VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VŨ PHAN
LỄ CẤP SẮC CỦA NGƯỜI DAO
TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành: NHÂN HỌC
Mã số:
62 31 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phạm Quang Hoan
2. PGS. TS. Hà Đình Thành
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận án là kết quả của quá trình điều tra thực địa và thu
thập tư liệu của tác giả luận án.
NGHIÊN CỨU SINH
Nguyễn Vũ Phan
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án tiến sĩ Nhân học về đề tài: Lễ cấp sắc của
người Dao tỉnh Tuyên Quang, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
- Học viện Khoa học xã hội và các thầy, cô, Khoa Dân tộc học và Nhân
học đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập
và thực hiện luận án.
- Tập thể hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Hoan và
PGS.TS. Hà Đình Thành đã tư vấn, định hướng khoa học rõ ràng cho tôi
trong quá trình học tập và thực hiện luận án. Tập thể hướng dẫn đã có
những ý kiến tư vấn về chuyên môn và đóng góp trực tiếp vào các nội dung
nghiên cứu của luận án.
- Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
Tuyên Quang, các đồng nghiệp nơi tôi công tác, đã tạo điều kiện và thời
gian để tôi hoàn thành chương trình học tập và thực hiện luận án.
- Lãnh đạo và nhân dân các địa phương trong tỉnh Tuyên Quang, hai
tỉnh Hà Giang và Bắc Kạn, nơi tôi thực hiện khảo sát, thu thập tài liệu, tiến
hành nghiên cứu đã nhiệt tình giúp đỡ và cộng tác giúp đỡ tôi hoàn thành
luận án.
- Gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ, động viên tôi trong
suốt thời gian thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2016
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Vũ Phan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
ĐỊA BÀN VÀ TỘC NGƯỜI NGHIÊN CỨU ..................................................... 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu........................................................... 11
1.2. Cơ sở lý thuyết ..................................................................................... 19
1.3. Khái quát về người Dao ở Việt Nam và tỉnh Tuyên Quang ................. 28
Tiểu kết chương 1................................................................................................. 39
Chương 2: QUY TRÌNH THỰC HÀNH CỦA LỄ CẤP SẮC ............................ 41
2.1. Những vấn đề chung ............................................................................. 41
2.2. Các nghi thức diễn ra trong lễ cấp sắc.................................................. 45
2.3. Các nghi thức diễn ra trong lễ cấp sắc của các nhóm Dao ................... 59
2.4. Một vài so sánh lễ cấp sắc giữa hai nhóm phương ngữ………………88
2.5. So sánh lễ cấp sắc ba đèn của người Dao Tiền ở tỉnh Tuyên Quang với
lễ cấp sắc ba đèn của người Dao Tiền ở tỉnh Bắc Kạn............................... 92
2.6. So sánh lễ cấp sắc ba đèn của người Dao Áo Dài ở Tuyên Quang với lễ
cấp sắc ba đèn của người Dao Áo Dài ở tỉnh Hà Giang .............................. 94
Tiểu kết chương 2................................................................................................. 96
Chương 3: CÁC GIÁ TRỊ CỦA LỄ CẤP SẮC ................................................... 97
3.1. Tiền đề của sự biến đổi ......................................................................... 97
3.2. Các khía cạnh biến đổi trong lễ cấp sắc ............................................. 100
3.3. Nguyên nhân của sự biến đổi………………………………………..104
3.4. Các giá trị của lễ cấp sắc hiện nay............................................................ 104
Tiểu kết chương 3............................................................................................... 117
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ............................................................ 119
4.1. Những kết quả nghiên cứu đạt được .................................................. 119
4.2. Một số vấn đề bàn luận....................................................................... 124
4.3. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị trong lễ cấp sắc ..... 128
Tiểu kết chương 4............................................................................................... 146
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA NGHIÊN CỨU SINH ..... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 152
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 163
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
KT-XH: Kinh tế - xã hội
PTBVVH: Phát triển bền vững văn hóa
TCH: Toàn cầu hóa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bức tranh đa dạng về cơ cấu tộc người và văn hóa tộc người ở tỉnh
Tuyên Quang, người Dao là tộc người có nhiều nhóm địa phương nhất. Đây cũng
là tộc người cho đến nay vẫn còn duy trì được nhiều nét văn hóa đặc sắc, ngay cả
trong bối cảnh không gian sinh tồn, điều kiện kinh tế - xã hội của người Dao đã
và đang có nhiều thay đổi.
Một trong những sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người Dao là lễ cấp sắc,
thường gọi là quá tăng nghĩa là "qua đèn". Đây là nghi lễ được coi là chấm dứt
thời "thơ ấu" của một chàng trai Dao. Từ đây anh ta được đặt tên mới, tên cấp
sắc, được thực hiện nghĩa vụ bình thường của một người đàn ông trong cộng
đồng: đi xa, làm nhà, làm thầy cúng và khi chết "hồn" mới được trở về quê
hương "Dương Châu Đại Điện"... Nói cách khác, chỉ khi được cấp sắc, vai trò
của người đàn ông Dao mới chính thức được cộng đồng, xã hội thừa nhận.
Lễ cấp sắc giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Dao,
là sinh hoạt mang tính bắt buộc đối với người đàn ông Dao. Lễ này còn hàm chứa
các giá trị văn hoá được chắt lọc, kết tinh qua nhiều thế hệ người Dao như phong
tục tập quán, tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật..., có tác động sâu sắc đến việc hình
thành diện mạo văn hoá của cộng đồng người Dao ở Tuyên Quang, đồng thời là
một trong những thành tố văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, hợp thành, thống nhất
trong sự đa dạng của nền văn hoá các dân tộc Việt Nam.
Lễ cấp sắc là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng
người Dao, nên nó đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
như Dân tộc học/Nhân học, Văn hóa học, Tôn giáo học… Ở mỗi lĩnh vực nghiên
cứu, ở mỗi thời kỳ, do điều kiện kinh tế, xã hội ảnh hưởng, chi phối, các nhà
khoa học lại có những góc nhìn, những quan niệm khác nhau về giá trị của lễ cấp
sắc. Có những giai đoạn do nhận thức sai lệch về việc bảo tồn văn hóa dân tộc,
góp phần lễ cấp sắc bị cho là mê tín dị đoan, gây lãng phí thời gian và tiền bạc
nên đã bị đối xử như một hủ tục lạc hậu cần phải loại bỏ, hoặc có làm thì cũng bị
cắt gọt, biến đổi không còn giữ được bản sắc riêng và có lẽ vì thế những giá trị
văn hóa độc đáo này đã bị mai một.
1
Mặt khác, do chính sách mở cửa, giao lưu và hội nhập, những năm gần đây,
việc khôi phục, phát triển một cách thiếu chọn lọc, thiếu sự nghiên cứu kỹ lưỡng nên
các giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có lễ cấp sắc có xu hướng vượt ra ngoài phạm
vi quản lý nhà nước. Cấp sắc đã không được tổ chức theo đúng như những giá trị mà
nó vốn có, nhiều yếu tố ngoại lai đã xuất hiện. Hiện tượng đó đã gây khó khăn cho
các cơ quan quản lý văn hóa trước một vấn đề cần phải giải quyết.
Nghiên cứu, tìm hiểu lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang còn khẳng
định những giá trị đặc sắc của nó và cung cấp những luận cứ khoa học, giúp các
cấp chính quyền địa phương tìm ra các giải pháp bảo tồn, lựa chọn kế thừa một
cách phù hợp, đúng đắn các giá trị văn hoá dân tộc truyền thống, đồng thời loại
bỏ những yếu tố không còn phù hợp để hướng tới mục tiêu xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần lành mạnh ở cơ sở, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, góp phần xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh
đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) và hội nhập hiện nay.
Truyền thống văn hoá của người Dao đã có từ lâu đời, trở thành một bộ phận
không thể tách rời của văn hoá các dân tộc ở Việt Nam. Những giá trị văn hoá được
lưu truyền từ đời này sang đời khác, trải qua những thăng trầm biến động của lịch
sử, được chắt lọc, bổ sung trở thành bản sắc văn hoá rất riêng của người Dao. Việc
nhận diện đầy đủ và nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về lễ cấp sắc của người
Dao ở Tuyên Quang sẽ góp phần khẳng định tính đa dạng và phong phú của nền văn
hoá Việt Nam, "đa dạng trong thống nhất" và "thống nhất trong đa dạng".
Với mục đích đó, tác giả chọn Lễ cấp sắc của người Dao tỉnh Tuyên
Quang làm luận án tiến sĩ Nhân học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xác định những đặc điểm cơ
bản của lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang. Trên cơ sở đó, khẳng định
những giá trị văn hoá, làm rõ tác động về mặt xã hội của lễ cấp sắc trong bối
cảnh hội nhập, giao lưu văn hóa hiện nay của người Dao ở Tuyên Quang.
2
- Cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phát huy những giá trị đặc sắc
của lễ cấp sắc, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị
của lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang trong xu thế hội nhập và phát triển.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và hệ thống hoá các tư liệu về lễ cấp sắc của người Dao ở tỉnh
Tuyên Quang.
- Phân tích mối quan hệ của lễ cấp sắc với đời sống của người Dao, lễ cấp
sắc với môi trường tự nhiên, xã hội và môi trường văn hóa.
- Xác định những giá trị của lễ cấp sắc trong đời sống hiện nay, những biến
đổi của lễ cấp sắc trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá của người Dao với các
tộc người cư trú trong vùng.
- Chỉ ra những tương đồng và khác biệt trong lễ cấp sắc giữa các nhóm Dao
ở tỉnh Tuyên Quang.
- So sánh lễ cấp sắc ba đèn của người Dao Tiền ở Tuyên Quang với lễ cấp
sắc ba đèn của người Dao Tiền ở Bắc Kạn; So sánh lễ cấp sắc ba đèn của người
Dao Áo Dài ở Tuyên Quang với lễ cấp sắc ba đèn của người Dao Áo Dài ở Hà
Giang.
- Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị trong lễ cấp sắc
của người Dao tỉnh Tuyên Quang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là lễ cấp sắc của người Dao ở tỉnh Tuyên
Quang, trong đó đi sâu tìm hiểu loại hình lễ cấp sắc của một số nhóm Dao, diễn biến
và những biến đổi của lễ cấp sắc ở một số địa phương trong tỉnh Tuyên Quang.
- Luận án cũng chú ý đến các loại hình lễ cấp sắc của người Dao ở một số
tỉnh lân cận như: Hà Giang; Bắc Kạn... để so sánh, tìm ra những nét đặc trưng
nhất trong lễ cấp sắc của người Dao và những giá trị của nó phục vụ việc xây
dựng đời sống văn hoá mới ở nông thôn miền núi hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án là lễ cấp sắc của người Dao ở
Tuyên Quang, trong đó chú trọng nghiên cứu bối cảnh không gian, diễn biến và
3
những biến đổi của lễ cấp sắc trong truyền thống và hiện đại để thấy rõ các giá trị
văn hoá, xã hội cũng như sự ảnh hưởng của lễ cấp sắc trong đời sống cộng đồng
người Dao nói riêng, trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, luận án còn đề cập phần nào tới lễ cấp sắc của người Dao ở một
số vùng thuộc các tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn để có sự so sánh, làm rõ những điểm
tương đồng và khác biệt trong lễ cấp sắc của người Dao.
Về thời gian nghiên cứu, tác gỉa giới hạn nội dung nghiên cứu lễ cấp sắc
của người Dao ở Tuyên Quang trong giai đoạn trước Đổi mới và từ thời kỳ Đổi
mới(năm 1986) đến nay. Đó là khoảng thời gian mà văn hóa truyền thống tộc
người, trong đó có lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang một mặt vẫn lưu giữ
được những yếu tố truyền thống, nhưng mặt khác cũng xuất hiện sự biến đổi do
bị tác động của một số nhân tố khách quan và chủ quan, nhất là quá trình biến đổi
sâu sắc về kinh tế - xã hội, văn hóa ở vùng đồng bào Dao mang lại.
3.3. Địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu chính của luận án là tỉnh Tuyên Quang, nơi có nhiều
nhóm Dao cư trú đông nhất trong cả nước và lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên
Quang vẫn duy trì được khá nhiều nét nguyên bản, đặc sắc đến ngày nay. Đó là
các huyện có người Dao cư trú tập trung nhất, bao gồm các huyện: Na Hang,
Lâm Bình, Yên Sơn, Hàm Yên và Sơn Dương. Cụ thể:
- Tại huyện Na Hang: Tác giả luận án nghiên cứu tập trung vào hai xã: Sơn
Phú và Hồng Thái. Địa bàn này chủ yếu nghiên cứu lễ cấp sắc của hai nhóm Dao
Đỏ và Dao Tiền.
Huyện Na Hang có số dân là: 59.951 người. Trong đó người Dao có 15.419
người, đa số thuộc nhóm Dao Đỏ và Dao Tiền. Nhóm Dao Đỏ sống chủ yếu ở xã
Sơn Phú; còn nhóm Dao Tiền chủ yếu sinh sống ở xã Hồng Thái. Người Dao ở
Na Hang sống bằng nghề nông nghiệp. Chủ yếu canh tác lúa nước, ngoài ra còn
làm nương rẫy, trồng rừng. Do cư trú ở nơi cách thành phố Tuyên Quang hơn
160 km nên người Dao ở xã Sơn Phú và xã Hồng Thái còn giữ được hầu hết
phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hóa, trong đó có lễ cấp sắc một cách
nguyên bản, ít bị biến đổi.
4
Xã Sơn Phú được coi là nơi đầu tiên người Dao Đỏ đến sinh sống ở Na
Hang. Hiện dân số người Dao Đỏ có 1960 người, chiếm 82% dân số xã. Lễ cấp
sắc của người Dao Đỏ ở đây vẫn được duy trì thường xuyên, kể cả những năm bị
hiểu lầm, coi là mê tín dị đoan và bị cấm đoán. Hiện có trên 50% số đàn ông Dao
đã được cấp sắc.
Xã Hồng Thái cũng được coi là nơi đầu tiên người Dao Tiền đến sinh sống
ở Na Hang. Dân số là người Dao Tiền có 1.070 người, chiếm 80 % dân số của cả
xã. Số đàn ông Dao Tiền ở Hồng Thái đã được cấp sắc là khoảng 62%. Xã hiện
có ba thầy cúng có thể làm lễ cấp sắc cho đàn ông Dao.
- Tại huyện Lâm Bình: Tác giả luận án tiến hành nghiên cứu tại xã Thổ
Bình, nơi tập trung sinh sống của nhóm Dao Đỏ. Số dân người Dao Đỏ tại đây là:
1.053 người, chiếm trên 40 % dân số của xã. Người Dao ở đây 100% làm ruộng
nước, trong đó có trên 40 % đàn ông Dao đã được cấp sắc. Lễ cấp sắc tại Thổ
Bình vẫn được duy trì và có những nét riêng khác với lễ cấp sắc của nhóm Dao
Đỏ ở nơi khác.
- Tại huyện Yên Sơn: Tác giả luận án tập trung nghiên cứu ở xã Trung
Minh, nơi có nhiều người thuộc nhóm Dao Cóoc Mùn sinh sống. Trung Minh
được cho là địa danh có người Dao đến sinh sống sớm nhất trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang. Toàn xã hiện có 1.497 người Dao Coóc Mùn, trong đó có gần
60% đàn ông đã được cấp sắc. Lễ cấp sắc của nhóm Dao Cóoc Mùn được cho là
có nhiều điểm khác biệt so với các nhóm khác về đối tượng thụ lễ. Hiện có bốn
thầy cúng vẫn thường xuyên thực hành lễ cấp sắc cho đàn ông Dao trong vùng.
- Tại huyện Hàm Yên: Tác giả luận án nghiên cứu ở xã Yên Thuận, vì nơi đây
được gọi là "thủ phủ" của người Dao Áo Dài của Tuyên Quang. Hiện toàn xã có
2.284 người Dao Áo Dài, trong đó có trên 50% đàn ông Dao đã được cấp sắc. Lễ
cấp sắc của nhóm Dao Áo Dài ở Yên Thuận có nhiều nét đặc trưng riêng tương đối
nguyên bản, có nhiều chi tiết cổ xưa.
- Tại huyện Sơn Dương: Tác giả luận án tập trung nghiên cứu lễ cấp sắc của
nhóm Dao Quần Chẹt ở khu vực phía Nam của huyện gồm các xã Hợp Hòa, Thanh
Phát. Số người Dao Quần Chẹt ở xã Hợp Hòa hiện có 793 người, trong đó có 35 %
đàn ông đã qua lễ cấp sắc. Lễ cấp sắc của nhóm Dao Quần Chẹt bao chứa nhiều chi
5
tiết phong phú và được thể hiện thông qua các hoạt động gần với văn nghệ dân gian.
Đó cũng là nét đặc sắc của nhóm Dao này.
Tại Sơn Dương, tác giả luận án còn khảo cứu thêm lễ cấp sắc của nhóm
Dao Thanh Y, hiện có mặt tại xã Minh Thanh. Lễ cấp sắc cho đàn ông Dao
Thanh Y tuy không phong phú như lễ cấp sắc của các nhóm Dao khác, nhưng có
thể tìm thấy trong đó những yếu tố khác biệt để so sánh.
- Tại tỉnh Hà Giang: Trước đây do hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang là
một (gọi là tỉnh Hà Tuyên) nên khi tách ra, Hà Giang cũng có những nhóm Dao
giống như ở Tuyên Quang. Tuy nhiên trong quá trình chia tách, các nhóm Dao bị
phân tán, sống xen kẽ với các dân tộc khác, nên lễ cấp sắc cũng đã có những biến
đổi. Việc khảo sát tìm hiểu lễ cấp sắc của người Dao ở Hà Giang sẽ giúp cho tác
giả có cái nhìn so sánh và bổ sung vào luận án những tư liệu phong phú hơn. Tại
Hà Giang, tác giả luận án nghiên cứu nhóm Dao Áo Dài ở thôn Nặm Đăm, xã
Quản Bạ, huyện Quản Bạ. Hiện nay thôn Nặm Đăm có 49 hộ Dao Áo Dài với
240 nhân khẩu. Trên địa bàn hiện có khoảng ba thầy cúng là người Dao thuộc các
nhóm Dao Đỏ và Dao Áo Dài. Cấp sắc vẫn được coi là nghi lễ bắt buộc đối với
mọi đàn ông Dao trong vùng.
Tại tỉnh Bắc Kạn: Tác giả luận án nghiên cứu nhóm Dao Tiền khu vực hồ
Ba Bể. Theo thống kê của huyện Ba Bể hiện có 10.963 người Dao Tiền sinh sống
tại đây [84]. Người Dao Tiền chủ yếu làm ruộng nước. Một số làm nghề rừng.
Một bộ phận nhỏ tham gia các hoạt động phục vụ du lịch lòng hồ. Tuy nhiên theo
truyền thống, người đàn ông Dao vẫn được cấp sắc. Do môi trường sống chi
phối, lễ cấp sắc của người Dao Tiền có những biến đổi rất đáng quan tâm. Những
sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của các nhóm Dao tại khu vực lòng hồ Ba Bể có
những đặc trưng gắn với sông nước vùng lòng hồ và tất nhiên có sự ảnh hưởng
tới việc thực hành lễ cấp sắc. Đó cũng là những chi tiết thuận lợi trong việc so
sánh của luận án.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận của luận án
Tác giả luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩ duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để nhận diện,
6
nghiên cứu lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang từ những chiều cạnh khác
nhau, trong sự vận động, biến đổi từ truyền thống đến hiện nay, dưới tác động của
các yếu tố khách quan và chủ quan. Tác giả cũng rất chú trọng vận dụng những
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa dân tộc, về vai trò của
văn hóa trong phát triển cũng như việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc
người theo tinh thần Nghị quyết Trung ương năm, khóa VIII Về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết Trung
ương chín, khóa XI Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã dân tộc học: Đây là phương pháp chủ đạo đã được
tác giả luận án tiến hành nghiên cứu lễ cấp sắc tại các xã Sơn Phú, Hồng Thái
thuộc huyện Na Hang, nơi có hai nhóm: Dao Đỏ và Dao Tiền sinh sống. Tại
huyện Yên Sơn, tác giả nghiên cứu lễ cấp sắc tại xã Lang Quán, nơi có nhóm
Dao Quần Trắng sinh sống. Tại huyện Lâm Bình, tác giả nghiên cứu lễ cấp sắc
của nhóm Dao Đỏ ở xã Thổ Bình và một số xã như: xã Minh Hương, huyện Hàm
Yên, nơi có nhóm Dao Tiền sinh sống; các xã Kháng Nhật, Hợp Hòa, Thiện Kế
thuộc huyện Sơn Dương, nơi có nhóm Dao Quần Chẹt; xã Bình Yên, huyện Sơn
Dương, nơi có nhóm Dao Thanh Y.
Ngoài tỉnh Tuyên Quang, tác giả đã tiến hành nghiên cứu lễ cấp sắc của
người Dao tại thôn Nặm Đăm, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang; huyện Ba Bể,
tỉnh Bắc Kạn.
Tại các điểm nghiên cứu, tác giả luận án đã tiến hành quan sát tham dự,
cùng ở, cùng ăn, cùng tham gia vào những sinh hoạt với người Dao trong một
thời gian, vào những thời điểm khác nhau. Bằng cách này, tác giả có điều kiện
tiếp xúc trực tiếp và hiểu văn hóa của các nhóm Dao một cách sâu sát hơn, đặc
biệt là có cơ hội được quan sát và tham dự một số lễ cấp sắc.
Trong mỗi đợt điền dã, tác giả luận án đã tiến hành phỏng vấn sâu, phỏng
vấn hồi cố với các đối tượng khác nhau bằng những câu hỏi mở đã được chuẩn bị
trước nhằm thu thập thông tin liên quan đến lễ cấp sắc. Đối tượng phỏng vấn sâu
trước hết là các thầy cúng, những người am hiểu về phong tục tập quán của
7
người Dao; những người đàn ông đã trực tiếp thực hành nghi lễ của cấp sắc;
những cán bộ quản lý văn hóa tại địa phương và những người tham gia tổ chức lễ
cấp sắc.
Một số cuộc thảo luận nhóm cũng đã được tổ chức tại các bản người Dao
nhằm thu thập các thông tin đảm bảo tính khách quan và đa chiều về lễ cấp sắc,
những vấn đề đặt ra liên quan đến cách thức bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ
cấp sắc trong điều kiện hiện nay. Các nhóm thảo luận được lựa chọn theo giới
tính, nhóm tuổi, nhóm đối tượng thầy cúng, chủ hộ gia đình,…
Trong thời gian điền dã, nghiên cứu tại cộng đồng, tác giả luận án cũng đã
quay phim, chụp ảnh các lễ cấp sắc, lựa chọn các hình ảnh đẹp, tiêu biểu, phù
hợp để minh họa cho nội dung của luận án.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để so sánh giữa lễ
cấp sắc của các nhóm Dao ở Tuyên Quang và so sánh giữa lễ cấp sắc ba đèn của
người Dao ở Tuyên Quang với lễ cấp sắc ba đèn của người Dao ở Bắc Kạn và Hà
Giang.
- Phương pháp chuyên gia: Tác giả luận án đã gặp gỡ, trao đổi, xin ý kiến
về các nội dung nghiên cứu của luận án với các chuyên gia nghiên cứu về lễ cấp
sắc của người Dao, đặc biệt đi sâu tìm hiểu về bản chất của lễ cấp sắc cũng như
vai trò của nó trong đời sống tinh thần của người Dao trước kia và hiện nay.
- Phương pháp thu thập, hệ thống hóa và phân tích nguồn tư liệu có sẵn:
Tác giả luận án đã kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về tộc người Dao
ở Việt Nam nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng, sử dụng tư liệu về lễ cấp
sắc của người Dao từ các cơ quan nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đi trước ở
Trung ương và tỉnh Tuyên Quang cũng như ở một số địa phương khác.
Với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên, có thể thấy rằng, luận
án sử dụng chủ yếu nguồn tư liệu đã thu thập được trong quá trình điền dã tại các
địa bàn sinh sống của người Dao, cùng với kế thừa một phần luận văn thạc sỹ của
tác giả đã hoàn thành năm 2001. Ngoài ra, tác giả luận án còn sử dụng các nguồn
tài liệu bao gồm các văn bản về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
của chính quyền địa phương về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà sưu tầm, nghiên
8
cứu văn hóa đã công bố cũng được tác giả luận án kế thừa. Đặc biệt qua các đợt
khảo sát điền dã tại cơ sở, tác giả luận án đã thu thập, đánh giá, phân tích các tư
liệu từ các thầy cúng, các nghệ nhân là người Dao, trong đó có thêm phần tham
khảo các sách cổ qua phần trình bày, giới thiệu của họ.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Trên cơ sở khảo sát, tập hợp, phân loại và trình bày về lễ cấp sắc của các
nhóm Dao ở Tuyên Quang, luận án cung cấp cho ngành Nhân học những tư liệu
mới, cập nhật về nét văn hóa đặc trưng riêng, đồng thời cũng là điểm khác biệt
của người Dao với các tộc người khác ở Việt Nam.
- Luận án đã phân tích làm rõ các giá trị văn hoá trong lễ cấp sắc của người
Dao, từ đó xác định nét văn hoá chung và riêng, rút ra một số nhận xét khẳng định
diện mạo và bản sắc văn hoá của người Dao, góp phần bổ sung tư liệu làm cơ sở cho
việc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện về văn hóa của người Dao ở Tuyên
Quang nói riêng, trên phạm vi cả nước nói chung.
- Từ góc độ tiếp cận Nhân học/Dân tộc học, luận án tiếp tục bổ sung những
giá trị đặc trưng cơ bản của lễ cấp sắc của người Dao trong mối quan hệ văn hoá
tộc người, cộng đồng và xác định rõ những biến đổi trong quá trình tiếp biến văn
hóa, rút ra những giá trị của lễ cấp sắc và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của lễ cấp sắc trong bối cảnh xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Tuyên Quang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Từ kết quả nghiên cứu đạt được, luận án đã đề xuất một số quan điểm và
giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn, phù hợp, khả thi nhằm góp phần bảo
tồn và phát huy các giá trị của lễ cấp sắc của người Dao trong bối cảnh hiện nay.
- Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho việc tham khảo trong hoạch định và
cụ thể hóa chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống qua lễ
cấp sắc của người Dao, góp phần phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội (KT-XH), văn hóa một cách bền vững.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
kết cấu thành 4 chương:
9
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, địa bàn và tộc
người nghiên cứu
Chương 2: Quy trình thực hành của lễ cấp sắc
Chương 3: Các giá trị trong lễ cấp sắc của người Dao
Chương 4: Kết quả và bàn luận
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, ĐỊA
BÀN VÀ TỘC NGƯỜI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam
1.1.1.1. Các nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử tộc người
Từ trước đến nay, hầu hết các nghiên cứu về người Dao đều cho rằng,
người Dao đến Việt Nam từ Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc. Dựa trên
thư tịch và sử sách…thì người Dao và người Hmông có xuất xứ từ một cội
nguồn. Các nhà nghiên cứu đặt chung trong hệ ngôn ngữ Mông - Dao. Cho tới
nay, chưa có tài liệu nào xác định chính xác người Dao di cư tới Việt Nam vào
thời điểm nào, phần lớn cho rằng, ít nhất từ thế kỷ thứ XI, rõ rệt hơn là từ thế kỷ
XIII, người Dao đã có mặt tại Việt Nam [33;38;134;135].
Theo một số nhà nghiên cứu người Pháp, trong đó có Auguste Bonifacy
đã có những công trình nghiên cứu về người Dao rất nổi tiếng như: Một cuộc
công cán ở vùng người Mán từ tháng mười 1901 đến cuối tháng giêng 1902
[6],Giản chí về người Mán Cao Lan [7], Giản chí về người Mán Quần Cộc [8]...
Auguste Bonifacy đã giới thiệu khá chi tiết về những sinh hoạt văn hóa, đời sống
của người Dao như: kiến trúc nhà ở, trang phục, đời sống xã hội, tôn giáo tín
ngưỡng, tri thức dân gian, văn học nghệ thuật... Hạn chế của Auguste Bonifacy là
luôn mang tư tưởng của chủ nghĩa thực dân nên việc đánh giá những giá trị văn
hóa của người Dao chưa chính xác. Ông cho rằng, người Dao là một dân tộc lạc
hậu, phải được khai hóa văn minh, thậm chí ông còn nhầm lẫn giữa người Cao
Lan với người Dao.
Nhà nghiên cứu nổi tiếng Maurice Abadie đã xuất bản công trình Les
Mans du Haut- Tonkin (Người Dao ở vùng cao Bắc Kỳ) vào năm 1922 [1]. Sự
mô tả chi tiết về các nhóm dân tộc cho thấy những nghiên cứu của ông rất
nghiêm túc và có giá trị. Tuy nhiên, công trình của Maurice Abadie cũng chỉ
dừng lại ở việc nhận diện những đặc điểm văn hóa có tính chất tổng quát và ông
11
cũng có những nhầm lẫn khi cho rằng, người Dao cùng nhóm với dân tộc Pà
Thẻn và Cao Lan.
Một số nhà nghiên cứu dân tộc học Xô Viết trước đây đã đề cập tới người
Dao ở Việt Nam, trong đó đáng chú ý là các tác giả A.I. Lexkinen; N.N.Tsebocxrov;
J.A. Tsebocxrova. Tuy nhiên, họ cũng chỉ đề cập đến vấn đề nhân chủng và miêu tả
khá sơ lược về một số phong tục tập quán và trang phục của một số nhóm Dao. Tiêu
biểu là công trình Chủng tộc, Dân tộc, Văn hóa của hai nhà nghiên cứu N.N.
Tsebocxrov và J.A. Tsebocxrova xuất bản năm 1971 [111].
Trong Hội thảo Quốc tế lần thứ VII về người Dao, tổ chức tại thành phố
Thái Nguyên năm 1995 [53], các nhà nghiên cứu quốc tế đã có những tham luận
khá sâu sắc về người Dao như: Ý nghĩa đặc điểm và nội dung văn hóa truyền thống
dân tộc Dao của Lý Thanh Nghị (Trung Quốc); Mấy vấn đề người Dao di cư vào
Việt Nam của Trương Hữu Tuấn (Trung Quốc); "Khái quát về di sản văn hóa Dao
và hiện đại hóa ở Việt Nam của Jacques Lemoine (Pháp). Đây là những tham luận
cung cấp những tư liệu quý về vấn đề di cư của người Dao đến các nước Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam và những vấn đề đặt ra cho văn hóa người Dao
trong bối cảnh hiện đại hóa ở Việt Nam. Mặc dù vậy, các tác giả cũng chỉ dừng lại
ở một số nhận định có tính chất khái quát về nguồn gốc của người Dao và phỏng
đoán con đường di cư của họ tới Việt Nam là chính, còn những vấn đề về phong
tục, tập quán, thành phần các nhóm Dao ở Việt Nam... lại chưa được đi sâu phân
tích một cách chi tiết, thấu đáo và chưa làm rõ được những giá trị văn hóa độc đáo
của người Dao trong quá trình biến đổi, giao thoa tiếp biến văn hóa.
Ở giai đoạn phong kiến, có các công trình nghiên cứu đề cập đến người
Dao như: Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (1777), Hưng Hóa phong thổ lục
của Hoàng Chính Bình (1778), Hưng Hóa ký lược của Phạm Thận Duật (1856),
Đại Nam nhất thống chí hay Phong thổ ký Tuyên Quang. Trong các công trình
này, người Dao được coi là những nhóm Mán: Mán Sơn Đầu, Mán Đại Bản, Mán
Quần Đen, Mán Quần Trắng… Nhìn chung, những công trình này chỉ có giá trị
về mặt lịch sử, còn nội dung rất mờ nhạt, sơ lược. Các tác giả đã không miêu tả
cụ thể về những phong tục, tập quán của người Dao, lại càng không có những
đánh giá xác đáng hoặc bày tỏ quan điểm về nếp sống, lối sống của người Dao.
12
Cách mạng Tháng Tám thành công mang lại sự hồi sinh và phát triển của
các ngành nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, trong đó có lĩnh vực nghiên cứu về
dân tộc. Ngành Dân tộc học ra đời đáp ứng nhiệm vụ cung cấp các luận cứ khoa
học cho vấn đề dân tộc ở nước ta, giúp Đảng và Nhà nước có những chính sách
phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa vùng đồng bào dân
tộc. Nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc, trong đó đề cập đến người Dao ra
đời như: Nguồn gốc lịch sử và sự di cư của người Mán ở Việt Nam của Mạc
Đường (1959), Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam của Lã Văn Lô, Nguyễn Hữu
Thấu, Mai Văn Trí, Ngọc Anh, Mạc Như Đường (1959); Qua nghiên cứu bình
Hoàng Khoán Điệp, thử bàn về gốc tích người Dao (Mán) của Trần Quốc Vượng
(1963), Về vấn đề xác minh tên gọi và phân loại các ngành Dao ở Tuyên Quang
của Phan Hữu Dật, Hoàng Hoa Toàn (1968), Người Dao ở Việt Nam của Bế Viết
Đẳng, Nông Trung, Nguyễn Khắc Tụng, Nguyễn Nam Tiến (1971), Các dân tộc
ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) của Viện Dân tộc học (1978)….
Nhiều nhà nghiên cứu đầy nhiệt huyết khác cũng đã có những công trình
nghiên cứu về người Dao, tiêu biểu như: Bàn Tài Đoàn, Đoàn Thiện Thuật, Mai
Ngọc Chừ, Hà Văn Viễn, Hà Văn Phụng, Nguyễn Đình Khoa, Nguyễn Ngọc
Thanh, Vương Xuân Tình... Gần đây, có thêm những công trình nghiên cứu về
người Dao rất có giá trị như:" Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam"
của Nông Quốc Tuấn (2003), "Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang" do
Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý đồng chủ biên (1999), "Những bài ca
giáo lý: Sách cổ người Dao" do Trần Hữu Sơn chủ biên (2009)...
Về tên gọi, theo Bàn Thị Tư thì chỉ nên căn cứ vào ý thức tự giác của cộng
đồng. Người Dao đã tự gọi mình là "Yêu Miền", "Lào Miền", "Xì Pêu Miền", thì
đó là tên chính thức của họ. Không nên gán cho họ những cái tên khác, có khi lại
mang hàm ý miệt thị họ. "Yêu Miền","Lào Miền","Xì Pêu Miền", dịch ra tiếng
Kinh đều có nghĩa là Dao [119, tr. 41-45].
Về sự có mặt của người Dao ở Việt Nam thì tư liệu sớm nhất được tìm
thấy trong truyện thơ lịch sử về người Dao: Truyện Đặng Hành và Bàn Đại Hộ,
do Triệu Hữu Lý sưu tầm và dịch [61].
13
Theo Ngô Đức Thịnh, nguồn gốc của người Dao được mô tả khá kỹ trong
truyện thơ Đặng Hành và Bàn Đại Hộ. Theo đó, tất cả các nhóm Dao đều có chung
nguồn gốc từ Bàn Hồ. Bàn Hồ là một con "Long Khuyển" mình dài ba thước, lông
đen vằn vàng mượt như nhung từ trên trời giáng xuống trần được Bình Hoàng yêu
quý nuôi trong cung. Chiến tranh nổ ra giữa Bình Hoàng và Cao Vương. Bàn Hồ nhận
lời đi giết Cao Vương. Bình Hoàng đồng ý và hứa gả cung nữ cho Bàn Hồ nếu Bàn
Hồ giết được Cao Vương. Sau bảy ngày bảy đêm bơi qua biển, Bàn Hồ đến được nơi
Cao Vương ở. Thấy con chó đẹp, Cao Vương cho là điềm lành và giữ lại nuôi trong
cung. Một hôm nhân Cao Vương say rượu, Bàn Hồ cắn chết Cao Vương và đem đầu
về báo công với Bình Hoàng. Bình Hoàng giữ lời hứa gả cung nữ cho Bàn Hồ. Bàn
Hồ đem cung nữ về sống ở núi Cối Kê (Triết Giang - Trung Quốc). Vợ chồng Bàn Hồ
sinh được sáu con trai, sáu con gái. Bình Hoàng ban sắc cho con cháu Bàn Vương
thành 12 họ. Riêng con cả mang họ cha...con cháu Bàn Vương ngày càng sinh sôi nảy
nở khiến nhà vua phải cấp " Quá sơn bảng văn" để người Dao phân tán đi các nơi
kiếm ăn...một bộ phận người Dao đã di cư xuống phía Nam tới các nước Đông
Dương, trong đó có Việt Nam [97, tr. 120-125].
Sau Cách mạng tháng Tám đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
khá toàn diện về người Dao. Các tác giả đã cung cấp nhiều tư liệu quý hiếm về
đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của các nhóm Dao có mặt ở Việt Nam. Điều đó
đã giúp tác giả luận án có nguồn tư liệu phong phú để thực hiện đề tài của riêng
mình, tìm hiểu chi tiết một sinh hoạt văn hóa có tính chất hạt nhân của người
Dao. Đó là Lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về văn hóa của người Dao ở Việt Nam
Tại Hội thảo Quốc tế lần thứ VII về “Sự phát triển văn hóa xã hội của
người Dao: Hiện tại và tương lai” tổ chức tại thành phố Thái Nguyên năm 1995
[53], nhiều nhà khoa học trong nước đã trình bày những tham luận có giá trị,
phản ánh toàn diện nỗ lực của giới nghiên cứu khoa học về vấn đề người Dao.
Trong đó đề cập tới tất cả các lĩnh vực: nguồn gốc lịch sử, quá trình thiên di, đời
sống kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán, lối sống, văn hóa, tri thức dân gian...
của người Dao. Các tác giả đã cho thấy một cái nhìn tổng thể về người Dao ở
14
- Xem thêm -