ngọc Toàn đã đổ thủ khoa khi vừa tròn 17 tuổi. Trong yến tiệc đãi các tân khoa, Mạc Kính Cung thấy phong cách và hình dáng vị trạng nguyên trẻ có vẻ khác thường, sinh lòng ngờ vực, gạn hỏi và cuối cùng nhà vua khám phá ra vị tân khoa này lại là gái giả trai. Tội khi quân tày đình, nhưng vua Mạc thương Trang 16 cảm lòng hiếu học của cô gái trẻ, phục nể tài sắc của cô, không những không trừng phạt mà còn nạp cung, phong làm Tinh Phi (Sao Sa) ngụ ý khen vừa xinh đẹp, thông minh, vừa sáng láng như một vì sao. Đây chỉ là một trong số rất ít những gia đình dám bỏ qua các quy định của nho giáo để mang lại điều tốt đẹp hơn cho các thành viên, còn phần lớn đều phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nhất định. Những chuẩn mực này được quy định chặt chẽ đối với từng cá nhân trong gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc con cái, làm mọi điều tốt nhất cho con cái. Và ngược lại, con cái cũng phải thực hiện những quy phạm đạo đức như Hiếu, Lễ mà Nho giáo đề ra. Đó như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong gia đình Nho giáo Việt Nam. Chữ Hiếu trong gia đình cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có người quan niệm Hiếu là lúc nhỏ phải lo học hành, lúc trưởng thành phải lo làm ăn, không vi phạm pháp luật, đạo đức, không làm cha mẹ buồn lòng, làm vẻ vang gia đình dòng họ. Trong tác phẩm chính của Nho giáo, Hiếu Kinh đã nói về Hiếu đạo như sau: “Hiếu là gốc của đức, là nguồn gốc của giáo…thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương đó là khởi đầu của Hiếu. Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của Hiếu. Xét về Hiếu, khởi đầu là lo việc song thân, kế đến là lo việc vua tôi, sau cùng mới đến việc lập thân”. Muốn thành đạt trong công việc thì việc đầu tiên là phải ổn định được gia đình vì gia đình là cội nguồn và là nền tảng để con người sinh tồn và phát triển. Ví như một người không có chân thì có tài giỏi đến đâu đi chăng nữa cũng không thể đứng vững, huống chi hoàn thành tốt công việc xã hội. Vì vậy, gia đình hòa thuận êm ấm bao nhiêu thì các thành viên trong gia đình có thể yên tâm lo tròn việc xã hội bấy nhiêu: Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để thực hiện được Hiếu, Nho giáo đòi hỏi con người trước hết phải biết giữ gìn và tuân theo Lễ. Con cái phải luôn hiếu kính, biết phụng dưỡng chăm sóc cha mẹ. Nho giáo cho rằng chỉ có Lễ con người mới trở thành con người của xã hội. Theo Kinh Lễ: “Chim anh vũ có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài chim, con tinh tinh có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài cầm thú. Làm người mà không có Trang 17 lễ thì tuy biết nói đấy nhưng khác gì loài cầm thú? Chỉ có loài cầm thú là không có lễ, cho nên cha con ở lẫn lộn với nhau. Vì vậy, việc làm của bậc thánh nhân là lấy lễ để dạy người khiến người ta ai cũng biết lễ để tự phân biệt mình với cầm thú.” Nhờ có lễ, con người mới biết thế nào là có hiếu với cha mẹ, biết lễ phép thì “khi ở trước cha mẹ ruột hoặc cha mẹ chồng, nếu có lệnh phải vâng dạ kính cẩn, tiến thoái phải chu toàn thận trọng, lên xuống ra vào phải cung kính, không dám ho hoe, đằng hắng hay ngáp dài, không được đứng dựa nghiêng ngả liếc ngang liếc dọc, không dám phun nước bọt chùi nước mũi…Nếu như cha mẹ có lỗi lầm gì mình vẫn phải vui vẻ hòa nhã dùng lời nói ôn hòa mà can gián. Nếu can mà (cha mẹ) không nghe lại càng phải giữ thái độ hòa nhã cung kính hơn, đợi cha mẹ nguôi ngoai rồi lại can gián. Nếu cha mẹ không nghe để đến nỗi phạm lỗi lầm có tội với bạn bè hàng xóm, ta vẫn phải ôn hòa khuyên can. Nếu cha mẹ nóng giận đánh ta đến chảy máu, ta vẫn không dám giận oán mà vẫn phải kính trọng hiếu thuận với cha mẹ” (Kinh Lễ, chương 8). Con cái là sản phẩm của cha mẹ và để giữ đạo làm con, người con phải hiếu lễ, tuân thủ các chuẩn mực đạo đức gia đình cũng như nghe lời và phụng dưỡng cha mẹ. Vì cha mẹ luôn mong muốn những điều tốt đẹp đến với con cái nên họ áp đặt tư tưởng để rèn con thành người có ích cho xã hội. Để đáp nghĩa công sinh thành dưỡng dục, con cái phải biết tôn kính và hiếu thuận với cha mẹ. Từ những ngày còn ở trong nôi, người Việt đã được ấp ủ bằng lời ru tràn đầy lòng yêu thương như bài học đầu tiên về hiếu lễ với cha mẹ: Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ, kính cha Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con. Khác với tư tưởng hiếu thuận của người phương Tây, đề cao quyền bình đẳng (của con cái), Nho giáo quy định con cái phải nghe lời, nhường nhịn, không được cãi lời cha mẹ: Cha mẹ mắng cửa trước, con cái luồn cửa sau. Trong gia đình người Việt, con cái không được tự ý quyết định khi chưa được sự đồng ý Trang 18 của cha mẹ. Đối với họ lời nói, quyết định của cha mẹ được xem là kim chỉ nam, thước đo của chuẩn mực đạo đức mà người con luôn phải tuân thủ: Cá không ăn muối cá ươn, Con không nghe cha mẹ trăm đường con hư. Với kinh nghiệm sống và lòng yêu thương con cái của người cha, người mẹ vốn luôn muốn những điều tốt đẹp cho con cái mình thì quan điểm về chữ Hiếu trên là cần thiết và cũng nên coi đó là một nét đẹp của gia đình Á Đông nói chung và gia đình nho giáo Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên không phải mọi quan điểm về Hiếu thuận của Nho giáo cũng đều mang ý nghĩa giáo dục và nhân bản. Dựa trên tư tưởng gia trưởng, bảo thủ, trọng nam khinh nữ nên trên nhiều mặt Nho giáo cũng có cái nhìn cứng nhắc về chữ Hiếu. Như theo quan điểm của Mạnh Tử: không lấy vợ, không sinh con trai, để cha mẹ lo buồn…là bất hiếu. Tư tưởng phải có con trai để nối dõi tông đường này đã ăn sâu trong tâm khảm người Việt cho tới tận ngày nay. Tuy trình độ học vấn của người dân trong xã hội hiện đại đã được cải thiện đáng kể nhưng quan niệm này đã tồn tại trong một thời gian rất dài trải qua nhiều thế hệ nên khó có thể được cải biến trong thời gian ngắn. Thực tế gia đình Việt Nam đã và đang chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực bởi tình trạng đẻ cố để có “người thờ cúng mai sau”. Gia đình đông con mà không có khả năng nuôi dạy dẫn tới sự đói nghèo, thất học và nguy hiểm hơn là sự mâu thuẫn giữa các thành viên luôn là hệ quả đi liền với tư tưởng: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Ở nhiều làng quê, vấn đề này còn nặng nề đến mức chuyện có hay không có con trai còn ảnh hưởng tới vinh nhục của người cha. Nếu không có con trai thì người cha luôn bị xếp ngồi mâm dưới khi dự cỗ bàn, vì họ cho rằng như thế là không đủ tư cách để tiếp chuyện các cụ bô lão. Điển hình là có những gia đình vì không sinh được con trai nên tự cảm thấy “bất hiếu” với tổ tiên, xấu hổ với làng xóm nên đã bỏ quê hương đi biệt xứ. Ngay trong tiếng Trung Quốc, chữ Hảo(好) cũng được ghép lại từ bộ Nữ và bộ Tử với hàm ý rằng những người phụ nữ tốt là những người phụ nữ biết sinh con, nhất là con trai. Trang 19 Mang trong mình những nhược điểm cố hữu, nhưng Nho giáo vẫn ảnh hưởng tương đối tích cực đối với truyền thống, gia phong của gia đình người Việt tạo nên nhiều lớp văn hóa gia đình đặc sắc. Tại nhiều vùng miền, tư tưởng Nho giáo đã được áp dụng sáng tạo và thích ứng đối với tập tục, văn hóa riêng của vùng đó. Có thể lấy ví dụ như nhiều dòng họ đã lập gia phả, gia pháp để giáo dục con cháu duy trì truyền thống tốt đẹp tổ tiên để lại. Nhiều bản gia pháp chuyển những quy định thành những câu thơ, bài vè để dễ học hơn. Bài Vè dạy con của Mai Bạch Ngọc: “Nghề nào một nghề Học lấy cho tinh Nghề mình không ràng Việc mình không thành Cực khổ là sách Hoạn nạn là thầy Nếu ai biết học Sẽ nên người hay” Hoặc trong Vè dạy con (sưa tầm ở Tâm Phước, Gò Công Đông) : “…Con đừng ham bạc ham tiền, Đem duyên bán rẻ để phiền cho duyên. Gái khôn chẳng khác chiếc thuyền, Trai khôn cầm bách mối giềng thằng ngay Con đừng vợ một, vợ hai, Ăn chơi lầm lạc, có này lụy thân. Con mà tiết kiệm ân cần, Siêng năng làm lụng để phần ấm no.” Những bài vè hay những câu ca dao từ xa xưa để lại đều mang đậm nét nhân văn, tính giáo dục cao đối với các thành viên trong mối quan hệ gia đình. Qua đây ông cha ta muốn truyền tải tư tưởng Nho giáo về trách nhiệm và nghĩa vụ riêng phù hợp đối với danh phận của mỗi thành viên. Cha mẹ phải nuôi Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan