Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ năng giao tiếp với dân của cảnh sát khu vực quận thanh xuân...

Tài liệu Kỹ năng giao tiếp với dân của cảnh sát khu vực quận thanh xuân

.PDF
156
1752
108

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Giao tiếp có vai trò rất lớn trong sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Các Mác đã viết: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội ” [25, 257]. Con người luôn sống và hoàn thiện bản thân trong môi trường xã hội, môi trường giao tiếp. Nếu con người ngay từ lúc sinh ra đã bị tách khỏi xã hội loài người, tức là họ không được sống, không được hoạt động và giao tiếp cùng với người khác thì họ không thể tiếp thu, lĩnh hội được những kinh nghiệm lịch sử xã hội để tạo nên “chất người” mà chỉ những con người sống trong xã hội mới có. C.Mác đã chỉ ra rằng: “Hoạt động trong sự giao tiếp trực tiếp với người khác đã trở thành cơ quan biểu hiện cuộc sống của tôi và là một trong những phương thức lĩnh hội kinh nghiệm sống của loài người” [25, 28]. Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu được của con người, đồng thời nó cũng là điều kiện tất yếu của sự tồn tại xã hội loài người. Giao tiếp là điều kiện thiết yếu của mọi hoạt động của cá nhân và xã hội và cùng với hoạt động, giao tiếp đã trở thành phương thức tồn tại của xã hội loài người nói chung và nhân cách của con người nói riêng. Giao tiếp cũng có vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển kỹ năng nghề nghiệp. Nhờ giao tiếp mà cá nhân hình thành và phát triển được phẩm chất và năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trong hoạt động nghiệp vụ của công tác Công an thì giao tiếp lại càng có một ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là trong quan hệ với quần chúng nhân dân. Xuất phát từ quan điểm Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không có sự tham gia tích cực của đông đảo quần chúng lao động thì nhất định cách mạng không thể xảy ra và giành được thắng lợi. Đó là nguyên lý, đường lối và cũng là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn ANTT. Xác định được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đảng ta đã khẳng định: chính nhân dân là người làm nên Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục 2 thắng lợi lịch sử. Với quan điểm này, Đảng, Nhà nước đã, đang và sẽ khơi dậy, phát huy khả năng tiềm tàng và sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt nam Xã hội Chủ nghĩa. Nhận thức được tầm quan trọng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giữ vững an ninh quốc gia và TTATXH, tại hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 43, ngành Công an cũng xác định: Phải chuyển mạnh hoạt động của Công an theo quan điểm lấy dân làm gốc. Thực tiễn đấu tranh bảo vệ ANTT ở nước ta đã chỉ ra: bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH là một nội dung làm chủ của nhân dân; vận động quần chúng giữ gìn ANTT là một hình thức thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, là một biện pháp rất cơ bản trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ANTT. Việc huy động có kết quả đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động quan hệ giao tiếp với quần chúng nhân dân của lực lượng Công an. Hoạt động tiếp xúc với nhân dân là một trong những hoạt động cơ bản, hết sức đa dạng, phức tạp, phong phú, có tính chất thường xuyên, liên tục, lâu dài và là một yêu cầu không thể thiếu được của lực lượng Công an nhân dân nói chung và Cảnh sát khu vực nói riêng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Việc quan hệ tiếp xúc với nhân dân của lực lượng Cảnh sát khu vực không chỉ là hoạt động giao tiếp thông thường trong xã hội, mà còn là một hoạt động mang tính nghiệp vụ sâu sắc. Qua mối quan hệ tiếp xúc này, một mặt Cảnh sát khu vực thực hiện được yêu cầu, nội dung công tác của lực lượng Công an như: thu thập những thông tin, tư liệu, dư luận về những vấn đề liên quan đến ANTT để có biện pháp giải quyết kịp thời. Thông qua quan hệ tiếp xúc với nhân dân, Cảnh sát khu vực nắm được thái độ của họ đối với các chế độ chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau, đồng thời Cảnh sát khu vực có điều kiện tổ chức vận động, hướng dẫn nhân dân chấp hành pháp luật, thu thập nắm tình hình những vấn đề có liên quan đến an ninh, trật tự phục vụ công tác phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống tội phạm góp phần giữ vững an ninh quốc gia và TTATXH. Mặt khác, thông qua tiếp xúc với nhân dân, mối quan hệ chặt chẽ giữa công an với nhân dân ngày càng bền chặt, củng cố được lòng tin 3 của quần chúng nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, đối với ngành Công an và cũng tạo điều kiện xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch vững mạnh. Giao tiếp nói chung và giao tiếp với dân nói riêng của các chiến sỹ Cảnh sát khu vực có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động giữ gìn TTATXH. Người Cảnh sát khu vực không chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính về an toàn trật tự mà còn thực hiện quan hệ xã hội, quan hệ người với người. Hoạt động nghiệp vụ của Cảnh sát khu vực sẽ không mang lại kết quả cao nếu quan hệ giao tiếp với các loại đối tượng, trong đó có quần chúng nhân dân kém hiệu quả. Vì vậy tìm hiểu thực trạng về kỹ năng giao tiếp với dân làm cơ sở đề xuất các biện pháp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc với dân cho lực lượng Cảnh sát khu vực là vấn đề vô cùng cần thiết. Với những lý do trên chúng tôi lựa chọn đề tài: “Kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học tâm lý. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra được yêu cầu và thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng giao tiếp này cho cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực trong quá trình công tác. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong tâm lý học và kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân. Đưa ra hệ thống các kỹ năng giao tiếp với dân cần có trong điều kiện hiện nay của Cảnh sát khu vực. - Khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực thuộc Công an các phường của quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. - Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng giao tiếp với dân cho cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực trong quá trình công tác. 4. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu 4 Kỹ năng giao tiếp với dân. Đề tài đi vào làm rõ yêu cầu và thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực đang công tác trên địa bàn quận Thanh Xuân. 4.2. Khách thể nghiên cứu - Khách thể chính: Cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực đang trực tiếp hoạt động của 03 CAP thuộc quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. - Khách thể phụ: + Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của 03 CAP thuộc khu vực khảo sát tương ứng. + Đại biểu nhân dân thuộc các khu vực khảo sát tương ứng. 4.3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu - Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 30 Cảnh sát khu vực đang trực tiếp hoạt động ở 03 CAP (Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Nhân Chính thuộc quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.) - 06 cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của 03 CAP nói trên. (Trưởng CA Phường, Phó CA phường phụ trách Cảnh sát khu vực.) - 600 đại biểu nhân dân thuộc các thành phần khác nhau của 03 khu vực khảo sát tương ứng (20 dân/ 1 Cảnh sát khu vực.) 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Kỹ năng giao tiếp với dân của các Cảnh sát khu vực là một dạng kỹ năng phức tạp có nhiều đặc thù trong lĩnh vực hoạt động của các chiến sỹ Công an nhân dân. Nếu chúng ta chỉ rõ được các loại kỹ năng này, xác định được yêu cầu, mức độ kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực và những nguyên nhân ảnh hưởng đến nó thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng giao tiếp với dân cho cán bộ chiến sỹ Cảnh sát khu vực, qua đó góp phần rèn luyện kỹ năng này ngay trong quá trình đào tạo cho học sinh chuyên ngành Cảnh sát khu vực trong các trường Công an nhân dân. 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5 Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học như sau: 6 6.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu Bằng phương pháp này, chúng tôi đã khai thác được những vấn đề cơ bản về lý luận giao tiếp trong và ngoài nước. Nghiên cứu giáo trình, các văn bản, chỉ thị của ngành Công an, điều lệnh Cảnh sát khu vực... 6.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu (Anket) Điều tra bằng phiếu trên ba loại khách thể bao gồm: - Mẫu M - 01: Dùng cho Cảnh sát khu vực - Mẫu M - 02: Dùng cho nhân dân thuộc khu vực khảo sát. - Mẫu M - 03a; M - 03b: Dùng cho cán bộ lãnh đạo, chỉ huy CAP. 6.3. Phương pháp trò chuyện và phỏng vấn sâu Chúng tôi sử dụng mẫu P - 01; P - 02, trò chuyện và phỏng vấn sâu với cán bộ Cảnh sát khu vực lâu năm, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy CAP và đại biểu nhân dân thuộc các khu vực được khảo sát. Nội dung trò chuyện và phỏng vấn tập trung vào các vấn đề: - Hiểu về kỹ năng giao tiếp với dân như thế nào? Vai trò của nó trong hoạt động nghề nghiệp của người cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát khu vực ? - Những kỹ năng giao tiếp với dân cần thiết và mức độ thể hiện của chúng ở Cảnh sát khu vực hiện nay? - Những thuận lợi và khó khăn của Cảnh sát khu vực trong quá trình tiếp xúc với dân thuộc khu vực mình phụ trách? Người chiến sỹ Cảnh sát khu vực cần phải như thế nào khi tiếp xúc với quần chúng nhân dân? 6.4 Phương pháp quan sát Bằng cách quan sát các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ của cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát khu vực với nhân dân thuộc địa bàn quản lý, chúng tôi đã thu thập được những thông tin bổ ích nhằm kiểm tra và bổ sung cho các phương pháp trên. 7 6.5. Phương pháp thống kê toán học Chúng tôi sử dụng toán thông kê khi sử lý kết quả nghiên cứu. 7. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Đây là đề tài nghiên cứu tâm lý học đầu tiên về kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực thực hiện trên một địa bàn cụ thể tại Hà Nội là quận Thanh Xuân. Luận văn đã chỉ ra được những kỹ năng giao tiếp với dân cần thiết của Cảnh sát khu vực. Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ xung cho nội dung đào tạo của các nhà trường Cảnh sát nhân dân, giúp đề ra các biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp với dân cho Cảnh sát khu vực và cho các học viên chuyên ngành Cảnh sát khu vực đang học tập trong các trường Công an nhân dân hiện nay. 8 PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Ở nước ngoài Giao tiếp là một trong những hiện tượng tâm lý đặc trưng của con người, nó xuất hiện cùng với sự ra đời của xã hội loài người. Nhưng việc nghiên cứu về giao tiếp với tư cách là một phạm trù khoa học thì chỉ mới được thực sự chú ý trong những năm gần đây. So với nhiều vấn đề khoa học khác, giao tiếp vẫn là một trong những vấn đề mới của khoa học nói chung và của khoa học tâm lý nói riêng. Từ trong lịch sử vấn đề giao tiếp cũng đã được các nhà nghiên cứu xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Ngay từ thời cổ đại, vấn đề giao tiếp chủ yếu được các nhà triết học quan tâm. Hai nhà triết học cổ Hy Lạp Socrate (470 - 399 TCN) và Platon (428 - 377 TCN) đã coi đối thoại như một sự giao tiếp có trí tuệ, phản ánh các mối quan hệ xã hội của con người, là nơi bộc lộ đời sống tâm hồn của con người. Tư tưởng này trong xã hội cổ đại mới chỉ tạo ra bước đầu tiên của việc hiểu biết giao tiếp mà thôi, chưa có những nghiên cứu đi sâu vào vấn đề giao tiếp để tìm ra bản chất của nó, chưa thấy được giao tiếp có ý nghĩa đích thực trong ý thức xã hội. Thế kỷ XVIII, nhà triết học Hà Lan M. P. Kemxtexlokis đã viết một tiểu luận nhan đề “Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác”. Đến thế kỷ XIX, giao tiếp được đánh giá như một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển xã hội loài người nói chung và nhân cách con người nói riêng. Nhà triết học Đức Phơ Bách (1804 - 1872) đã viết: “Bản chất con người chỉ biểu hiện trong giao tiếp, trong sự thống nhất của con người với con người, trong sự thống nhất dựa trên tính hiện thực của sự khác biệt giữa tôi và bạn”. Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục 9 Giữa thế kỷ XIX, kế thừa và phát triển tư tưởng của các nhà triết học đi trước, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nêu ra những phát hiện quan trọng liên quan đến giao tiếp. Trong khi nghiên cứu lịch sử phát triển xã hội loài người, hai ông đã rút ra kết luận rằng: Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một trong hai điều kiện quyết định để biến vượn thành người (điều kiện kia là lao động). Đồng thời C.Mác (1818 - 1883) đã có tư tưởng về nhu cầu xã hội giữa con người với con người. Trong hoạt động xã hội, tiêu dùng xã hội, con người phải giao tiếp thực sự với người khác. ông cũng nhấn mạnh rằng “Sự phát triển của một cá thể phụ thuộc vào sự phát triển của nhiều cá thể khác mà nó đã giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp”.[24, 493] Đến thế kỷ XX, vấn đề giao tiếp ngày càng được các nhà triết học, tâm lý học, xã hội học quan tâm hơn. C.Mít (1863 - 1931) nhà tâm lý học và triết học Mỹ đưa ra thuyết quan hệ qua lại tượng trưng đã khẳng định vai trò của giao tiếp đối với sự tồn tại của con người: “Nếu chúng ta muốn có cái riêng của chúng ta thì phải có cái “tôi” khác. Đó là những khách thể xã hội, khác với những khách thể vật lý, vì nó có khả năng tác động tích cực lên cái “tôi” của người khác mà ngày nay chúng ta thường gọi là chủ thể”. Cac Giatxpe (1883 - 1969) nhà triết học, nhà tâm lý học Đức đưa ra lý thuyết giao tiếp hiện sinh, thuyết này cho rằng con người cần phải giao tiếp với nhau một cách sống động, liên tục qua các cuộc tranh luận về các vấn đề xã hội, đó là điều kiện cho sự tồn tại của con người. Giao tiếp hiện sinh là cuộc trò chuyện giữa những người gần gũi về các vấn đề quan trọng đối với họ. Máctin Bubơ (1878 - 1965) một đại diện khác của triết học hiện sinh trong tác phẩm “Tôi và bạn” đã cho rằng “Tồn tại là đối thoại”, sau trở thành “Nguyên tắc đối thoại” góp phần phát triển lý thuyết giao tiếp. Các nhà triết học hiện sinh Pháp như: J.Macsen (1869 - 1973), J.P.Sáctơrơ (1905 - 1961) và Maniê (1905- 1950) cũng đã nghiên cứu vấn đề giao tiếp xuất phát từ quan điểm của Bubơ, Maniê viết: “Tôi chỉ tồn tại chừng nào tôi tồn tại cho người khác”. 10 Đầu thế kỷ XX, nhà triết học Nga V.M.Becherep (1857-1927) trong tác phẩm “Tâm lý học khách quan” (1907); “ Phản xạ học tập thể” (1921) đã đề cập nhiều đến vấn đề giao tiếp, theo ông đó là ảnh hưởng tâm lý qua lại giữa người này với người kia, giao tiếp giữ vai trò cơ chế thực hiện hoạt động cùng nhau và hình thành nên chủ thể tập thể của hoạt động đó, giao tiếp là điều kiện thực hiện việc giáo dục, truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong những năm đầu thế kỷ XX, khoa học tâm lý đã bắt đầu chú ý nghiên cứu vấn đề giao tiếp. S.Freud (1856 - 1939) người sáng lập ra trường phái phân tâm học đã nghiên cứu mối liên hệ giữa giao tiếp và giấc mơ, ông lưu ý đến các yếu tố “chuyển giao”, “ngoại xuất” và “đồng nhất” trong giao tiếp, khi giao tiếp có người phát tín hiệu, có người nhận thông tin và cả hai bên đều muốn tìm hiểu nhau, làm theo nhau... Còn các nhà tâm lý học Ghestan như M. Wertheimer (1880 - 1943), V.Kửhler (1887 - 1967) và K.Koffka (1886 - 1941) cho rằng: giao tiếp cũng giống như mọi sự vật, mọi hiện tượng tâm lý, đều được tạo nên những hình ảnh có cấu trúc hoàn chỉnh, mang tính trọn vẹn, trong cấu trúc giao tiếp có nội dung hoạt động của con người và mục đích của các quan hệ xã hội là nhằm bảo tồn, phát triển bản thân, gia đình, cộng đồng của con người đó [2, 12]. Giữa thế kỷ XX, một loạt các tác phẩm mới ra đời mở đầu cho sự hình thành một số chuyên ngành khoa học chẳng hạn, nhà bác học Mỹ N.Vinơ với tác phẩm “Điều khiển học” (1948); cuốn “Lý thuyết toàn học của quá trình thông tin” của C.Senen (1949) và tác phẩm “Phác họa lý thuyết chung và hệ thống” (1950). Bắt đầu từ đây, việc nghiên cứu giao tiếp chịu ảnh hưởng thêm của điều khiển học, lý thuyết thông tin và lý thuyết hệ thống. Ở Liên xô (trước đõy), ngay từ những năm 20 - 30 của đầu thế kỷ XX trên cơ sở của triết học Mác xít, giao tiếp đã được xem xét dưới góc độ tâm lý học với các nhà tâm lý học nổi tiếng như L.X. Vưgôtxki; X.L.Rubinxtein; A.N.Lêônchiep... Nhưng phải mãi tới những năm 70 của thế kỷ XX, giao tiếp mới thực sự nổi lên thành một vấn đề lớn và được nhiều nhà tâm lý học Xôviết nghiên 11 cứu bàn luận một cách sôi nổi và sâu sắc. Tại Liên xô trước đây đã tổ chức ba hội nghị bàn về giao tiếp được tổ chức vào tháng 3/1970; 3/1973; 5/1973. Các hội nghị này đã đề cập đến hàng loạt các vấn đề về giao tiếp như: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu giao tiếp; Các phương pháp và các công cụ nghiên cứu giao tiếp; Cơ chế giao tiếp; Ảnh hưởng của đặc điểm cá nhân đối với quá trình giao tiếp; Mô hình hoá quá trình giao tiếp; Sự ảnh hưởng và vi phạm loại hình giao tiếp... Qua các hội nghị này, các nhà tâm lý học Xôviết có dịp trao đổi với nhau, khẳng định tầm quan trọng của giao tiếp và sự cần thiết phải mở rộng các hướng nghiên cứu về giao tiếp theo tư tưởng xuất phát của C.Mác. Từ sau các hội nghị này, hàng loạt các công trình nghiên cứu về giao tiếp ra đời, trong đó phải đặc biệt nói đến: Xacôpnhin với tác phẩm “Về bản chất giao tiếp người” (1973); A.N. Lêônchiep với công trình “Tâm lý học giao tiếp ” (1974) và “Giao tiếp sư phạm” (1979); I.L.Kalaminxki với cuốn “Tâm lý học về các mối quan hệ qua lại trong nhóm nhỏ”; B.F.Lômov với tác phẩm “Giao tiếp là vấn đề của tâm lý học” (1981); K.K. Platonov với tác phẩm “Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học” (1981); Sôlôkhôva có tác phẩm “Những trở ngại tâm lý trong giao tiếp giữa các nhân cách” (1985). Ở phương Tây vấn đề giao tiếp cũng được đề cập trong nhiều công trình của nhiều tác giả như: - Công trình nghiên cứu của Bird Wistell (1970) cho rằng: giao tiếp là một quá trình đa kênh liên tục, sử dụng tất cả các phương thức cảm giác, thị giác, thính giác [dẫn theo 19, 5- 38]. - Năm 1972 Meharabian đã nghiên cứu những chỉ báo phi ngôn ngữ tính trội khi giao tiếp với những loại có các cương vị khác nhau [Dẫn theo 19, 5- 38]. - Nhà bác học Mỹ Halơ đã nghiên cứu từ 1958 - 1975 vấn đề khoảng cách không gian tác động trực tiếp đến thị giác và thính giác trong quá trình giao tiếp [Dẫn theo 16, 191]. 12 - Posman và Allport (1965) có công trình nghiên cứu về tiếng đồn và thông tin truyền miệng trong giao tiếp xã hội [Dẫn theo 16, 191]. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng các nhà tâm lý học đều đi đến thống nhất một nhận định: Giao tiếp có vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển nhân cách của cá nhân và của xã hội loài người. Các công trình nghiên cứu giao tiếp không chỉ dừng lại ở những nghiên cứu lý luận chung mà còn đi sâu vào nghiên cứu giao tiếp theo đặc trưng nghề nghiệp, lứa tuổi... để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Xu hướng đi sâu vào nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp cũng được thể hiện nhiều ở các tác giả Liên Xô (trước đây): A.A.Lêônchiep đã nêu một số kỹ năng giao tiếp sư phạm như: + Kỹ năng điều khiển hành vi bản thân. + Kỹ năng quan sát (phẩm chất chú ý, linh hoạt). + Kỹ năng nhạy cảm xã hội, biết phán đoán nét mặt người khác. + Kỹ năng đọc, hiểu, mô hình hoá nhân cách học sinh. + Kỹ năng làm gương cho học sinh noi theo. + Kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ. + Kỹ năng kiến tạo sự tiếp xúc. + Kỹ năng nhận thức (thu thập, hệ thống hoá và truyền đạt thông tin). I.P.Dakharov đã đề xuất trắc nghiệm nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp, đi vào nghiên cứu 10 kỹ năng giao tiếp cơ bản: 1. Kỹ năng tiếp xúc thiết lập quan hệ. 2. Kỹ năng biết cân bằng nhu cầu cá nhân và đối tượng trong quá trình giao tiếp. 3. Kỹ năng nghe đối tượng. 4. Kỹ năng tự kiềm chế, kiểm tra người khác. 13 5. Kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi. 6. Kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, cụ thể. 7. Kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp. 8. Kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp. 9. Kỹ năng chủ động điều khiển quá trình giao tiếp. 10. Kỹ năng nhạy cảm trong giao tiếp [Xem 17, 157]. Khác với các nhà tâm lý học Xô viết (chủ yếu theo hướng nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp sư phạm), thì trong tâm lý học Mỹ xuất hiện nhiều tác giả nghiên cứu về nghệ thuật giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong quản lý, trong lĩnh vực kinh doanh. Alen Pit, Tiến sĩ tâm lý học Mỹ, tác giả cuốn sách “Ngôn ngữ của cử chỉ - ý nghĩa của cử chỉ chỉ trong giao tiếp” đã đi sâu phân tích phát hiện các trạng thái tâm lý thông qua những động tác, cử chỉ điệu bộ, tư thế của con người trong giao tiếp. Ông cho rằng: “Giao tiếp không bằng lời là một quá trình tác động phức tạp của con người, những động tác, cử chỉ , nét mặt v.v.có một ý nghĩa nhất định, khi hạnh phúc con người mỉm cười, khi buồn thì chau mày, khi giận dữ thì có cái nhìn bực tức; gật đầu là đúng, lắc đầu là sai”[29, 14]. Nghiên cứu giao tiếp trong quản lý và kinh doanh, trên cuốn “Tiếp xúc mặt đối mặt trong quản lý” Đ.Tôlinhtơn đã phân tích các hình thức tiếp xúc thường gặp giữa người quản lý và người bị quản lý, từ đó người quản lý cần có những kỹ năng giao tiếp với người dưới quyền [45, 119]. Đ.Cacnơgie tác giả cuốn “Đắc nhân tâm” thì lại không đi sâu phân tích lý luận giao tiếp mà chủ yếu đưa ra những nghệ thuật, những bí quyết trong quan hệ giao tiếp giữa con người và con người. Để thu hút được đối tượng giao tiếp, con người cần phải có nghệ thuật và kỹ năng giao tiếp nhất định, ông đã đưa ra 6 cách gây thiện cảm trong giao tiếp: 1. Thành thật, quan tâm đến người khác. 14 2. Biết thể hiện nét mặt tươi cười khi tiếp xúc. 3. Cố gắng biết tên đối tượng và xưng tên họ khi tiếp xúc. 4. Biết chăm chú lắng nghe, khuyến khích đối tượng nói chuyện về họ. 5. Nói với người ấy về sở thích, hoài bão của họ. 6. Thành thật là cho họ thấy sự quan trọng của họ. [7, 98] Giáo sư tâm lý học Nam Tư Pripa Misic mới đây cho xuất bản cuốn “Nghệ thuật đàm thoại”. Tác giả đã nghiên cứu sâu vấn đề giao tiếp đàm thoại trong đàm phán kinh doanh, ông đã chia quá trình đàm thoại thành các giai đoạn và mỗi giai đoạn có những kỹ thuật và kỹ năng giao tiếp tương ứng đó là: - Giai đoạn mở đầu đàm thoại. - Giai đoạn truyền đạt thông tin. - Giai đoạn lập luận. - Giai đoạn vô hiệu hoá ý kiến đối phương. - Giai đoạn ra quyết định và kết thúc đàm thoại. [27, 29]. 1.1.2. Ở Việt Nam - Nghiên cứu chung về giao tiếp. Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp cũng chỉ được nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu từ cuối những năm 70. Nghiên cứu giao tiếp phát triển mạnh mẽ và đi theo nhiều xu hướng khác nhau, bao gồm cả những công trình nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn. Có thể kể ra một số công trình như: Tác giả Đỗ Long với bài viết: “C.Mác và phạm trù giao tiếp” (1963); Phó giáo sư Trần Trọng Thuỷ: “Giao tiếp - tâm lý - nhân cách” (1981); “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên” (1985); “Nhập môn khoa học giao tiếp” (1995); Bùi Văn Huệ với “Bàn về phạm trù giao tiếp ” (1981); Phó Tiến sỹ Ngô Công Hoàn “Giao tiếp sư phạm” (1992); Nguyễn Văn 15 Lê: “Vấn đề giao tiếp” (1992); “Tâm lý học giao tiếp” (1993) của Trần Tuấn Lộ; Nguyễn Quang Uẩn :“Giao tiếp và tâm lý’ (1998). Ngoài ra còn một số các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh, sinh viên và các báo cáo khoa học về vấn đề giao tiếp như: Lê Xuân Hồng: “Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi” (1994), luận án PTS tâm lý học; Nguyễn Thanh Bình: “Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp sư phạm” (1997), luận án PTS tâm lý học; Đào Thị Oanh: “Giao tiếp và sự hình thành nhân cách thiếu niên” (1999), luận án TS tâm lý học; Nguyễn Xuân Thức: “Nghiên cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ” (1997), luận án PTS tâm lý học; Hoàng Văn Học: “Đặc điểm giao tiếp của người cảnh sát khu vực” (1998); Nguyễn Liên Châu: “Đặc điểm giao tiếp của hiệu trưởng trường tiểu học” (2000), luận án TS tâm lý học; Nguyễn Thị Thanh Hà: “Vấn đề giao tiếp của bác sỹ quân y với người bệnh trong quá trình khám và chữa bệnh” (2000), luận án TS tâm lý học; Hoàng Thị Bích Ngọc: “Đặc điểm giao tiếp của trẻ em phạm tội mức độ ít nghiêm trọng” (2000), luận án TS tâm lý học. - Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp. Ở nước ta trong những năm gần đây cũng đã có các tác giả bắt đầu đi vào nghiên cứu sâu về kỹ năng giao tiếp trong một số lĩnh vực, nghề nghiệp cụ thể. Phó Giáo sư Trần Trọng Thuỷ trong bài: “Tình người, giao tiếp và văn hoá giao tiếp” (1998) đã phân tích mối quan hệ giữa tình người, văn hoá và giao tiếp, trong đó tác giả có viết: “ Văn hoá giao tiếp có liên quan mật thiết với kỹ năng giao tiếp, có một số kỹ năng giao tiếp đặc trưng của con người như: kỹ năng chỉnh sửa các ấn tượng ban đầu của mình về người khác khi mới làm quen với họ; kỹ năng bước vào giao tiếp với người khác một cách không có định kiến. Những kỹ năng giao tiếp này không có sẵn, mà thông qua học tập và rèn luyện” [41, 21-23] Tác giả Nguyễn Đình Xuân trong “Giáo tình tâm lý học quản lý” cũng có đề cập đến một số kỹ thuật giao tiếp như: “lựa chọn địa điểm, thời gian tiếp khách, 16 làm chủ cảm xúc của mình trong tiếp xúc, thuật nghe và dẫn dắt người để moi tin, những điểm cần chú ý khi kết thúc tiếp xúc...” [48, 215] Trong cuốn: “Giáo trình Tâm lý và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh doanh du lịch” , tác giả Nguyễn Văn Đính đi sâu phân tích một số đặc trưng trong giao tiếp du lịch, trong đó có kỹ năng giao tiếp của người hướng dẫn viên: “Người hướng dẫn viên du lịch biết rèn luyện một số kỹ năng giao tiếp để thu hút khách (Kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển giao tiếp)” [12, 67]. Tác giả Mai Hữu Khuê với cuốn “Những cơ sở khoa học của quản lý kinh tế” cho rằng người lãnh đạo cần có một số kỹ năng giao tiếp sau: “Kỹ năng hiểu nhu cầu lo lắng của đối tượng, giúp cán bộ quản lý xác định hành động khi gặp gỡ; kỹ năng thể hiện sự quan tâm với cấp dưới; kỹ năng lắng nghe; kỹ năng nghiên cứu con người” [18, 98]. Tiến sỹ Thái Chí Dũng trong tác phẩm “ Kỹ năng giao tiếp và thương lượng trong kinh doanh” và Phó Tiến sỹ Đinh Văn Tiến với “Nghệ thuật đàm phán trong kinh doanh” đã quan tâm trình bày một số kỹ năng giao tiếp trong công trình của mình: Kỹ năng nghe mà hình thức cao nhất là nghe thấu cảm, trong đó có một số kỹ năng: Kỹ năng biểu lộ sự quan tâm, kỹ năng gợi mở, kỹ năng phản ánh. Kỹ năng đặt câu hỏi. Kỹ năng diễn thuyết và báo cáo miệng (kỹ năng nói). Kỹ năng giao dịch bằng thư tín (kỹ năng viết). [9, 91] [44, 113] Hai tác giả Nguyễn Xuân Thơm và Nguyễn Văn Hồng với “Kỹ thuật đàm phán thương mại quốc tế” cũng nêu lên 10 kỹ thuật giao tiếp căn bản, trong đó nhà kinh doanh có thể vận dụng để đạt được thành công trong đàm phán thương mại [38, 151]. Hoàng Anh trong cuốn: “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, luận án PTS tâm lý học đã nêu ra 03 nhóm các kỹ năng giao tiếp sư phạm: + Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp. 17 + Nhóm kỹ năng điều khiển bản thân. + Nhóm kỹ năng điều khiển đối phương. [2, 38]. Tác giả Võ Sĩ Lục trong luận án TS tâm lý học “Kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ của trinh sát an ninh và phương pháp đánh giá chúng” cũng đưa ra 13 kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ cần thiết của trinh sát an ninh [23, 51]. Từ những công trình đã dẫn ra ở trên, có thể thấy rằng vấn đề giao tiếp, kỹ năng giao tiếp đã được rất nhiều tác giả luận bàn cả ở trong nước và ở nước ngoài. Đã có nhiều các công trình nghiên cứu, các cuốn sách giá trị, các luận án...đề cập đến hiện tượng này ở nhiều góc độ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Tuy vậy, trong lĩnh vực giao tiếp vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải tiếp tục bàn luận để có sự thống nhất. Khái niệm giao tiếp, kỹ năng giao tiếp vẫn cần phải tiếp tục được làm rõ. Đặc biệt việc nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong một loại hình hoạt động cụ thể như kỹ năng giao tiếp với dân của cán bộ, chiến sỹ cảnh sát khu vực, cho đến nay, chưa có công trình nào tiến hành nghiên cứu. Vì vậy, công trình mà chúng tôi tiến hành là hoàn toàn cần thiết nhằm chỉ rõ những kỹ năng giao tiếp với dân của cảnh sát khu vực, qua đó góp phần bồi dưỡng và rèn luyện các kỹ năng giao tiếp với dân cho các học viên cảnh sát ngay trong quá trình đào tạo tại trường. 1. 2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.2.1. Giao tiếp 1.2.1.1. Khái niệm giao tiếp Giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của tâm lý học, là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp, được xem xét dưới những góc độ khác nhau. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, mỗi định nghĩa đều thể hiện một quan điểm riêng và xét dưới cấp độ nào đó đều có tính hợp lý của nó. Chính vì vậy, hiện nay trong tâm lý học vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn về khái niệm giao tiếp . 18 Qua tìm hiểu chúng tôi thấy các nhà tâm lý học tiếp cận vấn đề giao tiếp theo các hướng quan niệm sau. Hướng thứ nhất: Chú ý nhiều đến sự tác động, sự truyền và tiếp nhận thông tin giữa người với người. đại diện là các tác giả E.E.Acquyt, M.Acgain, P.Oathavut, G.Branh, D.Giacson... Chẳng hạn tác giả G.Thines cho rằng giao tiếp là sự truyền đạt thông tin, trong đó trạng thái của hệ thống phát thông tin ảnh hưởng tới trạng thái của hệ nhận tin [19, 6]. Còn các tác giả E.E.Acquyt, M.Acgain quan niệm: giao tiếp là sự tác động, sự truyền và tiếp nhận thông báo, sự trao đổi thông tin của con người. Ba nhà tâm lý học người Pháp P.Oathavut, G.Branh, D. Giacson coi giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên diễn ra giữa các con người với nhau, quá trình này tổ hợp nhiều hành vi khác nhau: Hành vi ngôn ngữ, hành vi điệu bộ, hành vi cử chỉ [Dẫn theo 2, 11]. Tác giả Nguyễn Khắc Viện đã nhấn mạnh giao tiếp phi ngôn ngữ là những biểu diễn thông qua cơ thể như những cử động, tư thế [19, 10]. Toàn bộ cách giải thích trên đây về giao tiếp có phần đúng nhưng chưa đầy đủ, phiến diện, một mặt làm cho nội hàm khái niệm giao tiếp bị thu hẹp, coi giao tiếp đơn thuần là từng mặt riêng lẻ như sự thông báo, sự trao đổi thông tin hay tổ hợp hành vi... Hơn nữa nếu chỉ phân tích như các tác giả trên thì có nghĩa là mới chỉ dừng lại ở việc mô tả bên ngoài, chưa vạch rõ bản chất bên trong của giao tiếp. Hướng thứ hai: Các tác giả theo hướng này có xu thế mở rộng khái niệm giao tiếp, đồng nhất giao tiếp với giao lưu, vì vậy họ đã xem giao tiếp là một hiện tượng tâm lý có chung ở cả người và động vật. Đại diện là các tác giả B.V.Xocolov trong cuốn sách Văn hoá và nhân cách ông cho rằng: “Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau giữa những con người và giữa những động vật có tâm lý với nhau”, nếu thu hẹp hơn có thể hiểu “giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với những động vật nuôi trong nhà” [47]. Hai tác giả J.Bremont (1971) và R.Chakin trong các công trình nghiên cứu đã dùng thuật ngữ “giao tiếp thính giác ở chim” và “giao tiếp ở khỉ” để mô tả khía cạnh thông báo giữa các động vật [32, 48]. Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục 19 Xu hướng mở rộng khái niệm giao tiếp đã làm mất đi bản chất xã hội của giao tiếp người, không thấy được sự khác nhau về chất giữa giao tiếp của con người với sự thông báo ở động vật. Hướng thứ ba: Trên cở sở thấy được ưu, nhược điểm hai xu hướng trên, các nhà tâm lý học của hướng này xem giao tiếp là quá trình hiện hoá các mối quan hệ xã hội giữa người với người, trong đó bao gồm nhiều quá trình diễn ra như trao đổi thông tin, nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Các nhà tâm lý học của hướng này cũng phủ nhận giao tiếp là sự tiếp xúc giữa động vật với nhau. Bởi vì về bản chất hai hiện tượng này khác hẳn nhau, giao tiếp là hiện tượng chỉ có ở con người. V.N.Panpherov cho rằng: “Giao tiếp là sự tác động qua lại của con người. Nội dung của nó là sự nhận thức qua lại và trao đổi thông tin nhờ sự giúp đỡ của những phương tiện khác nhau của sự thông báo với mục đích xây dựng mối quan hệ qua lại có lợi đối với quá trình hoạt động nói chung” [51]. G.M. Andreeva xem: “giao tiếp có ba mặt quan hệ hữu cơ với nhau, đó là mặt thông tin, mặt tri giác của con người đối với con người, mặt tác động qua lại của con người với nhau” [1, 137] B.D.Parưgin: “Giao tiếp là quá trình tác động lẫn nhau, trao đổi thông tin, ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhận thức lẫn nhau” [2,14]. B.Ph.Lomov trong cuốn “Những vấn đề giao tiếp” định nghĩa: “Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tư cách chủ thể” . Còn L.V. Bueva định nghĩa: “Giao tiếp là tính hiện thực được quan sát trực tiếp, là sự cụ thể hoá tất cả các mối quan hệ xã hội, là sự nhân cách hoá, là hình thái nhân cách của các mối quan hệ đó” [49]. I.A.Kolominxki cho rằng: giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng giữa con người với con người, trong đó những quan hệ liên nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành [2,14]. Ở Việt Nam, các nhà tâm lý học cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong một số bài viết và giáo trình tâm lý học trước đây thường dùng thuật 20 ngữ “giao lưu” hoặc “giao tiếp” để chỉ mối quan hệ tiếp xúc tâm lý và tác động qua lại giữa con người với con người. Việc dùng thuật ngữ có khác nhau nhưng xét về nội hàm của khái niệm thì các tác giả đều thống nhất với hướng thứ 3 trong 03 hướng nêu trên. Tác giả Ngô Công Hoàn đã coi giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người và con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp . GS.TS Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Giao lưu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa con người với nhau” [14, 44-45] Hai tác giả Nguyễn Thạc và Hoàng Anh định nghĩa: “Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau” [39, 5-7] Hoàng Anh trong luận án của mình có viết: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý, tạo nên quan hệ giữa hai người hoặc nhiều người với nhau, chứa đựng một nội dung xã hội - lịch sử nhất định, có nhiều chức năng: tác động, hỗ trợ, cùng nhau, thông báo, điều khiển, nhận thức, hành động và tình cảm... nhằm thực hiện mục đích nhất định của một hoạt động nhất định” [2,21] Trong cuốn tâm lý học đại cương, Giáo sư Nguyễn Quang Uẩn định nghiã: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau hay nói khác đi giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác” [46, 49]. Nói tóm lại, hiện nay còn tồn tại rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, điều đó chứng tỏ giao tiếp là một hiện tượng rất phức tạp. Mặc dù quan niệm về giao tiếp chưa có sự thống nhất hoàn toàn, song nhìn chung các nhà tâm lý học Mác xít ở Việt Nam đều có những điểm chung là công nhận giao tiếp là sự tiếp xúc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan