Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ thực tiễn tỉ...

Tài liệu Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ thực tiễn tỉnh lạng sơn

.PDF
78
466
109

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THU HỒNG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN n s v t t n Chuyên ngành : Luật Mã s : 60. 38. 01. 04 n s LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ TIẾN CHÂU HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực. Tôi dã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội Hà Nội. NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thu Hồng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................. ……1 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM ........................................... 7 1.1 Các khái niệm cơ bản............................................................................... 7 1.2. Đặc điểm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm............................................................................................................. 16 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN .................................................................................................... 33 2.1. Những yếu tố thực tại ảnh hưởng đến kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ................................................................ 33 2.2. Thực tiễn thi hành việc kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. ...................................................................................................... 37 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM ....... 54 3.1. Dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn .............................. 54 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. ..................................................................................... 57 KẾT LUẬN .................................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 74 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên KSV Kiểm sát viên TTHS Tố tụng hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao cho VKSND chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Thông qua chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời. Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. VKSND kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền là hoạt động đầu tiên của VKS khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Vai trò của VKSND trong giai đoạn này là hết sức quan trọng vì việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhằm kịp thời phát hiện hành vi phạm tội. Từ đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để xem xét khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Làm tốt khâu công tác nghiệp vụ này có ý nghĩa quyết định, then chốt đảm bảo việc đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao. Trong những năm vừa qua, trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKSND tỉnh Lạng Sơn đã đạt được 1 những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt trước yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều tồn tại trong hoạt động thực tiễn. Thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm để làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định trên thực tiễn có ý nghĩa thực tiễn và pháp lý quan trọng. Từ những lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Kiểm sát việc tiếp n ận, iải quyết t iác, tin báo về tội p ạm từ t c tiễn tỉn Lạn Sơn” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tố giác, tin báo về tội phạm, công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm dưới các góc độ khác nhau như Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Dương Tiến Mạnh với đề tài Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (Hà Nội – 2015); Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trương Văn Chung với đề tài Tố giác, tin báo về tội phạm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang (Hà Nội- 2015). 2 Các công trình ở dạng bài viết như: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo yêu cầu của cải cách tư pháp của tác giả Thạc sĩ Nguyễn Duy Giảng, Tạp chí kiểm sát số 18-20/2008; Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của tác giả Lưu Trọng Nguyên, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009. Quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố - Thực trạng và một số đề xuất kiến nghị của tác giả Vũ Việt Hùng, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009. Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm của tác giả Thạc sĩ Lê Ra, Tạp chí kiểm sát, số 20/2012. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội với Cục điều tra trong việc phát hiện và giải quyết tố giác, tin báo về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của tác giả Nguyễn Quang Thành, Tạp chí kiểm sát số 11/2012... Như vậy, việc nghiên cứu công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm không phải mới. Tuy nhiên dưới góc độ Luật tố tụng hình sự, các công trình nói trên mới chỉ nghiên cứu ở khía cạnh tổng quát chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu một cách đầy đủ và có hệ thống về những kết quả đã đạt được cũng như những vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm tại địa bàn tỉnh Lạng Sơn để từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Như vậy, đề tài không trùng với bất cứ đề tài nào đã được công bố. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. M c đíc n iên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm dưới khía cạnh pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn thực hiện chức năng này của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn. Từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn. 3.2. N iệm v n iên cứu Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các vấn đề sau: - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. - Đánh giá thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Viện KSND tỉnh Lạng Sơn giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. - Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cho ngành Kiểm sát Lạng Sơn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đ i tượn n iên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện KSND và thực trạng áp dụng so với quy định của pháp luật về hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. 4.2. P ạm vi n iên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong luật TTHS Việt Nam và những văn bản hướng dẫn có liên quan, kết hợp việc 4 nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của Viện KSND tỉnh Lạng Sơn. Luận văn không nghiên cứu quy định của pháp luật nước ngoài về vấn đề này. Chỉ ra nguyên nhân những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn. Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong 05 năm (từ năm 2011 đến năm 2015) trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê. Các phương pháp này luôn hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để làm rõ những vấn đề thuộc đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn liên quan chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Làm rõ được những hạn chế tồn tại khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát để từ đó có những đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn. Luận văn được sử dụng là nguồn tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ công tác thực tiễn ở địa phương. 5 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 03 chương: - Chương 1. Khái quát về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. - Chương 2. Thực trạng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn - Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. 6 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM 1.1 Các khái niệm cơ bản 1.1.1 K ái niệm t iác, tin báo về tội p ạm Hiện nay, công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tin báo, tố giác về tội phạm sẽ là nguồn thông tin quan trọng giúp cho các Cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ để tiến hành các hoạt động của mình. Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là hoạt động quan trọng trong giai đoạn đầu của tố tụng hình sự, là cơ sở và là căn cứ mở đầu cho các hoạt động tố tụng tiếp theo. Để làm rõ khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm chúng ta cần hiểu và phân biệt giữa khái niệm tố cáo, tố giác, tin báo. Theo từ điển tiếng Việt, khái niệm tố cáo được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất: Tố cáo là báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. Nghĩa thứ hai: tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn. Tố giác là báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. Tin là điều được truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình hình xảy ra. Báo là cho biết việc gì đó đã xảy ra. [19]. Theo Luật tố cáo năm 2011 quy định: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào 7 gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. [14] Tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác nhau. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm. Còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm đã được quy định trong BLHS. Từ đó có thể thấy khái niệm tố cáo rộng hơn và bảo hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm theo TTHS. Tố cáo là quyền của công dân, còn tố giác về tội phạm là quyền cũng là nghĩa vụ của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo. Còn quan hệ pháp luật tố giác về tội phạm phát sinh từ khi công dân biết tội phạm. Công dân có quyền tố cáo hay không tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật nhưng nếu biết rõ hành vi phạm tội quy định tại BLHS thì công dân phải tố giác về hành vi đó. Có nhiều quan điểm khác nhau về tin báo, tố giác tội phạm. Có quan điểm cho rằng, tố giác tội phạm là việc công dân tố giác về hành vi tội phạm được quy định trong BLHS, còn tin báo về tội phạm là những hành vi phạm tội được quy định trong BLHS do cơ quan, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết, do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú. Như vậy theo quan điểm này có sự khác nhau về chủ thể cung cấp thông tin về tội phạm. Nếu như tố giác về tội phạm có nguồn thông tin về tội phạm là do công dân tố giác thì tin báo về tội phạm có nguồn gốc của thông tin là do cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp hoặc do người phạm tội tự thú. Thông tư liên ngành số 03/TT-LN ngày 15/5/1992 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ nội vụ (nay là bộ Công an) – Bộ quốc phòng – Bộ Lâm nghiệp – Tổng cục Hải quan hướng dẫn thi hành các quy định của TTHS năm 1988 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm định nghĩa về khái 8 niệm tin báo và tố giác về tội phạm như sau:“Tin báo và tố giác về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định trong TTHS do công dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú”. [30] Hiện nay, khái niệm trên không còn phù hợp trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong khi đó, BLTTHS năm 2003 không quy định rõ thế nào là tin báo, tố giác về tội phạm mà chỉ quy định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản”. [12, Điều 101]. Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02 tháng 8 năm 2013 của Bộ Công an- Bộ Quốc phòng- Bộ tài chính- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn- Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định BLTTHS năm 2003 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 06/2013) đã có giải thích về khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm như sau: - Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. - Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Theo chúng tôi tố giác về tội phạm được hiểu là những thông tin, hành vi có dấu hiệu tội phạm được cá nhân phát hiện và tố cáo với cơ quan có thẩm 9 quyền. Tin báo về tội phạm được hiểu là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền. Chúng tôi đồng tình với khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm được quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 144 BLTTHS năm 2015. Theo đó: - Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. - Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Như vậy có thể hiểu tố giác, tin báo là những thông tin có dấu hiệu tội phạm được quy định trong BLHS do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp bằng các hình thức khác nhau hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng để các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo BLTTHS. Về mặt TTHS thì khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với Cơ quan CSĐT, VKS, Tòa án trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Tố giác, tin báo về tội phạm là những thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn, là căn cứ để CQĐT mở ra những hoạt động điều tra, xác minh tính có căn cứ và hợp pháp của tố giác, tin báo về tội phạm. Từ đó làm cơ sở để khởi tố vụ án, tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. 1.1.2 K ái niệm kiểm sát việc tiếp n ận, iải quyết t iác, tin báo về tội p ạm Từ điển tiếng Việt định nghĩa kiểm sát là kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước [19]. Nội dung của khái niệm kiểm sát là hoạt động kiểm tra với đối tượng kiểm tra là việc chấp hành pháp luật. Như vậy, định nghĩa này chưa chỉ ra chủ thể của hoạt động kiểm sát. Pháp luật thực định chỉ quy 10 định một loại chủ thể có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đó là VKS. Hiện nay, VKSND là hệ thống cơ quan nhà nước được Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước quy định trao cho quyền hạn được thực hiện việc kiểm sát hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Đây là chức năng đặc thù của VKS cùng với chức năng THQCT, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để VKS thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Kiểm sát là một dạng giám sát đặc thù với quyền năng kiểm sát và phương thức kiểm sát riêng biệt. Điều 20 BLTTHS năm 2015 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.” [17]. Pháp luật thực định chỉ quy định một loại chủ thể thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, đó là Viện kiểm sát. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tham gia “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước” trong TTHS không chỉ có Viện kiểm sát mà còn có các chủ thể khác như người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và toàn thể xã hội nói chung. Quyền của các chủ thể khác được “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước” trong lĩnh vực Tố tụng hình sự xuất phát từ những chế định quan trọng của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và địa vị pháp lý cơ bản của công dân. Về bản chất, các hoạt động của các chủ thể này như theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra các 11 quyết định, yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm… cũng ảnh hưởng đến việc “phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật” và “loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân” trong Tố tụng hình sự. Không thể coi đây là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình sự mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát và hoạt động giám sát của các chủ thể khác chính là một số quyền mà pháp luật cho phép chỉ có Viện kiểm sát mới có khi thực hiện hoạt động kiểm sát, các quyền này cũng đồng thời là nghĩa vụ của Viện kiểm sát, tạo nên sự khác biệt về phương thức thực hiện hoạt động kiểm sát mà các chủ thể khác không có. Quyền của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình sự được thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trưởng, Phó viện trưởng và Kiểm sát viên. Các quyền và nghĩa vụ của VKS đặt trong mối quan hệ tổng thể tạo ra một phương thức kiểm sát đặc trưng, cho phép phân biệt dễ dàng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát với hoạt động giám sát (bao gồm cả ủy ban Tư pháp Quốc hội). Phương thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một cách liên tục – cụ thể - trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng. Tính liên tục thể hiện ở chỗ: trong toàn bộ quá trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ có mặt tại tất cả các giai đoạn từ khởi tố - điều tra- truy tố - xét xử và thi hành án. Từ khi một người dân mới là đối tượng bị tình nghi cho đến khi người đó được xóa án tích. Tính cụ thể của phương thức kiểm sát chính là việc Viện kiểm sát có quyền giám sát chi tiết, tỉ mỉ các hoạt động cụ thể: khám nghiệm hiện trường, hỏi cung, lấy lời khai, thực nghiệm điều tra... Viện kiểm sát kiểm sát một cách trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc có mặt, theo sát, nhắc nhở kịp thời khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động giải quyết vụ án. 12 Tính trực tiếp, cụ thể, liên tục của phương thức kiểm sát không nên hiểu là Viện kiểm sát phải có mặt, theo dõi và giám sát mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi. Tùy vào điều kiện thực tế về nhân sự, số lượng vụ án, tính chất từng loại vụ án và quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà Viện kiểm sát sẽ quyết định khi nào phải kiểm sát trực tiếp diễn biến của một hoạt động tố tụng và khi nào chỉ cần kiểm sát thông qua kết quả của hoạt động tố tụng. Viện KSND là một cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chức năng Hiến định, đó là “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. [28]. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong đó có công tác kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Công tác tiếp nhận và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là một trong những hoạt động quan trọng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành kiểm sát nhân dân. Thông qua việc thực hiện tốt công tác này, Viện KSND mới có cơ sở để đảm bảo các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra đúng pháp luật, có căn cứ, khách quan, triệt để; mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không 13 làm oan người vô tội, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của CQĐT và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền kiểm sát do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. [15]. Mục đích của công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhằm đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm đều phải được tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, xử lý kịp thời; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật, những vi phạm trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục và xử lý nghiêm minh. Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, BLTTHS, các Luật về tổ chức và khái niệm, phạm vi công tác kiểm sát, theo tác giả, công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp quyền năng pháp lý thuộc nội dung công tác kiểm sát do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. [15] Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, công tác Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là hoạt động giám sát liên tục, cụ 14 thể, trực tiếp các hoạt động cơ quan điều tra thực hiện trong suốt quá trình tiếp nhận, giải quyết công tác theo quy định của pháp luật. Bên cạnh chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm chúng ta cần phân biệt với chức năng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự [15], là chức năng Hiến định của Viện kiểm sát. Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là hoạt động thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trọng việc tiến hành xử lý và giải quyết đối với những thông tin về hành vi có dấu hiệu của tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp theo quy định của pháp luật. Các hoạt động thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm như phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; Trực tiếp giải quyết, tố giác tin báo về tội phạm trong trường hợp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục… Chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong tố tụng hình sự là hai chức năng độc lập nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Từ khi cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thì đã phát sinh 15 hoạt động Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhằm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. 1.2. Đặc điểm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm 1.2.1. C ủ t ể kiểm sát việc tiếp n ận, iải quyết t iác, tin báo về tội p ạm VKSND là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao cho chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. “VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [13, Điều 107]. Chức năng này của VKSND đã được kế thừa kể từ khi Hiến pháp năm 1959 đã chính thức ghi nhận VKSND là hệ thống cơ quan nhà nước và được cụ thể hóa bằng Luật tổ chức VKSND năm 1960. Tuy qua các thời kì khác nhau, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND có những thay đổi khác nhau nhưng về cơ bản Hiến pháp vẫn quy định cho VKSND hai chức năng cơ bản đó là chức năng THQCT và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp tại Khoản 1 Điều 4 như sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, VKS kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan