Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở...

Tài liệu Kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông hồng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

.PDF
127
773
77

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯƠNG THỊ PHƯƠNG HIỀN KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ NHẰM TĂNG CƯỜNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Tóm tắt luận văn thạc sĩ Chính trị học HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯƠNG THỊ PHƯƠNG HIỀN KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ NHẰM TĂNG CƯỜNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 20 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS VŨ VĂN HIỀN HÀ NỘI - 2012 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Công trình này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Phó giáo sư, Tiến sỹ Vũ Văn Hiền Các số liệu, kết quả sử dụng trọng luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2012 Người viết luận văn Trương Thị Phương Hiền 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT XHCN Xã hội chủ nghĩa TBCN Tư bản chủ nghĩa HTCT Hệ thống chính trị CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hoá HĐND Hội đồng nhân dân UBND Uỷ ban nhân dân ANTT An ninh trật tự Nxb Nhà xuất bản 4 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỆN TOÀN HTCT CẤP XÃ VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN 1 8 1.1. Kiện toàn HTCT cấp xã 1.1.1. HTCT và đặc điểm HTCT ở Việt Nam 1.1.2. HTCT cấp xã và kiện toàn HTCT cấp xã 1.2. Ổn định chính trị - xã hội 1.2.1. Vai trò của ổn định chính trị - xã hội đối với sự phát triển, tiến bộ xã hội 1.2.2. Ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn 1.3. Mối quan hệ giữa kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã với tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn 1.3.1. Vị trí, vai trò của HTCT cấp xã trong việc giữ vững, tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn 1.3.2. Ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn được giữ vững, tăng cường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kiện toàn HTCT cấp xã Chương 2: THỰC TRẠNG HTCT CẤP XÃ VÀ GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN 8 8 15 28 28 34 40 40 45 50 NHẰM TĂNG CƯỜNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG THỜI KỲ CNH, HĐH 2.1. Thực trạng của HTCT cấp xã và những tác động, ảnh hưởng của nó đến tình hình an ninh, ổn định chính trị - xã hội nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng 2.1.1. Thực trạng của HTCT cấp xã và một số đặc điểm có liên quan đến hoạt động của HTCT cấp xã vùng đồng bằng sông Hồng 2.1.2. Những hoạt động chủ yếu của HTCT cấp xã có ảnh hưởng đến ổn định chính trị - xã hội nông thôn 2.2. Giải pháp kiện toàn HTCT cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ CNH, HĐH 2.2.1. Một số dự báo có liên quan 2.2.2. Một số giải pháp kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá 50 KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 102 5 50 68 83 83 86 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hai năm năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, HTCT và khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố và phát triển, chính trị - xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vị thế nước ta không ngừng được nâng lên, sức mạnh tổng hợp quốc gia được tăng lên rất nhiều, tạo thế và lực mới để tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, thoát khỏi tình trạng khủng khoảng kinh tế - xã hội mới chỉ tái thiết lập được trạng thái ổn định, song sự ổn định đó chưa vững chắc, chưa đáp ứng được sự phát triển của xã hội ở trình độ cao. Những yếu kém, thiếu xót trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, các vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc…đã và đang trở thành những thách thức lớn đan xen nhau rất phức tạp, khó lường. Nếu không có các giải pháp kịp thời khắc phục sẽ trở thành các nhân tố dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội. Bởi vậy, việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội nước ta trong thời kỳ mới được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn và phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nhân dân là điều kiện đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Ngược lại, nông nghiệp, nông thôn không ổn định, đời sống của nông dân không được đảm bảo sẽ tác động xấu đến tình hình kinh tế - xã hội, thậm chí có thể dẫn tới khủng hoảng chính trị xã hội của đất nước. Thực tế những năm qua đã khẳng định, ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vừa là điều kiện đảm bảo đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vừa trực tiếp góp phần quyết định việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên phạm vi cả nước, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng để bước vào thời kỳ mới. Tuy nhiên, dưới tác động của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, thực trạng 6 kinh tế xã hội nông thôn nước ta vẫn đang đứng trước khó khăn, thách thức mới: tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hoá nhanh làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đã tạo ra sự phân hoá giàu nghèo và tình trạng thất nghiệp do lao động xã hội dư thừa, dân chủ ở cơ sở chưa được tôn trọng, quyền lợi của người dân bị xâm hại…Bên cạnh đó, hoạt động tội phạm và các tệ nạn xã hội ngày càng tăng, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế xã hội và công tác tổ chức, điều hành hệ thống chính quyền cơ sở còn nhiều yếu kém. Hệ thống chính sách, pháp luật còn nhiều bất cập, nhất là chính sách về nông thôn, nông nghiệp và nông dân chậm đổi mới. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên năng lực, trình độ yếu, suy thoái về phẩm chất đạo đức dẫn đến tham nhũng, tiêu cực, hách dịch, cửa quyền, ức hiếp quần chúng, vi phạm lợi ích và quyền làm chủ của người dân lao động; trình độ nhận thức của nông dân còn hạn chế dễ bị các phần tử xấu lôi kéo, kích động. Đặc biệt trong những năm gần đây, khu vực nông thôn đã và đang tiềm ẩn những nhân tố mà các thế lực thù địch, các phần tử phản động, cơ hội chính trị và các phần tử xấu khác có thể lợi dụng để gây mất ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Do đó, việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay đang là vấn đề đuợc Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đảm bảo ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn đòi hỏi phải tiến hành nhiều biện pháp, trong đó biện pháp cơ bản là nâng cao chất lượng HTCT cấp xã. HTCT cấp cơ sở là cấp chủ yếu và trực tiếp trong quá trình triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn đến với địa bàn thôn, xã, đến với nông dân. Do vậy hướng về nông thôn, phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân, trước hết phải đặt trọng tâm vào việc kiện toàn HTCT cấp xã. Cùng với cả nước, vùng đồng bằng sông Hồng đang trong quá trình tăng cường, hoàn thiện hơn nữa HTCT cấp xã trên mọi mặt từ hệ thống tổ chức, con người đến cơ cấu, chất lượng và số lượng. Thực tế cho thấy, nơi nào HTCT cấp xã hoạt động hiệu quả thì nơi đó tình hình chính trị - xã hội được giữ vững. 7 Ngược lại, ở đâu HTCT cấp xã hoạt động yếu kém, biểu hiện ở sự kém hoàn thiện về tổ chức, sự chồng chéo về nội dung, phương thức hoạt động, ở việc chưa rõ ràng về chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống cũng như những hạn chế về năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ...nơi đó tình hình chính trị - xã hội bất ổn. Như vậy, HTCT cấp xã hoạt động có hiệu quả hay không có hiệu quả có quan hệ trực tiếp đến ổn định hoặc mất ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta nói chung và nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng. Với những lý do trên, việc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống vấn đề: “Kiện toàn HTCT cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” là cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề giữ vững ổn định chính trị xã hội và vấn đề HTCT nói chung, HTCT cấp cơ sở nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trên lĩnh vực nghiên cứu đã có nhiều công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ dành sự quan tâm phân tích, lý giải về ý nghĩa và tầm quan trọng của ổn định chính trị - xã hội nước ta trong thời kỳ mới. Chẳng hạn, Chương trình KX 05: “HTCT trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta” (Chủ nhiệm chương trình: GS Nguyễn Đức Bình); “Mẫu hình và con đường hình thành cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở” (Chủ nhiệm đề tài: GS, TS Đỗ Nguyên Phương); đề tài: “nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường HTCT ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” (Chủ nhiệm đề tài: GS,TS Hoàng Chí Bảo); đề tài Khoa học cấp Nhà nước KX – 03 – 02: “Xây dựng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ ở cơ sở” (Chủ nhiệm đề tài: PGS,TS Vũ Hiền)…Các đề tài trên đã nghiên cứu một cách cơ bản về HTCT, về cán bộ lãnh đạo, quản lý; thực trạng HTCT và đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp; giải pháp tiếp 8 tục đổi mới, nâng cao chất lượng HTCT và đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nói chung và ở cơ sở nói riêng. Tuy không đề cập trực tiếp đến vai trò của HTCT cấp cơ sở trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nhưng các đề tài trên đã quan tâm nghiên cứu mối quan hệ giữa HTCT trong việc đảm bảo ổn định chính trị ở nước ta; vai trò của HTCT và cán bộ lãnh đạo quản lý ở cơ sở đối với sự phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn. Các đề tài KX 09 – 04: “Chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn, lật đổ và đối sách của ta”; đề tài KX 04 – 14: “Đổi mới chính sách xã hội nhằm đảm bảo an ninh xã hội”; đề tài BA 97 – 104 – 102: “An ninh nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta - thực trạng và giải pháp” (Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Đức Minh); đề tài “Một số nhân tố chủ yếu có khả năng gây mất ổn định chính trị ở nước ta hiện nay” (Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Văn Vĩnh)… đều đề cập đến mối quan hệ giữa giữ vững ổn định chính trị với việc chống lại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; quan hệ mật thiết giữa ổn định, mất ổn định chính trị - xã hội với việc thực hiện các chính sách xã hội; quan hệ giữa ổn định, mất ổn định chính trị với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn… Nhiều nhà khoa học cũng đã đề cập vấn đề ổn định chính trị và vai trò của HTCT ở các lĩnh vực khác nhau. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); Vũ Hoàng Công: “Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải pháp” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông: “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay”; “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”, “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, 2003, 2005); Hoàng Chí Bảo: “Hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta hiện nay” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); Nguyễn Văn Cư “Ổn định 9 chính trị - xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004)…. Trên các tạp chí nghiên cứu, một số tác giả đã đề cập đến vấn đề HTCT và ổn định chính trị - xã hội với phạm vi và các mức độ khác nhau. Chẳng hạn tác giả Lê Hữu Nghĩa: “Vai trò của chính trị trong việc đảm bảo định hướng XHCN”, Tạp chí cộng sản, số 5/1996; Vũ Văn Hiền: “Ổn định xã hội và vai trò của nó đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Triết học, số 2/1997; Nguyễn Văn Huyên: “Về mô hình phát triển đảm bảo sự tiến bộ xã hội”, Tạp chí Triết học, số 2/1998; Nguyễn Văn Cư: “Ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn trước yêu cầu CNH, HĐH”, tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4/1999; Nguyễn Xuân Viện: “Những kinh nghiệm qua việc giải quyết điểm phức tạp về an ninh trật tự tại xã Vân Hội, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Công an nhân dân, số 8/2000; Nguyễn Văn Hải: “Tăng cường đấu tranh chống tiêu cực trong quản lý điện nông thôn là góp phần tích cực làm ổn định an ninh nông thôn”, Tạp chí Công an nhân dân, số 5/2002; Trịnh Thị Giới: “Một số vấn đề rút ra về giải quyết điểm nóng về an ninh trật tự”, Tạp chí Công an nhân dân, số 4/2006; Vũ Xuân Trường: “Một số vấn đề về phát hiện, giải quyết mâu thuẫn, va chạm trong nhân dân giữ gìn trật tự an toàn xã hội tại địa bàn cơ sở”, Tạp chí Công an nhân dân, số 6/2008; Phạm Văn Xuân: “Công tác công an góp phần bảo đảm an ninh nông thôn ở Vĩnh Phúc, thực tiễn và kinh nghiệm”, Tạp chí Công an nhân dân, số 8/2010. Mai Đức Ngọc, luận án tiến sĩ chính trị học, 2007: “Vai trò cán bộ chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay”. Phạm Xuân Nguyên, luận văn thạc sĩ chính trị học, 2009: “Điểm nóng khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đặng Thị Thanh Hoa, luận văn thạc sĩ chính trị học, 2009: “Đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa”… Trong những công trình nêu trên, các tác giả đã phân tích, lý giải khá rõ về ổn định, mất ổn định; vai trò của ổn định chính trị đối với việc đẩy mạnh 10 CNH, HĐH; những nhân tố đảm bảo ổn định chính trị… Vấn đề vai trò của HTCT cấp xã cũng được đề cập và nhấn mạnh như một yêu cầu; một yếu tố trực tiếp đảm bảo thực hiện thành công qua strình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, từ thực tiễn các điểm nóng ở địa bàn nông thôn thời gian qua, nhiều tác giả nhấn mạnh đến tính cấp thiết phải nâng cao HTCT cấp xã, chỉ ra những yếu kém, bất cập của HTCT cấp xã. Một số công trình nghiên cứu về an ninh nông thôn cũng chỉ ra nguyên nhân của việc xuất hiện các điểm nóng, mâu thuẫn nội bộ nhân dân, tình trạng khiếu kiện, xung đột ở nông thôn từ sự yếu kém của HTCT cấp xã; phân tích ảnh hưởng của nó đối vói việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước…Có thể nói vấn đề vai trò của HTCT và ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn đã được đề cập phân tích dưới những góc độ, cấp độ khác nhau, thể hiện sự quan tâm của nhiều tác giả. Song, một sự nghiên cứu trực tiếp về: “Kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” với tư cách là một luận văn Thạc sỹ Chính trị học, thì đây là công trình đầu tiên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của việc kiện toàn HTCT cấp xã trong việc tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, luận văn nêu ra các giải pháp phát huy vai trò của HTCT cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. - Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: + Làm rõ khái niệm HTCT cấp xã và những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của HTCT cấp xã. + Làm rõ cơ sở lý luận về ổn định chính trị - xã hội, ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn; những tiêu chí đánh giá ổn định chính trị xã hội ở nông thôn; mối 11 quan hệ giữa kiện toàn HTCT cấp xã với tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. + Đánh giá thực trạng của HTCT cấp xã và vai trò của nó trong việc giữ vững, tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. + Đề xuất các giải pháp kiện toàn HTCT cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc kiện toàn HTCT cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ CNH, HĐH. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động của HTCT cấp xã đặt trong mối quan hệ với việc giữ vững, tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ CNH, HĐH (từ 2005 đến nay). Đồng thời luận văn chỉ nghiên cứu HTCT ở xã, không bao gồm HTCT ở phường, thị trấn. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nhiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Dưới góc độ Chính trị học, luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về HTCT. Đồng thời luận văn còn kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài đã được công bố. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu các vấn đề trên tôi chủ yếu dự vào phương pháp thu thập và xử lý thông tin dữ liệu. Khi xử lý, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh và các phương pháp xã hội học, phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn, khái quát và so sánh các quan điểm, các nhận 12 xét khác nhau của nhiều tác giả về một vấn đề. Đồng thời kết hợp với kiến thức, kinh nghiệm của bản thân để lập luận, kiến giải các vấn đề đã nêu trên. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Trên cơ sở làm rõ khái niệm HTCT cấp xã, ổn định chính trị - xã hội những biểu hiện ổn định, mất ổn định chính trị - xã hội luận văn chỉ ra mối quan hệ giữa kiện toàn HTCT cấp xã và tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng, theo đó, cơ chế, chức năng vận hành của hệ thống có vai trò quan trọng nhất. Qua đó tìm ra các giải pháp cụ thể nhằm góp phần vào việc kiện toàn HTCT cấp xã khu vực này trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn 2 chương, 5 tiết, 94 trang. 13 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỆN TOÀN HTCT CẤP XÃ VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN 1.1. Kiện toàn HTCT cấp xã 1.1.1. HTCT và đặc điểm HTCT ở Việt Nam 1.1.1.1. Hệ thống chính trị Khái niệm HTCT chưa được C.Mác và Ph.Ăngghen bàn tới trong các văn phẩm của mình. Trong lĩnh vực chính trị, các ông thường dùng thuật ngữ hệ thống khi nói về “hệ thống hành chính quan liêu”, “hệ thống đầy đủ những cấp bậc hay đẳng cấp xã hội”, hệ thống trật tự xã hội mới,… Các quan niệm này có nghĩa rộng hơn so với khái niệm HTCT mà chúng ta dùng hiện nay, đó là chế độ chính trị nói chung bao hàm hệ các các quan hệ giai cấp, quan hệ đẳng cấp. Những khái niệm được các ông dùng gần giống với khái niệm HTCT như chúng ta hiểu hiện nay và có nghĩa hẹp hơn so với khái niệm nêu trên là: Hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thiết chế xã hội và chính trị, cơ cầu nhà nước dân chủ, cơ cấu chính quyền, kết cấu chính trị của xã hội, thể chế nhà nước,… Trong sách báo Mác xít ở các nước xã hội chủ nghĩa (kể cả nước ta) trong nhiều chục năm cũng không có khái niệm này, thay vào đó người ta sử dụng khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản. Cho đến những năm đầu thập kỷ 80 14 của thế kỷ XX, ở Liên Xô, trong các sách báo nghiên cứu pháp lý, các nhà luật học Xô viết mới dùng khái niệm hệ thống chính trị. Trong khi đó, khoa học chính trị ở các nhà nước tư bản chủ nghĩa, ít nhất từ những năm 50 của thế kỷ XX, người ta đã dùng khái niệm này, ví dụ như trong các cuốn sách: The political system of the F.R.G hoặc Le system politique des Etats…. Tuy nhiên, rất khó có thể tìm thấy định nghĩa về khái niệm, song dù sau đó vẫn là những nghiên cứu về các thiết chế và thể chế có chức năng thực hiện hoặc tham gia và quyền lực chính trị, thực hiện sự lãnh đạo, điều hành đất nước. Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm hệ thống chính trị được sử dụng trong Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (năm 1990). Và cho đến nay khái niệm này được sử dụng phổ biến với hai quan niệm sau đây: Quan niệm rộng, coi hệ thống chính trị không chỉ bao gồm các tổ chức, thiết chế, mà còn bao gồm cả các quan điểm, tư tưởng, truyền thống chính trị. Ví dụ, “Hệ thống chính trị là hệ thống các nhân tố bao gồm nhà nước, các đảng phái, công đoàn, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức và phong trào theo đuổi mục đích chính trị, các chuẩn mực, truyền thống và các chế định”. Cũng có người coi hệ thống chính trị của nhân dân dưới mọi hình thức và như vậy bao gồm cả thể chế dân chủ trực tiếp và gián tiếp như trưng cầu ý dân, thăm dò dư luận. v.v… Nhược điểm của quan niệm này là có thể lẫn lộn khái niệm này với khái niệm có tính triết học là thượng tầng chính trị. Quan niệm hẹp, xuất phát từ góc độ Hiến định hoặc pháp định, nghĩa là chỉ xem tổ chức, thiết chế nào được Hiến pháp, pháp luật quy định rõ ràng thì mới thuộc thành phần của hệ thống chính trị. Nhược điểm của quan niệm này là không thấy sự tồn tại và ảnh hưởng thực tế và chính trị của nhiều tổ chức, nhiều thiết chế khác đang tồn tại hiện 15 thực, được xã hội thừa nhận, được nhà nước và bản thân các đảng cầm quyền tạo ra hoặc chấp nhận, mặc dù không ghi nhận về mặt pháp lý. Cả hai xu hướng trên đều không phù hợp với thực tiễn chính trị và mục đích nhận thức của chính trị học. Quan niệm đúng về hệ thống chính trị phải đạt được hai yêu cầu: Một là, phục vụ cho mục đích nhận thức về hệ thống các tổ chức, thiết chế có vai trò thực tế và được thừa nhận trong việc thực hiện quyền lực chính trị hoặc tham gia quyền lực chính trị một cách thường xuyên. Hai là, phải đủ tính khái quát để không chỉ phản ánh hiện thực chính trị ở một hay một nhóm nước mà còn phản ánh được hiện thực chính trị ở nhiều quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Với những yêu cầu đó có thể coi: Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và phong trào xã hội...) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu, chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị. Ở đây cần lưu ý những đặc điểm sau của hệ thống chính trị: - Là tổ chức và thiết chế: nghĩa là tồn tại dưới hình thức vật chất, có bộ máy, chứ không phải là ý thức, tư tưởng. Do đó hệ thống chính trị chỉ là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội chứ không phải toàn bộ, không trùng với thượng tầng kiến trúc xã hội. - Có tính hợp pháp: tính hợp pháp là khái niệm rộng hơn tính Hiến định, pháp định. Điều đó có nghĩa là có những tổ chức dù không được Hiến định, pháp định song được xã hội thừa nhận, và không đối lập với chế độ nhà nước – pháp luật hiện hành, vẫn có thể tham gia vào hệ thống chính trị. Ngược lại nếu đối lập với chế độ nhà nước – pháp luật hiện hành, đấu tranh đòi lật đổ, tiêu diệt chế độ hiện hành thì không thể là thành phần của hệ thống chính trị. - Có mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia vào thực hiện quyền lực chính trị, nghĩa là đang thường xuyên thực hiện hoặc tham gia vào sự lãnh 16 đạo, điều hành đất nước. Đây là điểm để phân biệt với những tổ chức, thiết chế mang tính xã hội, kinh tế, văn hóa … khác. Cần lưu ý, khi nói các tổ chức, thiết chế có chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị thì cũng hàm ý giữa chúng có mối liên hệ nhất định. Do đó, khi nghiên cứu về hệ thống chính trị không thể đề cập tới mối liên hệ có tính chức năng giữa các tổ chức, thiết chế đó. 1.1.1.2. Đặc điểm Hệ thống chính trị ở Việt Nam Có thể nói nói HTCT nước ta về cơ bản được tổ chức gần giống như HTCT nhiều nước. HTCT nước ta bao gồm Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức chính trị, xã hội...Các bộ phận này được kết nối với nhau theo những quan hệ, những cơ chế và nguyên tắc vận hành nhất định, trong một môi trường văn hoá chính trị đặc thù. Chính vì vậy HTCT nước ta có những đặc điểm riêng sau đây: Thứ nhất, HTCT nước ta do duy nhất một Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đặc điểm này vừa mang tính phổ biến đối với HTCT các nước xã hội chủ nghĩa, vừa mang tính đặc thù. Tính đặc thù đó được quy định bởi vai trò, vị trí, khả năng lãnh đạo, uy tín lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, HTCT nước ta là HTCT xã hội chủ nghĩa, được xây dựng theo mô hình Xôviết, mặc dù đang trong quá trình đổi mới hoàn thiện nhưng ảnh hưởng của chế độ tập trung quan liêu, bao cấp trong mô hình ấy đang còn nặng nề cả trong cách nghĩ, cách làm của đảng viên và nhân dân, cũng như tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Thứ ba, nền hành chính nhà nước, một bộ phận quan trọng của nhà nước ta còn rất non trẻ lại hầu như không được kế thừa gì từ quá khứ (chế độ phong kiến), bị ảnh hưởng nặng của mô hình tập trung quan liêu cao độ, nhưng phải thực hiện một loạt nhiệm vụ lịch sử mới mẻ và to lớn. * Cấu trúc của HTCT nước ta: 17 HTCT nước ta về mặt bộ máy (hệ thống thể chế) bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm các đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Trong HTCT nước ta Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của HTCT. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Toà án và Viện Kiểm sát nhân dân) và chính quyền các địa phương. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội nước ta có chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trác nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Nhân dân các địa phương bầu ra Hội đồng nhân dân cấp mình. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương. Hội đồng nhân dân bầu ra Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành chính ở địa phương, chịu 18 trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, có chức năng, nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ta. Hệ thống toà án ở nước ta bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các toà án quân sự và các toà án khác do luật định. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, các viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các viện Kiểm sát quân sự, thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số thành viên của Mặt trận là một bộ phận của HTCT. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư tại nước ngoài. * Các quan hệ chính trị: Trong HTCT nước ta, các quan hệ chính trị được xác lập do một cơ chế chủ đạo: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Đảng lãnh đạo bằng những phương thức sau: - Lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, thông qua các nghị quyết của tổ chức Đảng từ nghị quyết Đại hội Đảng đến nghị quyết chi bộ cơ sở. - Lãnh đạo bằng giáo dục, tuyên truyền vận động nêu gương. - Lãnh đạo bằng công tác tổ chức cán bộ. - Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra. Nhân dân làm chủ được thể hiện: 19 Trước hết được xác định ở địa vị chủ thể quyền lực Nhà nước. Nhân dân làm chủ bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp (thông qua các đại biểu, các cơ quan dân cử và các đoàn thể của dân). Nhà nước quản lý xã hội được thể hiện: Trước hết bằng hệ thống quy phạm pháp luật, bằng hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước từ bộ đến các cơ sở, trong đó không loại trừ các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, quản lý theo theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô hoặc vi mô. Quan hệ giữa nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ phối hợp hành động, thực hiện theo Quy chế phối hợp công tác do Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan hữu quan từng cấp ban hành. Đảng Công sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo Mặt trận vừa là thành viên Mặt trận. Vì vậy quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. 1.1.2. HTCT cấp xã và kiện toàn HTCT cấp xã 1.1.2.1. Hệ thống chính trị cấp xã Theo Hiến pháp và các bộ luật, luật hiện hành ở Việt Nam thì quản lý nhà nước ta được phân làm bốn cấp; cấp trung ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và cuối cùng là cấp xã, phường, thị trấn. Do đó, cấp xã (hay còn gọi là cấp cơ sở), xét theo quan hệ quyền lực, quyền hạn và chức trách của tổ chức Nhà nước, vừa là cấp thấp nhất của quản lý nhà nước, vừa là cấp nhỏ nhất của hệ thống chính trị. Nghiên cứu HTCT ở xã không có nghĩa là tách biệt hệ thống này với HTCT nói chung như đã luận giải trên, mà ngược lại cần xem xét nó trong mối quan hệ tổng thể, theo chiều dọc của từng bộ phận, cũng như xem xét nó qua các mối quan hệ chiều ngang, đan xen giữa các bộ phận cấu thành. Việc tách ra này cần được 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan